
						 
						
						Đúng ra nên nói là 
						Người Việt và sự tri ân, nhưng điều này được thể hiện 
						đậm nét hơn ở cư dân cố đô trong sinh hoạt đời thường 
						hiện nay tại Việt Nam.
						
						Theo thói quen của 
						chúng ta khi bàn về một việc đời thường, chúng ta bắt 
						đầu ”từ trong nhà rồi ra ngoài ngõ”. Quan sát một gia 
						đình Huế kiểu mẫu tam đại đồng đường mà người cao niên 
						nhất vào độ tuổi xưa nay hiếm đang sống trong một ngôi 
						nhà chưa phải là mới xây dựng, hoặc thừa hưởng từ cụ nội 
						có niên đại từ đầu thế kỹ trước, chúng ta dễ nhận ra 
						những dấu vết qua đó thể hiện sâu sắc lòng biết ơn của 
						những người đã từng sống trong ngôi nhà đó.
						
						Ngoài bàn thờ tổ tiên 
						được đặt để ở vị trí trang trọng nhất, có khi chiếm 
						không gian rộng lớn so với diện tích khiêm tốn của một 
						ngôi nhà, những đồ vật đã được sử dụng và đáng lẽ đã 
						được vứt đi, thì nay chúng vẫn nằm ở vị trí cũ “không xê 
						dịch”, lưu dấu kỹ niệm của một thời của gia đình. Đó có 
						thể là ấm chén sứt vòi từ đời cụ cố, bình vôi ăn trầu 
						gãy quai, cái quạt chỉ còn nan bằng gỗ mục, hay có khi 
						là cái nghiên mực tàu “nằm trơ gan” không xa bàn phím 
						máy tính hiện đại của đứa cháu nội là mấy! Phải nói gần 
						như không có một thứ gì có giá trị kinh tế hiện thời, ấy 
						vậy mà đôi lúc, một cách tình cờ, nếu một trong những kỹ 
						vật ấy là đồ xưa hiếm đang được sưu tầm sẽ được bán với 
						giá khá cao, có thể giúp con cháu qua cơn ngặt nghèo...Điều 
						này không phải là hiếm đối với một vài gia đình đã từng 
						là danh gia vọng tộc. Vì sao người Huế vẫn cứ lưu giữ 
						những vật dụng đáng lẽ phải vứt bỏ đi như thế? Đó có 
						phải xuất phát từ lòng biết ơn những “bạn đồng hành 
						trong cuộc đời gian nan” với mình hay đó chỉ là hành vi 
						thể hiện tính tiếc của, như một số con cháu đã “nghĩ oan” 
						cho họ? Nhưng không phải, ngay cả những gia đình giàu có, 
						những “lưu vật” ấy vẫn hiện diện, có khi như một “viện 
						bảo tàng” trong những ngôi nhà xưa. Quí vị hãy xem, 
						người Huế không bao giờ vứt vào sọt rác những vật dụng 
						đã giúp họ sinh hoạt qua một năm trường. Hãy đến cố đô 
						vào ngày 23 tháng chạp âm lịch, quí vị sẽ thấy ở các ngã 
						ba, ngã tư, ở cây đa đầu làng, cây bồ đề đầu xóm rất 
						nhiều ông táo bình vôi bằng đất nung ( Bây giờ là hình 
						tượng ông táo không phải bằng đất mà bằng gốm sứ để thờ 
						thay vì để nấu nướng). Ngoài ông táo ra, sẽ có nhiều thứ 
						“tam bình lục tặc” như ấm chén, bát nhang, ông địa và có 
						khi là trang ông trang bà!...Đức tính tri ân vật dụng đã 
						giúp người ta làm việc, sinh sống, có thể được nhìn thấy 
						ở những chiếc chày, chiếc cối con dao cái rựa. Người Huế 
						không bao giờ đem chụm (đốt) cái thớt, cục kê... và nhất 
						là khúc cây dùng để chẻ củi, dù đang nấu cơm mà cơm chưa 
						chín nhưng đã hết củi.
						
						Đó là “trong nhà”. 
						Còn “ngoài ngõ” thì như thế nào? Hãy đến Huế vào những 
						chiều tối ba mươi hay mười bốn trăng rằm. Không cần đi 
						đâu xa, chỉ cần đi dọc các dãy phố chính như Trần Hưng 
						Đạo, Phan Đăng Lưu, Mai Thúc Loan...các bạn sẽ được thẳm 
						đượm mùi hương trầm trong ánh nến lung linh của các bàn 
						hương hoa quả “cúng rằm” trước hiên nhà suốt hai bên dãy 
						phố. Chưa có và có lẽ không có một thành phố nào ở Việt 
						Nam thẳm đượm mùi vị ”tâm linh” như vậy như ở Huế. Đâu 
						cần quảng bá du lịch đêm rằm thả hoa đăng và treo đèn 
						lồng trong thành phố! Du khách đến đây sẽ ngạc nhiên và 
						hỏi ra mới biết người dân Huế hằng mỗi nửa tháng đều bày 
						tỏ lòng tri ân tưởng nhớ “những người bên kia” bằng lễ 
						cúng rằm. Và hàng năm, đến tháng hai và tháng tám âm 
						lịch, không hẹn lại lên, nhà nhà đều “cúng đất” bằng lể 
						vật đặc biệt dành cho người Chăm như một phương cách bày 
						tỏ lòng biết ơn với cư dân đã sống vài trăm năm trước 
						tại mảnh đất này. Nhất là vào mùa ”hai ba tháng năm” tất 
						cả mọi gia đình, mọi thôn xóm đều nghiêm trang thành 
						kính cúng bái để tưởng niệm những chiến sĩ, người dân đã 
						bỏ mình trong cuộc binh đao khi thực dân Pháp bất ngờ 
						tấn công và làm thất thủ kinh đô.
						
						Nhiều người tự hỏi 
						tại sao ở đây có quá nhiều đền chùa am miếu...Đó có phải 
						chỉ thể hiện khuynh hướng sùng bái thần linh, hay còn là 
						một trong những  biểu hiện lòng biết ơn tiền nhân của cư 
						dân Huế? Có khi sự thể hiện biết ơn lên tới cao trào 
						biến thành lễ hội quần chúng như cuộc rước thánh mẫu lên 
						Điện Hòn Chén hằng năm mà tính qui mô và sắc thái biểu 
						hiện vô cùng đặc biệt khiến du khách nào đã thấy thì 
						không sao quên được! Nó gíống như như lễ hội Carnival 
						trên sông với đầy đủ màu sắc và âm thanh rộn ràng chẳng 
						khác liên hoan âm nhạc Woodstock.
						
						Người Huế còn có cách 
						thể hiện lòng biết ơn bằng một hình thức độc đáo là cúng 
						tạ ơn hay còn gọi là ”cúng tạ”. Sau khi xây dựng một công 
						trình như lăng mộ, nhà ở, trường học...hay sau một cơn bạo 
						bịnh, hoặc thành công trong kinh doanh, thi cử...thế nào 
						cũng có cúng tạ, như để tỏ lòng tri ân với một “đấng bề 
						trên” nào đó đã giúp mình vượt qua thử thách. Bỏ qua những 
						yếu tố mê tín hay tín ngưỡng, đây có thể được xem là một 
						yếu tố tích cực trong sự hình thành tính cách của người 
						Huế: luôn luôn tỏ lòng biết ơn. Và đôi khi lòng biết ơn 
						được thể hiện hơi quá đáng, nhất là trong thập kỷ 50, 60 
						của thế kỷ trước. Chẳng hạn, sự tri ân thầy giáo được bày 
						tỏ qua lòng tôn kính sản phẩm trao truyền của các bậc 
						tôn sư như sách, vở mà cụ thể là qua chữ viết. Người Huế 
						hồi đó không bao giờ vứt một trang báo, bao bì có chữ 
						viết vào sọt rác, nhất là tờ giấy nào có chữ ”an nam”. Họ 
						sẽ đem đốt thành tro bụi chứ không để những lưu vật mà 
						họ cho là thiêng liêng vật vờ bên cạnh những phế phẩm 
						bẩn thỉu như chúng ta thường trông thấy ngày nay trong 
						các sọt rác.
						
						Và cuối cùng nhưng 
						chưa hết, lòng biết ơn của cư dân Huế được thể hiện qua 
						những lễ hội, cúng kỵ như các lễ rước thánh mẫu(tháng bảy 
						kỵ cha tháng ba kỵ mẹ), lễ kỵ các vị tổ ngành 
						nghề (may, mộc, kim hoàng, xây dựng...), đặc biệt là có lễ 
						rước Hến vào ngày 24 tháng 6 Âm lịch hằng năm để nhớ ơn 
						và tôn vinh loài thuỷ vật sống dưới đáy bùn trong dòng 
						sông Hương đã giúp dân Huế tạo ra một món ăn độc đáo 
						thơm, cay, ngọt, bùi...là món “cơm hến” 
						mà ai đã thưởng thức một lần thì không thể nào quên được!
						
						 
						
						
						PHAN NHƯ
						
								 
								 
								
								
								
								trang phan như
								
								
								
								chân 
								trần
								
								
								art2all.net