Tục truyền tháng bảy mưa ngâu.
Trong
các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm
nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước
bắc qua giải Ngân-hà; hai tâm hồn lẻ loi cô độc, hằng đêm tư lự trong
nỗi sầu ly biệt thiên thu giữa bầu trời cao rộng, chọn mùa mưa sụt sùi
để gặp nhau, chỉ trong một thoáng chốc, rồi đời cũng như con nước trôi
xuôi… Đây đó, giữa những cụm rừng khuya u tịch, vẫn còn có những oan hồn
cô độc, lần mò tìm lại nẻo sống của một thời xa xưa. Kẻ chết và người
sống, khéo hẹn nhau để chu tất những món nợ ân tình đã từng chôn sâu
dưới lòng đất. Khi đêm càng về khuya, âm hưởng trầm buồn của người sống
phảng phất trong lễ cúng thí cô hồn chen lẫn với tiếng trùng nỉ non, thì
tình tự của kẻ sống và người chết càng nghe ra khúc điệu tha thiết vô
cùng:
Dấu người thập loại biết là đâu
Hồn phách mơ màng trải mấy thu
Cồn biển nghinh ngang bầu thế giới
Những mồ vô chủ thấy mà đau[1]
Trong
các lễ cúng thí cô hồn, trai đàn chẩn tế được tổ chức quy mô nhất. Nó
bao hàm cả hai khía cạnh văn chương và triết lý, gần như tất cả tinh hoa
của tư tưởng và văn học Phật giáo Đại thừa Mật tông được gói trọn vào
đây.
I
Về
hình thức, trai đàn này dựa trên nền tảng của triết học Mật giáo. Tức
bố trí theo một hình thức đơn giản của mạn-đà-la (maṇḍala)[2]. Đó là một
vòng tròn, được tượng trưng như một đóa hoa sen nở trọn, và vòng tròn
này là căn bản vũ trụ luận của Mật giáo. Thông thường, có hai bộ
mạn-đà-la. Kim cang giới mạn-đà-la (vajradhātu-maṇḍala) biểu tượng cho
trí tuệ sở chứng của Phật. Thai tạng giới mạn-đà-la
(garbhadhātu-maṇḍala) biểu tượng cho phương tiện độ sinh của Ngài[3].
Mỗi mạn-đà-la đều dựa trên một số chủ điểm tư tưởng của Đại thừa giáo.
Chủ điểm đáng ghi nhớ nhất, đại lược như sau.
Trước
hết, chúng ta nên biết rằng theo quan điểm truyền thống của Phật giáo,
vũ trụ gồm hai thành phần. Một đằng là nhân cách, tức lấy con người hay
các loài hữu tình làm bản vị, mà trên hết, lấy nhân cách của Phật làm
biểu hiệu cho bản thể tuyệt đối. Đằng khác nữa, là thế giới của nhân
cách, là những pháp sở chứng và thọ dụng bất khả tư nghị của Phật. Nhân
cách có năm yếu tố, gọi là năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Chúng
tập họp thành một bản ngã giả tưởng nên được gọi là uẩn. Thế giới của
nhân cách được cấu tạo bởi năm yếu tố, gọi là năm đại[4]: địa, thủy,
hỏa, phong và không.
Trên
cơ sở giáo nghĩa này, trước hết mạn-đà-la của Kim cang giới được thiết
lập để biểu hiện trí tuệ sở chứng của Phật. Kim cang là loại chất rắn
không bị bất cứ gì hủy hoại được. Do đó kim cang được vận dụng như một
khái niệm cụ thể hoá yếu tính tồn tại của Phật thân, gọi là Kim cang bất
hoại thân (vajrasaṃhatanakāya). Thân ấy, cũng như thân của tất cả mọi
loài chúng sinh, đều do năm uẩn, và năm đại cấu thành. Nhưng tồn tại của
Phật thân không khác biệt với hoạt dụng của Phật trí. Do đó, năm đại
tương ứng với năm trí (pañca jñānāni). Và nhân cách của Phật, như là
chỉnh thể thống nhất của tồn tại và nhận thức, được biểu hiện thành năm
đức Như lai tương ứng, tức là Ngũ trí Như lai, hay năm vị Thiền Phật
(pañca dhyānibuddhāḥ)
Kim
cang giới mạn-đà-la thuyết minh hoạt dụng của trí tuệ sai biệt trong lý
tính không sai biệt, do đó Ngũ trí Như lai là trọng tâm của mạn-đà-la
này. Hình dạng cơ bản là một hình tròn, gọi là nguyệt luân
(candra-maṇḍala). Bên trong hình tròn này thiết lập các biểu tượng của
năm vị Như lai. Chính giữa là vị trí đức Đại Tỳ-lô-giá-na, hay Đại Nhật
Như-Lai (MahāVairocana-Tathāgata). Đó là Pháp thân Phật
(DharmakāyaBuddha), như mặt trời bủa rộng ánh sáng bình đẳng và bao dung
cùng khắp cả vũ trụ. Trong năm đại, Ngài biểu tượng cho không đại
(ākāśadhātu), và bản chất của hư không là bao dung. Trong năm uẩn, Ngài
là biểu tượng của thức uẩn (vijñāna-skandha). Trong năm loại trí, Ngài
biểu tượng cho Pháp giới thể tánh trí (dharma-dhātu-svabhāva-jñāna).
Bốn phương chung quanh Đại Nhật Như lai là vị trí của bốn đức Như lai, theo thứ tự từ Đông qua Nam cho đến Bắc như sau:
A-Súc-Bệ
Phật (Akṣobhya), hay Bất-Động Như Lai với các biểu tượng: Phong đại
(vāyu-dhātu), nhờ đó mà vũ trụ có vận động; hành uẩn (saṃskāra-skandha),
động cơ tạo tác của các loại hữu tình; đại viên cảnh trí
(ādarśa-jñāna), như tấm gương tròn bao la và ngời sáng phản chiếu mọi
hiện tượng sinh thành và hủy diệt của thế giới.
Bảo
Sinh Phật (Ratnasambhava) với các biểu tượng: hỏa đại (tejo-dhātu), khả
năng làm chín muồi để đưa đến chỗ thành tựu các vận động của chúng sinh
và thế giới; tưởng uẩn (saưjñā-skandha), khả năng truy ức quá khứ và
ước vọng tương lai để thúc đẩy sự tiến hành sinh hóa; bình đẳng tánh trí
(samatā-jñāna), khả năng quan sát bình đẳng các pháp không bị ràng buộc
ngã và pháp.
A-di-đà
Phật (Amitabhā): thủy đại (ab-dhātu), khả năng kết hợp các pháp để tác
thành duyên sinh hay duyên khởi; thọ uẩn (vedana-skandha), khả năng
hưởng thụ thành quả của các vận động; diệu quán sát trí
(pratyavekśaṇā-jñāna), nhìn thấy rõ chân tướng của vạn hữu của tác dụng
sinh khởi, tồn tại và hủy diệt.
Bất
Không Thành Tựu Như lai (Amoghasiddhi): địa đại (pṛthivī-dhātu), khả
năng duy trì sự tồn tại của vũ trụ; sắc uẩn (rūpa-skandha), tác thành
thế giới hữu tình; thành sở tác trí (kṛtyānuṣṭhāna-jñāna), thể hiện các
phương tiện giáo hóa chúng sinh.
Mỗi
đức Như lai đều có bốn Bồ tát thân cận. Tất cả là mười sáu Đại bồ tát.
Ngoài ra, nội đàn có bốn cúng và ngoại đàn bốn cúng; tất cả tám cúng
dường bồ-tát. Cùng với bốn Nhiếp bồ tát nữa. Cơ bản, Kim cang giới
mạn-đà-la có tất cả ba mươi bảy tôn vị.
Thai
tạng giới biểu hiện đại bi tâm của Phật, từ đó lưu xuất tất cả các
phương tiện độ sinh. Từ Thai tạng giới, vạn pháp được thai nghén và
dưỡng dục, cho đến thành tựu các phẩm chất siêu việt của đại trí và đại
bi. Do đó, đàn tràng của Thai tạng giới được hình dung là một đóa sen có
tám cánh. Đóa sen tám cánh này chính là hình ảnh trái tim bằng thịt của
chúng sinh. Đại bi tâm không phải là một khái niệm trừu tượng, nhưng là
sự rung động của trái tim bằng thịt ấy. Hoa sen, theo ý nghĩa nhân quả
đồng thời, nghĩa là khi chúng sinh vừa phát tâm bồ-đề, ngay lúc ấy Phật
quả đã được thành tựu. Bởi vì, trong thể tính tuyệt đối, ý niệm về thời
gian và không gian không tồn tại. Từ ý nghĩa đó, tám cánh sen gồm bốn
Đại Bồ tát, và bốn đức Như lai, biểu hiện nhân cách của nhân và quả; tất
cả đều phát xuất từ thể tính của Đại Nhật Như lai vốn là đài sen, ở
trung tâm của mạn-đà-la.
Bốn đức Như lai, theo thứ tự từ Đông qua Bắc như sau:
Phương
đông, Bảo Tràng Phật (Ratnaketu). Ngài là hình ảnh của bồ đề tâm
(bodhicitta). Bảo tràng làm tiêu xí cho sự phát bồ đề tâm. Dưới cội bồ
đề, Như lai đã dương cao tiêu xí này mà đánh bại binh chúng Ma, thành
tựu Vô thượng Chánh giác.
Phương
nam, Khai Phu Hoa Vương Như lai (Kusumita-rāja), an trụ trong ly cấu
tam-muội (vimala-samādhi), bằng hạt giống bồ-đề tâm mà vun trồng và phát
triển thành vô số hành động của đại bi, như đóa hoa nỡ rộ.
Phương
tây, Vô Lương Thọ Như lai (Amitayus), biểu hiện Báo thân hay Thọ dụng
thân của Phật (Sambhoga-kāya), kết quả của vô số công đức tu tập, với
hình ảnh hoa sen hàm tiếu.
Phương
bắc, Thiên Cổ Lôi Âm Phật (Divyadundubhi), biểu hiệu phẩm tính của Niết
bàn; được ví dụ như chiếc trống trời, vốn không hình tướng nhưng âm
vang rền xa. Đó là pháp âm của Như lai được công bố.
Ở
bốn phương góc là bốn Đại Bồ tát. Phương đông nam, Phổ Hiền Bồ-tát
(Samantabhadra). Đông bắc, Quán Tự Tại Bồ-tát (Avalokiteśvara). Tây nam,
Diệu Cát Tường Đồng tử (Mañjuśrì-kumàra). Tây bắc, Từ Thị Bồ-tát
(Maitreya).
Chung quanh trung đài bát diệp viện gồm bốn lớp, mỗi lớp có bốn viện. Mỗi viện biểu thị một phương diện độ sinh của Phật.
Cả
hai bộ mạn-đà-la cũng có thể tượng trưng như hai bàn tay. Bàn tay mặt
là Kim cang giới. Từ ngón út cho tới ngón cái, theo thứ tự: Về năm uẩn,
ngón út là sắc uẩn, và lần lượt là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức
uẩn. Về năm đại, năm loại trí, và năm vị Như Lai cũng theo thứ tự tương
xứng đó. Về các ba-la-mật, tính từ ngón út: bố thí, trì giới, nhẫn nhục,
tinh tấn cho đến ngón cái là thiền định ba-la-mật.
Bàn
tay trái là Thai tạng giới; cũng tính từ ngón út cho đến ngón cái theo
thứ tự, với năm đại, năm uẩn, v.v… như bàn tay mặt. Về các ba-la-mật:
huệ, phương tiện, nguyện, lực và trí.
Như
vậy, khi hai bàn tay hiệp lại, trọn vẹn cả bi và trí của Phật. Đàn
tràng chẩn tế được bố trí dựa trên căn bản vũ trụ luận khái lược, với
một ít thay đổi. Đơn giản mà nói, đàn tràng được bố trí như là thâu gọn
thế giới vũ trụ thành một thực tế hiện hữu cụ thể trước mắt. Lời chú
trong Du già tập yếu của Bất Không Tam tạng[5], dưới đoạn nói về kết ấn
hiện đàn (ấn kết theo thế kim cang quyền, mười ngón tay móc tréo vào) có
ghi; “Đặt ấn này trước mình, tức khắc cả hư không giới đều trở thành
đại mạn-đà-la[6].”
Mục
đích của sự bố trí này là cốt khai triển năng lực gia trì hổ trợ của
Phật (adhiṣṭhānādhiṣṭhita). Mật giáo nói: Phật thể hiện phương tiện độ
sinh của Ngài bằng vào uy lực gia trì. Gia trì về ba phương diện, mà
thuật ngữ gọi là “tam mật du-già”, tương xứng theo ba hành nghiệp của
một chúng sinh: thân, miệng và ý. Sự gia trì, tức uy lực hỗ trợ của
Phật, được thể hiện nơi thân của một chúng sinh qua các tư thế ngồi và
các thủ ấn, nghĩa là các ngón tay của hai bàn tay giao nhau trong một tư
thế nào đó đã quy định. Gia trì nơi miệng được thể hiện qua sự tụng
niệm các chân ngôn. Ý mật gia trì nhờ sự quán tưởng về hình tướng Phật,
hay các văn tự theo lối viết Brahmì, mà trong Phật giáo gọi là tự mẫu
tất-đàm (siddhaṃ).
II
Sau
khi thiết trí đúng pháp đàn tràng mạn-đà-la, và thể hiện đầy đủ tam mật
du-già, người chủ trì, gọi là Gia trì sư, được coi như hóa thân của
Phật, thay Ngài thuyết giới cho chúng hữu tình. Bài thỉnh sư do sư thị
giả hay người trợ lễ đọc trước khi đăng đàn chẩn tế, nói:
寶座高高無礙 Bảo tọa cao cao vô ngại
上有天垂寶蓋 Thượng hữu thiên thùy bảo cái
請師那步登亶 Thỉnh sư na bộ đăng đàn
代為孤魂說戒 Đại vị cô hồn thuyết giới
(Bảo tọa cao vời không ngại, trên có trời giăng lọng báu. Thỉnh Sư dời bước lên đài, vì cô hồn mà thuyết giới).
Sư gia trì đứng dưới đàn đáp:
圓明一點本非空 Viên minh nhất điểm bổn phi không
了證無為向上宗 Liễu chứng vô vi hướng thượng tông
三世諸佛哪一步 Tam thế chư Phật na nhất bộ
權留寶座即吾登 Quyền lưu bảo tọa tức ngô đăng.
(Một
điểm ngời sáng, tròn đầy, vốn không phải là không hư. Từ đó mà hoàn
toàn chứng nhập vô vi, là tông chỉ siêu việt. Ba đời chư Phật không hề
đến hay đi. Nhưng tôi sẽ bước lên bảo tọa được lưu lại nơi đây bằng
phương tiện quyền xảo).
Đó
là xác nhận bản thân và bản nguyện của Phật, rồi xác nhận sự tin tưởng
về tam mật gia trì nơi mình. Sự xác nhận này là một phát biểu về tư
tưởng triết lý của Đại thừa, không phải riêng của Mật giáo. Bản tánh của
các pháp là Tánh không, vì do tương quan mà hiện khởi. Nhưng có hiện
khởi tức không thuần là không hư. Cho nên hiệu là Như Lai, đúng như bản
tánh của Pháp mà đến và cũng như các pháp mà đi. Trong tuyệt đối, Như
Lai không đi cũng không đến. Vậy, bảo tòa cao vọi kia phía trên có chư
thiên trương dù lọng ra che, là sự hóa hiện từ phương tiện đại bi tâm,
Phật của Phật, cũng bằng vào đại bi tâm đó, gia trì sư sẽ bước lên bảo
tọa vốn thiết trí dành cho ngài.
Sau khi bước lên bảo tọa, phần nghi lể mở đầu có bài tán khởi, nói:
會起蒙山最勝緣 Hội khởi mông sơn tối thắng duyên
覺皇垂範利人天 Giác hoàng thùy phạm lợi nhân thiên
經宣祕典超塗炭 Kinh tuyên bí điển siêu đồ thán
教演真乘救倒懸 Giáo diễn chân thừa cứu đảo huyền
難陀尊者因習定 Nan-đà tôn giả nhân tập định
救苦觀音示面燃 Cứu khổ Quan Âm thị Diện Nhiên
興慈濟物真三昧 Hưng từ tế vật chân tam muội
感果叨恩萬古傳 Cảm quả thao ân vạn cổ truyền.
(Do
nhân duyên đặc biệt mà lễ hội Mông sơn được tổ chức. Đức Giác hoàng đã
chỉ dạy một nghi thức làm lợi ích cho cả chư thiên và loài người. Lời
Kinh nêu rõ pháp điển bí mật có khả năng siêu hóa từ chốn lầm than. Giáo
thuyết diễn rộng ba thừa để cứu vớt khổ đau bị treo ngược. Tôn giả
Nan-đà nhân bởi lúc tập định; lúc đó Bồ-tát Quan Âm, vì để cứu khổ, nên
hiện thân làm quỷ Diện Nhiên (quỷ mặt lửa). Từ đó, nêu cao đức từ bi,
cứu tế vật loại, là tam-muội chân thật. Quả được chiêu cảm, ân được ban
cho, lưu truyền vạn cổ).
Hội
khởi mông sơn chỉ cho khoa nghi chẩn tế được tập thành bởi ngài Mông
Sơn. Nhưng khởi thủy vốn là do bi nguyện của đức Giác Hoàng, tức Phật.
Ngài đã phương tiện thiết lập nghi thức này là làm lợi ích cho các cõi
trời và người.
Khoa
nghi thí thực này được truyền sang Trung hoa từ đời Đường do Bất Không
Tam tạng, một truyền nhân của Mật giáo. Gọi đủ là Bất Không Kim Cang,
tên dịch từ tiếng Phạn là Amoghavajra, người Bắc Ấn, thuộc dòng dõi
Bà-la-môn. Trong số những kinh điển và khoa nghi của Mật giáo do ngài
dịch, các tác phẩm liên hệ khoa thí thực cô hồn gồm có: Phật thuyết cứu
bạt diệm khẩu ngạ quỉ đà-la- ni kinh[7], Thí ngạ quỉ ẩm thực cập thủy
pháp[8], Du-già tập yếu cứu A-nan đà-la-ni Diệm khẩu quỉ nghi kinh[9] và
Du-già tập yếu Diệm khẩu thí thực nghi[10].
Trong
hai tác phẩm, Diệm khẩu kinh nói về nguyên nhân Phật dạy phép thí thực
cô hồn. Bởi vì, vào một lúc nọ, giữa đêm khuya, ngài A-nan trong khi
đang ngồi tu tịnh tại chỗ vắng, bỗng thấy một con quỉ gọi là Diệm Khẩu,
miệng đỏ rực như lửa, thân hình quái dị ghê gớm, bảo A-nan ba ngày nữa
ngài sẽ chết. A-nan nghe nói hoảng hồn, sáng hôm sau chạy tìm Phật hỏi
phương tiện. Phật mới dạy phương pháp thí ngạ quỉ. Trước hết, phải theo
một bậc thầy, mà Mật giáo gọi là A-xà-lê (ācāriya), đã chứng đến chỗ
Du-già thậm thâm tam muội mà thọ pháp, học pháp vô thượng đại bồ-đề tâm,
thọ tam muội giới, nhập Đại mạn-đà-la, chịu phép quán đảnh (tức phép
truyền đạo bằng cách rưới nước lên đầu). Đàn tràng thì thiết trí theo
Tam-muội-da mạn-đa-la (samaya-maṇḍala). Ở đây, Đại mạn-đa-la là tổng thể
của các mạn-đà-la khác, an trí hình vẽ các Bổn tôn Du-già với các biểu
hiệu cầm tay và thủ ấn, mỗi vị theo một dấu hiệu riêng nói lên bản thệ
độ sinh của ngài; chữ tam-muội-da (samaya) nơi đây có nghĩa là bản thệ.
Về
quyển Du già Tập yếu Diệm khẩu thí thực nghi, đoạn đầu có phần giới
thiệu gốc tích, đại khái giống nhưDiệm khẩu kinh. Trong khoa nghi này,
không nói cách bố trí đàn tràng nữa, mà chỉ trình bày các thủ ấn… các
mật chú và các nghi thức tụng niệm. Đầu tiên là nghi thức sái tịnh đàn
tràng, mặc niệm chú Đại luân minh vương và thủ ấn. Kế đó, thỉnh thập
phương vô tận Tam bảo, Kim cang mật tích, Vệ pháp thần vương, vân vân,
với thủ ấn “hiện đàn”. Mỗi phần về sau cũng đều có thủ ấn và mật chú như
vậy. Phần cuối hết là văn tế thập loại cô hồn[11], phần này không có
thủ ấn.
Trong
một bài tựa cho Du già Diệm khẩu thí thực yếu tập, Bảo Hoa viết dưới
thời vua Khang Hy, có dẫn sự lưu hành của khoa nghi này, nói rằng, nghi
quỹ mà A-xà-lê Bất Không truyền, ngài Hải Thượng cho là quá đơn giản,
nên soạn thêm. Về sau, ngài Thiên Cơ lại bớt đi những chỗ rườm rà, cho
đến ngài Vân Thê hiệu đính lại lần nữa. Như vậy, sở dĩ không để quá đơn
giản là muốn cho sự thực hành có vẻ long trọng. Nhưng cũng không quá
rườm rà, bởi vì thời gian cúng thí không được kéo dài quá giờ hợi; vào
giờ này, quỷ thần không ăn uống gì được nữa.
Tại
Việt Nam, không rõ khoa nghi này được truyền vào lúc nào và do ai[12].
Nhưng gần đây cũng có ít nhất ba diễn nôm về phần văn thỉnh thập loại,
dịch từ nguyên văn chữ Hán. Bản diễn Nôm được lưu hành nhất là của Hòa
Thượng Bích Liên, suốt từ Nha Trang cho tới Bình Định, ai cũng coi bản
Nôm này là hay nhất.
III
Đường bạch dương bóng chiều man mác
Ngọn đường đê lác đác mưa sa
Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm
(Nguyễn Du, Văn tế thập loại)
Vào
những năm đầu thập niên 70, do chiến tranh gây ra nhiều cảnh chết chóc
hãi hùng, khoa nghi chẩn tế được thực hiện rất nhiều, nhất là tại Huế.
Hầu như tháng nào ở đây cũng có ít nhất một đàn.
Sống
lưng chừng giữa cái sống và cái chết, người sống đã không thể nói được
những uất hận chính mình, thì mượn ẩn tình tha thiết của người chết mà
nói thay:
Thương thay thập loại chúng sinh
Phách đơn hồn chiếc lênh đênh quê người
Hương khói đã không nơi nương tựa
Phận mồ côi lần lữa đêm đêm
Còn chi ai khá ai hèn
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu.
(Nguyễn Du, đd.)
Nếu
gác qua tính chất tôn giáo, cùng nền tảng triết lý của nó, khoa nghi
chẩn tế được đem ra thực hiện ở nhân gian, một cách nào đó, là những
tiếng than ai oán, và uất ức, của những con người cô khổ, sống kiếp lưu
linh đày đọa. Tác dụng văn chương của nó có thể thấy rõ qua kiệt tác Văn
tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du.
Nghi
thức thực hành vẫn y nguyên chữ Hán[13], người không học chữ Hán tất
nhiên không thưởng thức được khí vị văn chương trong đó. Tuy nhiên, khi
đến đoạn thỉnh thập loại chúng sinh, bấy giờ thường gần khoảng giữa
khuya tỉnh mịch, điệu thỉnh theo giọng ai của các kinh sư, mỗi người
thay nhau đọc một đoạn, thì dù không hiểu lời văn, nhưng giọng văn vẫn
có tác dụng truyền cảm đặc biệt. Cho nên, khi thiết lễ chẩn tế, không
những người ta chỉ thỏa mãn một khía cạnh tín ngưỡng tôn giáo nào đó, mà
còn là bị lôi cuốn bởi sức tác dụng văn chương và nghệ thuật qua giọng
điệu thành khẩn thiết tha của nó.
Người
nghe mà hiểu, thì có thể thấy cái đặc vị văn chương của nó là không lấy
người sống làm đối tượng. Tình tự nồng nàn được phát tiết như là những
tiếng ngậm hờn thiên cổ, sống không nói được, chết chôn vùi theo cát
bụi. Văn chương điêu luyện và tao nhã[14], ý tứ thì thâm trầm mà nhiều
ray rức. Người sống mà nghe được thì cũng có thể nghe ra một nỗi đời hư
huyễn nào đó. Giấc mộng công hầu khanh tướng hay khát vọng trường sanh
muốn đem sắc thân tứ đại giả hợp này mà vượt thoát ra ngoài cõi trần
hoàn, tất cả rốt cuộc đều trở thành những nỗi oan khuất bị nhận chìm
xuống đáy biển.
Dưới đây trích đoạn thỉnh:
Nào những kẻ tính đường kiêu hãnh
Chí những làm cất gánh non sông
(Nguyễn Du, đd.)
Đó là lời thỉnh những oan hồn lúc sống lăm le giấc mộng bá vương. Văn thỉnh chữ Hán nói:
(Sư gia trì đọc, giọng ai):
Lụy triều đế chúa, lịch đại hầu vương; cửu trùng điện khuyết cao cư, vạn lý sơn hà độc cứ.
累朝帝主歷代侯王九重殿闕高居萬里山河獨踞
(Một kinh sư bạch, cũng giọng ai):
Tây lai chiến hạm, thiên niên vượng khí nga thâu; bắc khứ loan dư, ngũ quốc oan thanh vị đoạn.
西來戰艦千年王氣俄收北去鸞輿五國冤聲未斷
(Tất cả cùng xướng):
Ô hô!
(Vị kinh sư tiếp):
Đỗ quyên khiếu lạc đào hoa nguyệt
Huyết nhiễm chi đầu hận chánh trường
杜鵑嘯落桃花月
血染枝頭恨正長
Diễn Nôm của Hòa Thượng Bích Liên
Trước thỉnh kẻ hoàng vương đế bá
Triều đại xưa trải quá biết bao
Đền đài chín lớp ở cao
Non sông muôn dặm chén vào một tay
Thuyền chiến phút đổi dời vượng khí
Xe loan còn rủ rỉ oan thanh
Hỡi ôi!
Đỗ quyên kêu suốt tàn canh
Máu hờn nhuộm mãi trên cành đào hoa
Mộng
tranh hùng tranh bá, làm chúa làm vua, nay chinh Nam mai tảo Bắc. Nhưng
rồi từng đêm suốt những canh dài, từng tiếng quốc kêu rủ rỉ, màu sương
trăng lạnh phủ trên cánh hoa đào, giòng máu oan thiên hận sự bất thành
nhuộm đỏ đầu cây ngọn cỏ. Vậy thì, giang sơn như họa còn đó, mà anh hùng
hào kiệt một thời ở đâu, và đâu là ảo vọng của đời người?
Nói chi đương thuở thị hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau
Bỗng phút đâu lò bay ngói lở
Khôn đem mình làm đứa thất phu
Giàu sang càng nặng oán thù
Máu tươi lai láng xương khô rã rời
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc
Quỉ không đầu van khóc đêm mưa
Đã hay thành bại là cơ
Mà u hồn biết bao giờ cho tan
(Nguyễn Du, đd.)
Nhưng
cũng có kẻ lúc sống đành cho thân và danh của mình cùng mục nát với cỏ
cây, tìm những chỗ Đào nguyên hay Lãng uyển để tu chơn dưỡng tánh.
Nhưng:
tam hoa cửu luyện, thiên tào vị hứa tiêu danh,
tứ đại vô thường, địa phủ nan dung chuyển hạn.
三花九煉天曹未許標名
四大無常地府難容轉限
Thuốc
trường sinh đã mấy lần luyện, nhưng cung trời chưa ghi vào sổ trường
sinh, mà cõi đời nông nỗi thì không khứng diên trì thời hạn:
Ô hô !
Lâm quán yên hàn đơn[15] táo lãnh
Tiếu đàn phong thảm hạnh hoa hi!
呜呼臨觀煙寒蟬噪冷
焦壇風慘杏花希
Lò đơn lâm quán[16] lạnh sương
Tiếu đàn[17] gió thảm thổi tàn hạnh hoa
(HT. Bích Liên dịch)
Giấc mộng trường sinh bất tử, chẳng lẽ trong thoáng chốc chỉ còn ký thác cho ngọn gió gào thét hồn oan?
Chỗ
khác là những bậc nuôi chí xuất trần, chống tích trượng phất phơ trên
đỉnh núi cao vòi vọi. Nhưng rồi, “chuỗi hạt lần không mòn vách đá”, thì
than ôi.
Hoàng hoa thúy trúc, không đàm bí mật chân thuyên,
Bạch cổ lê nô, đồ diễn khổ không diệu kệ.
Ô hô!
Kinh song lãnh tẩm tam canh nguyệt
Thiền thất hư minh bán dạ đăng
黃花翠竹空談祕密真詮
白牯黎奴徒演苦空妙偈
嗚呼
經窗冷寢三更月
禪厔虛冥半夜燈
Làng hoa trúc nào câu mật đế
Nhà cổ nô[18] vấn kệ khổ không
Hỡi ôi!
Kinh song trăng thảm lạnh lùng
Nhà thiền leo lét đèn chong canh dài.
(HT. Bích Liên dịch)
Cuối
cùng, người ta tự hỏi: ước mong muôn thuở của nhân sinh là gì? Mối hận
mà lúc sống đã không xong, bấy giờ chôn vùi dưới đất nghìn năm, biết bao
giờ mối hận mới đông thành một viên ngọc bích long lanh? Nhưng cũng có
thể:
Nhờ phép Phật siêu sinh tĩnh thổ
Bóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hòa tứ hải quần chu
Não phiền trút sạch, oán thù rửa không.
(Nguyễn Du, Văn tế thập loại)
PHỤ CHÚ
MAṆḌALA
I. Ý NGHĨA
Tiếng
Phạn, maṇḍala, Hán phiên âm thông dụng là mạn-đà-la 曼陀羅 Các phiên âm
khác: mạn-tra-la 曼吒羅, mạn-đồ-la 曼荼羅, mạn-noa-la 曼拏羅, …Chỉ đàn tràng tác
pháp, hay hành trì bí pháp của Mật giáo. Đó là khu vực cấm chế các qủy
thần xâm nhập. Bên trong thiết trí các hình tượng hay biểu tượng, hay
các ký tự tượng trưng một ý nghĩa nào đó. Đàn tràng có thể là hình vuông
hay hình tròn. Nhưng thông thường được vẽ bằng hình tròn, nên Hán dịch
nghĩa làluân viên 輪圓, hay luân viên cụ túc 輪圓具足. Đại nhật kinh sớ, quyển
4 giải thích:
“Mạn-đồ-la,
có nghĩa là phát sinh. Tức là điều mà ở đây Kinh gọi là Phát sinh Chư
Phật mạn-đồ-la 發生諸佛曼荼羅(Sarvabuddhasambhavamaṇḍala). Gieo hạt giống Bồ đề
(bodhibīja) vào trong mảnh đất tâm của Nhất thiết
trí(sarvajñāna-cittabhāmi), rồi tưới nhuần bằng nước đại bi
(mahākaruịavāri), soi rọi bằng mặt trời đại tuệ (mahāprajñāsūrya), cổ
động bằng ngọn gió đại phương tiện (mahopāyavāyu), che bằng bầu trời đại
không (mahāśūnyākāsa) bao la vô ngại, nuôi lớn dần chồi non của pháp
tánh bất tư nghị (acintyadharmatākura) cho đến khi thành cây Phật cao
lớn che phủ cả Pháp giới. Vì vậy, nói là phát sinh. (…) Mạn-đồ-la còn có
nghĩa là tô lạc 酥酪, tức là chất béo tinh thuần của sữa đông lại và nổi
lên mặt sữa. (…) Do đó, Kinh nói mạn-đồ-la là hương vị vi diệu tối
thượng.(…) Bằng phương tiện của ba bí mật (trayāni guhyāni), khuấy đều
sữa Phật tính của chúng sinh, cho đến trải qua năm vị mà thành chất đề
hồ của diệu giác, hoà tan một cách thuần tịnh và vi diệu, nhưng không hề
thêm bớt tự bản chất. Tập hội tất cả Kim cang trí ấn (Vajrajñānamudra)
mà thành hương vị tối thượng đệ nhất trong cac vị cam lộ (amṛtarasa)
chân tịnh bất biến.”
Tổng
quát, theo giải thích trên, mạn-đà-la hay mạn-đồ-la có ba ý nghĩa: luân
viên, hình tròn của bánh xe. Đây là từ dịch nghĩa tương đương chính xác
với từ Phạn maṇḍala. Thứ hai, phát sinh, dịch nghĩa của từ Phạn udbhava
hay sambhava. Thứ ba, đề hồ, coi maṇḍala như là từ phái sinh của maṇḍa.
Từ ý nghĩa thứ ba này, về sau được chuyển thành ý nghĩatập hội. Theo
nghĩa này, mạn-đà-la là chỗ tập hội của Phật, Bồ tát và Thánh chúng.
Phân loại theo hình thức, có bốn loại mạn-đà-la: Đại mạn-đà la, Tam-muội-da man-đà-la, Pháp mạn-đà-la và Kiết-ma mạn-đà-la.
Đại mạn-đà-la? 大曼荼羅(Mahà-maṇḍala): đàn tràng trong đó an trí hình tượng các Bổn tôn.
Tam-muội-da
mạn-đà-la 三昧耶曼荼羅 (Samayamaṇḍala); tam-muội-da, tiếng Phạn, dịch là bản
thệ ? 本誓. Đây là đàn tràn bố trí các biểu tượng của các Bổn tôn. Các
biểu tượng này tượng trưng cho bản thệ và phương tiện độ sinh của các
Ngài.
Pháp
mạn-đà-la 法曼荼羅 (Dharmamaṇḍala) tức đàn tràng hay đồ hình trong đó bố
trí các chủng tử tự (bījākṣara), tức các ký tự, hoặc nguyên âm hoặc mẫu
âm. Mỗi ký tự ký hiệu tự tính của mỗi bổn tôn. Kiết-ma mạn-đà-la 羯摩曼荼羅
(Karmamaṇḍala), biểu tượng cho sự nghiệp độ sinh của các bổn tôn; thông
thường, đây là đàn tràng an trí các hình tượng điêu khắc.
II. LƯỠNG BỘ MẠN-ĐÀ-LA, hay nói tắt:
KIM THAI LƯỠNG BỘ 金胎兩部
Hai
bộ mạn-đà-la, gồm Kim cang giới (Vajradhātu) thuộc trí môn, và Thai
tạng giới (Garbhadhātu) thuộc lý môn. Đó là từ trên một nhất tâm pháp
giới (ekacitta-dharmadhātu) mà hiển thị thành hai môn: Lý (nyāya) và Trí
(jñāna).
Lý,
tức lý tính bình đẳng và phổ quát (samānatā); tất cả các pháp, hữu vi
hay vô vi, thường nghiệm hay siêu nghiệm, duy là nhất thể vô phân biệt
(aviśeṣatā). Khi trí tuệ nhận thức tồn tại từ lý tính, từ nhất thể vô
phân biệt, thì tất cả tồn tại là chân không (śūnya). Nhận thức như thế
là không nhận thức gì cả. Lý và trí là Tuyệt đối Bất nhị (advaitā).
Nhưng tác dụng của trí là nhận thức, là khám phá ra tính đặc thù trong
mỗi yếu tính tồn tại. Ở đây, trí tức là nhận thức sai biệt (viśeṣajñāna)
về tính đặc thù hay sai biệt (viśeṣatā) của vạn hữu.
Để
biểu thị ứng dụng vô cùng của lý tính bìng đẳng và trí tuệ sai biệt như
vậy, Mật giáo thiết lập hai bộ mạn-đà-la. Căn cứ trên giáo nghĩa của
kinh Đại nhật, tức Đại-tỳ-lô-giá-na thành Phật thần biến gia trì kinh
大毘盧遮那成佛神變加持經
(Mahā-Vairocanābhisaṃbodhi-vikurvitādhiṣṭhāna-vaipulya-sūtrendrarāja-nāma-dharmaparyāya)[19],
Mật giáo thiết lập Thai tạng bộ, biểu hiện đại bi phương tiện cứu thế,
phát xuát từ lý tính bình đẳng. Mặt khác, căn cứ trên giáo nghĩa của
kinh Kim-cang đỉnh, gọi đủ là Kim cang đỉnh nhất thiết Như lai chân thật
nhiếp Đại thừa hiện chứng Đại giáo vương kinh 金剛頂一切如來真實攝大乘現證大教王經
(Vajraśekhara-sarvatathāgata-satya-saṅgraha-mahāyāna-pratyutpannābhisambuddha-mahātantrarāja-sūtra)[20],
thiết lập Kim cang đỉnh bộ, thuyết minh sai biệt trí.
Kim
cang giới (Vajradhātu) biểu thị ý nghĩa tùng bản thùy tích從本垂跡, nghĩa
là, thuyết minh lịch trình hiện tượng hóa của vạn hữu. Tức là, từ lý
tính bình đẳng, từ nhất thể vô phân biệt, vạn hữu chuyển hiện thành
thiên sai vạn biệt. Nhưng sai biệt tính vẫn không tách rời vô phân biệt;
đó là thể Tuyệt đối bất nhị. Thai tạng giới (Garbhadhātu) thuyết minh
quá trình tu tập và chúng ngộ, đi từ nhân là đại bi, với vô số phương
tiện độ sinh sai biệt, cho đến khi chứng nhập lý tính bất nhị.
Nói
tóm lại, do căn tính sai biệt của chúng sinh mà sự hành trì cũng có
những sai biệt. Tuy vậy, con đường dẫn đến giác ngộ vẫn được kinh qua
trên cỗ xe hai bánh là đại bi và đại trí.
Chú thích
[1] Nghi thức chúng cô hồn bằng nôm, HT Bích Liên, bản chép tay của Thich Nguyên Trạch, Bình định
[2] Xem phụ chú 1 ở cuối bài.
[3] Xem phụ chú 2 ở cuối bài.
[4]
Trong Hiển giáo, sắc pháp dược phân tích thành 4 yếu tố cơ bản gọi là 4
đại chủng (mahābhūta). Trong Mật giáo, một yếu tố thứ năm được thêm
vào, là không đại (ākāsadhātu), do tương đối với ngũ trí.
[5] Du-già tập yếu cứu A-nan đà-la-ni Diệm khẩu quỹ nghi kinh, Đường Bất Không dịch; Đại XXI, No. 1318.
[6] Về đại mạn-đà-la, xem phụ chú 1.
[7]
Đại XXI. No. 1313. Tham chiếu, Phật thuyết cứu Diện nhiên ngạ quỷ
đà-la-ni thần chú kinh, Đường Thật-xoa-nan-đà dịch; Đại XXI, No. 1314.
[8]
Đại XXI, No. 1315. Tham chiếu, Phật thuyết cam lộ kinh đà-la-ni chú, vô
danh dịch, Đại XXI, No.1316; Cam lộ đà-la-ni chú , Đường
Thật-xoa-nan-đà dịch,Đại XXI, No. 1317.
[9]
Đại XXI, No.1318. Tham chiếu, Du-già tập yếu Diệm khẩu thí thực khởi
giáo A-nan-đà tự do, Đường Bất Không dịch, Đại XXI, No.1319.
[10]
Vô danh dịch, Đại XXI, No.1320. Tham chiếu, Phật thuyết thí ngạ quỷ cam
lộ vị đại đà-la-ni kinh, Đường Bạt-đà-mộc-a dịch, Đại XXI, No.1321.
[11]
Về thập loại cô hồn, theo liệt kê của Du-già tập yếu Diệm khẩu thí thực
nghi, Đại XXI, tr. 483b: 1. Thủ hộ quốc giới: những oan hồn “vị quốc
vong than.” 2. Phụ tài khiếm mạng: chết vì oan gia trái chủ, nợ nần,
trụy thai. 3. Khinh bạc Tam bảo: bất hiếu, bội nghịch vô đạo. 4. Giang
hà thủy nịch: thương khách chết sông chết biển. 5. Biên địa tà kiến:
những người sống tại biên ải hẻo lánh. 6. Ly hương khách địa: cô khổ
phiêu bạt, chết đường chết xá. 7. Phó hỏa đầu nhai: tự tử, nhảy sông,
nhảy núi, chết đâm, chết cháy. 8. Ngục tù trí mạng: chết trong ngục tù.
9. Nô tì kết sứ: nô lệ cùng khổ, chết vì đày đọa lao dịch. 10. Manh lung
ám á: đui, què, câm, điếc, không người chiếu cố. Thập loại theo khoa
nghi Mông sơn, và thập loại trong văn tế Nguyễn Du có vài chỗ không đồng
nhất.
[12]
Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 4: triều Lý Anh tông, niên hiệu Đại định
11 (1150), Đỗ Anh Vũ bị tội. Để cứu tình nhân của mình, Lê Thái hậu tổ
chức nhiều pháp hội, và vua ban hành lệnh đại xá thiên hạ. Nhờ vậy, Anh
Vũ được hưởng lây, và lần lần phục chức. Không hiểu các pháp hội này có
lập trai đàn hay không. Thiền uyển tập anh: Tăng thống Huệ Sinh, tịch
năm Gia khánh thứ 6 (1064), đời vua Lý Thánh tông, có để lại tác phẩm
Pháp sự trai nghi, rất có thể có nói đến nghi thức chẩn tế. Nhà Nguyễn,
các Chúa thường hay tổ chức các pháp sự hay trai đàn tại chùa Linh mụ.
Theo tiểu sử chùa, năm giáp ngọ, dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Chu, chùa
được trùng tu, nhân đó, Chúa cho tổ chức đại trai đàn. Gia long năm thứ 2
(1803), Vua tổ chức trai đàn bạt độ cho các quan linh tử trận. Ngoài ra
còn nhiều tư liệu khác để có thể viết được sự phát triển và phổ biến
trai đàn chẩn tế. Nhưng việc ấy dành cho các nhà viết sử. Ở đây chỉ đề
cập đại khái.
[13] Cũng có bản dịch nôm, như của HT Bích Liên. Nhưng các thầy vì sính chữ Hán nên ít ai chịu làm theo khoa nghi tiếng Việt.
[14]
Thực tế thì văn thỉnh thập loại chữ Hán không phải là áng văn chương
nổi tiếng của Trung hoa. Văn từ phần nhiều sáo rỗng, nhiều điển tích vô
hồn. Nhưng được cho là hay, vì thói quen. Và cũng do trình độ thưởng
thức văn chương của người nghe.
[15] Nguyên âm Hán là thiền (con ve), nhưng quen đọc là đơn.
[16] Đền hay miếu, nơi thờ tự của đạo sĩ.
[17] Chỉ đàn cúng tế của đạo sĩ.
[18] Bạch cổ lê nô: con bò trắng và nô lệ đen; chỉ chuông mõ nhà chùa.
[19]
Tên tĩnh lược: Đại nhật kinh, hay Đại tì-lô-giá-na kinh; Skt.
Mahāvairocanābhisambodhi. Đường Tam tạng Thiện Vô Úy dịch (Khai nguyên
13, AD.725), Đại XVIII, No. 848.
[20]
Tên kinh gọi lược: Kim cang đỉnh, hay Nhiếp Đại thừa hiện chứng. Đường
Bất Không dịch (Thiên bảo 3, AD.753), Đại XVIII, No.865.