Một
buổi chiều, khi sư Khánh Vân đang dạo bước ngắm hoa ở sân sau thì chợt
nghe tiếng người ồn ào đâu phía trước. Chú tiểu Công Sơn từ ngoài đi vào
lật đật lại gần sư thưa:
– Bạch thầy, không biết ai đã đem một đứa
bé trai bỏ trước cửa chùa. Nó đang khóc dữ quá. Cũng có một số thôn dân
đang đứng quanh đấy bàn tán xôn xao, xin thầy ra xem thử.
– Mô Phật, để đó thầy ra xem sao!
Sư thong thả đi trước, tiểu Công Sơn cũng nối gót theo sau. Những người
dân đang đứng quanh đứa trẻ thấy sư đi ra thì đều hướng về sư chắp tay
xá và nói như đồng loạt:
– Nam mô A Di Đà Phật!
– Mô Phật, chào các đàn việt!
Một người đàn bà thưa:
– Bạch thầy, không biết con ai đem bỏ đây, nó khóc quá mà ai bồng nó
cũng không chịu. Chúng con đều thử cả rồi nhưng không thể nào làm nó
nín. Tội nghiệp thằng nhỏ trông kháu quá!
Đứa
trẻ được đặt nằm ngửa trên một tấm vải thô màu nâu, đang quơ tay quơ
chân khóc dữ dội. Sư Khánh Vân tiến lại gần đứa trẻ, đứng nhìn nó. Đứa
trẻ bỗng im bặt chăm hẳm nhìn lại sư rồi vươn tay lên như đòi bồng. Mọi
người có vẻ ngạc nhiên lắm. Sư quay lại hỏi:
– Thế các đàn việt có ai biết đây là con ai và người nào mang nó lại bỏ đây không?
Một người đàn ông thưa:
– Bạch thầy, con đang gánh củi ngang qua đây thì thấy một người đàn bà từ nơi này đi ra có vẻ hấp tấp lắm.
Ban
đầu con không để ý làm gì nhưng sau đó con nghe tiếng trẻ khóc, con
ngạc nhiên nhìn lại thì thấy đứa trẻ này, khi ấy người đàn bà đã khuất
dạng mất rồi. Con lại gần thì đứa trẻ càng khóc thét lên, con phải dội
ra. Kế đó những người này kéo lại, thấy đứa nhỏ dễ thương ai cũng muốn
bồng nhưng hễ ai đưa tay đến là thằng nhỏ lại hét lên. Không ngờ bây giờ
thấy thầy nó lại im thin thít và đòi bồng như vậy, kể cũng là một sự
lạ. Con nghĩ có thể đứa trẻ này có duyên với chùa.
Nhà sư ngồi xuống cạnh đứa trẻ, nó mỉm cười vói tay lên nhưng nhà sư không bồng, nói với mọi người:
– Bây giờ các đàn việt hãy giúp thầy dò tìm người nào đã đem con bỏ lại
nơi này. Tìm ra, thầy sẽ có cách nói chuyện và tìm giải pháp giúp thân
nhân đứa trẻ. Thầy nghĩ người nào đó chắc có một nỗi khổ tâm. Trong khi
chờ đợi tìm ra tông tích đứa bé, thầy nhờ một đàn việt nào đó đem đứa bé
về săn sóc, chùa có thể phụ cấp cho về mặt vật chất.
Thầy xem tướng đứa trẻ này không phải tầm thường đâu. Nào, nó nín khóc rồi, đàn việt nào lại bồng nó về đi!
Một người đàn bà tiến lại:
– Thầy để con lo việc này cho!
Nhưng khi người đàn bà đưa tay toan bế đứa trẻ thì nó giẫy nẩy và khóc thét lên. Người đàn bà cố gắng mấy lần nhưng vô hiệu.
– Thôi, con xin chịu!
Mấy người khác đều thay nhau thử bồng nhưng đứa trẻ nhất quyết không chịu và cứ một mực đòi sư Khánh Vân.
Sư
Khánh Vân gọi chú tiểu Công Sơn lại bế thử thì người ta lại ngạc nhiên
thấy đứa nhỏ nín khóc và chịu cho bồng. Mọi người đều cười :
– Thôi, quả là thằng nhỏ có duyên với Phật rồi!
Sư Khánh Vân lấy làm lạ bèn khiến tiểu Công Sơn bồng đứa nhỏ vào chùa.
Khi được tiểu Công Sơn bồng đi vào cổng thì thằng bé nhoẻn miệng cười có
vẻ thích chí. Sư Khánh Vân thấy vậy cũng cười, quay lại nói với mọi
người :
– Mô Phật, bây giờ tạm thời cứ yên yên như vậy đã. Nhưng
thầy nhờ các đàn việt phải tìm gấp tông tích thân nhân đứa trẻ cho thầy
nhé!
– Bạch thầy, chúng con sẽ cố gắng.
Từ
khi chú bé được đem vào chùa, tiểu Công Sơn phải bận rộn hơn một chút.
Tuy thế, để bù lại, cái không khí trong chùa lại khởi sắc vui vẻ hơn.
Chú bé không mấy khi khóc, không làm nũng. Những khi sư Khánh Vân và
tiểu Công Sơn bận kinh kệ hoặc công việc, chú bé một mình đùa nghịch vui
vẻ với mấy món đồ chơi chứ không làm phiền ai hết.
Quá
lắm, chú chỉ bò quanh trong phạm vi được tiểu Công Sơn “khoanh vùng”.
Sư Khánh Vân, tiểu Công Sơn và những khách đến lễ chùa đều cảm thấy vui
vẻ khi đùa chơi với chú bé. Chú tỏ ra rất thông minh, bắt chước tiếng
nói khá nhanh và biết nghe lời dạy bảo. Không như những đứa trẻ khác,
chú không ăn uống ẩu, không chơi dơ.
Khi
cần đi cầu đi tiểu chú cũng kêu và chờ người lớn giúp đỡ chứ không bao
giờ làm bậy. Vào chùa được mươi ngày thì chú biết ngồi. Sau đó không
lâu chú được tập đứng, tập đi và chỉ ba tháng sau là chú có thể đi lui
tới khắp chùa.
Sự
có mặt của chú nhỏ trong chùa không làm trở ngại việc tu học bao nhiêu
mà lại tăng thêm sự vui vẻ nên sư cũng như tiểu Công Sơn không còn nôn
nóng trong việc tìm tông tích thân nhân đứa bé nữa. Bốn tháng trôi qua,
vẫn không thêm được một tin gì khác về gia đình chú nhỏ, sư Khánh Vân
đành cười:
“Con ai đem bỏ chùa này,
Nam mô A Di Đà Phật, con thầy, thầy nuôi!”
Bấy giờ sư Khánh Vân mới tính đến việc chọn một cái tên cho chú nhỏ. Không biết con ai làm sao biết họ gì?
Sư suy nghĩ rồi quyết định cho chú nhỏ lấy họ Lý, họ của sư. Sư lại đặt tên cho chú nhỏ là Công Uẩn.
Ở trong chùa bên cạnh sư, tất nhiên Công Uẩn cũng trở thành chú tiểu.
Khi
bắt đầu dạy chữ nghĩa, sư Khánh Vân vô cùng ngạc nhiên về sự thông hiểu
mau chóng và nhớ dai của Công Uẩn. Giảng đâu hiểu đó, đọc đâu nhớ đó,
chẳng bao lâu Công Uẩn có thể đối đáp văn sách ngang ngửa với tiểu Công
Sơn. Riêng về thơ phú thì Công Uẩn vượt hẳn cả tiểu Công Sơn. Trong thơ
của Công Uẩn thường toát ra một thứ khẩu khí kỳ dị. Như một hôm Công Uẩn
phạm lỗi, bị sư phạt trói nằm giữa bệ đặt tượng Phật suốt đêm, Công Uẩn
đã đọc ra hai câu “Đêm khuya chân mỏi không dám ruổi. Chỉ sợ sơn hà xã
tắc nghiêng”.
Sư Khánh Vân nghe vậy vừa mừng vừa sợ. Hằng ngày sư càng chuyên tâm dạy dỗ cho Công Uẩn hơn.
Hôm
ấy có một vị sư phương xa vân du đến viếng chùa Cổ Pháp. Vị sư trông
dáng dấp oai nghi thông tuệ, đó là sư Vạn Hạnh. Sau khi cùng khách lễ
Phật rồi dẫn khách viếng quanh chùa một vòng, sư Khánh Vân mời sư Vạn
Hạnh vào nhà khách uống trà.
– Này sư huynh, không hiểu sao bần tăng thấy cảnh sắc nơi đây có vẻ khác thường lắm! Trong chùa có gì lạ chăng?
sư Vạn Hạnh hỏi.
– Sư huynh thấy có sự lạ sao? Chùa này lâu nay vẫn thế có gì khác đâu!
– Dám hỏi, sư huynh được mấy đệ tử?
– Chẳng dám giấu sư huynh, bần tăng chỉ có hai đệ tử, đệ tử lớn Công Sơn là người vừa dâng nước đó.
Đệ tử nhỏ Công Uẩn hiện đi lấy củi chưa về.
– Thế lâu nay sư huynh có theo dõi chuyện thời thế đến không? Theo bần tăng nhận xét, rồi đây đạo có thể gặp khó khăn đấy.
– Sư huynh hay vân du khắp chốn nên rõ tình hình. Bần tăng cứ ru rú một
chỗ thế này chẳng biết gì cũng lấy làm thẹn. Có gì xin sư huynh rộng
lượng chỉ bảo cho biết.
– Không dám, tuy nhiên bần tăng cũng không
ngại ngùng đưa ra những nhận xét thô thiển của mình xem có hợp ý sư
huynh không. Quả tình bần tăng có vân du nhiều nơi thật, nhưng đến nơi
nào thấy cảnh sắc già lam cũng tiêu điều, bần tăng lấy làm lo lắm. Không
ngờ khi đến đây thì thấy cảnh sắc lại khác hẳn, thật đáng mừng. Nếu quả
sắp tới đây có pháp nạn thì chính nơi này là chỗ cứu đạo đây.
– Sư huynh nói thế chứ bần tăng và tiện đệ tử đức mỏng tài cạn mà trông gì!
Tuy
nói thế nhưng sư Khánh Vân lại vui nghĩ tới người học trò nhỏ của mình.
Bấy lâu nay sư đã có nhận xét so sánh giữa hai đệ tử của mình, thực là
một trời một vực. Cũng lúc ấy, tiểu Công Uẩn vác một bó củi đi vào. Sư
Vạn Hạnh nhìn thấy tiểu Công Uẩn thì giựt mình. Tiểu Công Sơn liền ra
ngoài báo cho Công Uẩn biết chùa đang có khách.
– Đệ tử Công Uẩn xin ra mắt sư bá và sư phụ.
Sắc mặt sư Vạn Hạnh sáng hẳn lên. Sư gật đầu cười với Công Uẩn rồi nhìn sư Khánh Vân :
– Mừng cho sư huynh có một đệ tử xứng đáng.
Sau khi chào khách, tiểu Công Uẩn đi lo công việc. Sư Khánh Vân khi ấy cũng tươi nét mặt nói với sư Vạn Hạnh :
– Sư huynh chắc biết xem tướng! Sư huynh thấy tiện đệ tử thế nào?
Sư Vạn Hạnh gật gật cái đầu :
– Quí lắm! quí lắm! Về học vấn Công Uẩn đã đạt tới mức nào rồi?
Sư Khánh Vân bèn đem tông tích, đạo hạnh cùng học vấn của Công Uẩn kể hết cho sư Vạn Hạnh nghe.
Suy nghĩ một lúc, sư Vạn Hạnh nói :
– Sư huynh có thể nào cho bần tăng mượn Công Uẩn một thời gian được không?
– Để làm gì?
– Thú thật với sư huynh, bần tăng có một đệ tử võ nghệ siêu phàm, bần
tăng muốn cho Công Uẩn được truyền thụ cái võ nghệ đó. Đồng thời, bần
tăng cũng muốn có một thời gian ngắn gần gũi với Công Uẩn để chỉ dạy cho
y một ít kiến thức về thuật kinh bang tế thế.
– Đâu cần thiết phải vậy? Thật sự Công Uẩn cũng đã được bần tăng truyền một chút võ nghệ đủ giữ thân rồi.
Một
kẻ đã muốn rời vòng tục lụy còn ôm cái thuật kinh bang tế thế vào người
đâu có hay. Bần tăng muốn tiện đệ tử chăm lo kinh sách để sớm đạt đạo
mà giác ngộ đại chúng thoát cảnh trầm luân trong bể khổ là toại nguyện
rồi.
– Như vậy là sư huynh chưa hiểu ý bần tăng. Thú thật với sư
huynh, bần tăng vốn cũng có học chút đỉnh về việc xét đoán thời thế, xem
tướng người. Nếu bần tăng không nhìn sai, rồi đây đạo Phật có thể vướng
vào vòng nước lửa, đất nước ta có thể rơi vào tròng nô lệ. Chúng ta rất
cần một người có khả năng cứu nước giúp đời, mà người đó, dưới mắt bần
tăng, có thể là Công Uẩn.
– Xin lỗi sư huynh, lý của sư huynh bần
tăng thấy còn mơ hồ. Lôi kéo một người có khả năng đi tới bến giác trở
lại vòng tử sinh, bần tăng thật áy náy lắm. Thôi thì xin sư huynh tha
cho tiện tử.
- Đạo có thể bao trùm vũ trụ nhưng người theo đạo không
nên tách rời với sự an nguy của tổ quốc. Bần tăng sở dĩ phơi cả lòng
mình ra mà thỉnh cầu sư huynh, chính là vì nước mà cũng vì đạo nữa. Nếu
như nước bị tàn phá, dân chịu gông ách nô lệ, sư huynh có thể thoải mái
ngồi tìm chân lý giải thoát được không? Những kẻ vô thần, dị giáo họ có
thể để sư huynh yên ổn ngồi tu không? Việc đời luôn luôn biến cải, nếu
mình cứ nhất nhất đi theo một nguyên tắc e rằng lạc hậu đến phải ân hận
mất. Giả sử đạo Phật có giới cấm sát sinh, nhưng nếu vùng mình ở có một
con cọp cứ luôn làm hại người, mình có thể vì giới cấm mà cứ để cho con
cọp giết người mãi hay không? Sư huynh cho rằng Công Uẩn có khả năng đi
tới bến giác, thì tới bến giác cũng chỉ có mục đích cứu độ chúng sinh
chứ gì? Đồng ý là khi đã đạt đạo, cái khả năng cứu độ, giải thoát sẽ
nhiệm mầu hơn nhiều, nhưng chẳng lẽ cứ hướng tới đó mà lơ cái việc cứu
vớt những kẻ trầm luân ngay bên cạnh mình, cho như thế là bị níu kéo, bị
trở ngại?
Bậc nhân giả ở trong chốn ba quân hay giữa trường đời đen
bạc nhưng vẫn giữ đuợc tâm ý tự tại, tùy hoàn cảnh mà phuơng tiện độ
sinh cũng là một cách tu vậy. Không lý việc diệt gian trừ tà để cứu
chúng sinh thoát cảnh trầm luân binh lửa cũng là tội? Giờ đây, vua Đại
Hành đã già mà chưa lập Thái tử, con trai Ngài thì quá đông, rõ ràng là
mầm loạn chứa sẵn rồi. Các đại thần trong triều thì mỗi người riêng một
bụng. Chắc chắn sẽ có cảnh huynh đệ tương tàn xảy ra. Nước Tàu tham lam
thì khi nào cũng rình rập cơ hội để thôn tính nước Đại Cồ Việt ta. Nếu
sư huynh cho Công Uẩn đi với bần tăng mà sau này lời dự đoán của bần
tăng không đúng, tất nhiên Công Uẩn sẽ trở về với sư huynh thôi. Còn nếu
sư huynh không chịu nghe bần tăng mà sự việc ấy quả xảy ra thì e công
đức của sư huynh sứt mẻ nặng. Xin sư huynh suy nghĩ kỹ.
Sư
Khánh Vân trầm ngâm suy nghĩ. Sư biết người học trò của mình khác
thuờng đấy. Nhưng sư làm sao dám nghĩ rằng chú tiểu đó lại có khả năng
làm thay đổi vận nước? Sư Vạn Hạnh hy vọng có quá đáng không? Sư cũng có
nghe phong phanh về những sự tác oai tác quái của một số quan lại địa
phương dựa vào sự che chở của một số đại thần đang gây thế lực trong
triều. Những dự đoán của sư Vạn Hạnh nghiệm ra cũng có lý lắm. Cuối cùng
sư Khánh Vân buông xuôi:
– Sư huynh đã nói cạn lời như vậy bần tăng đâu dám ngăn cản.
Tuy nhiên, nên để cho chính Công Uẩn tự quyết định vẫn hay hơn.
Sau đó, tiểu Công Uẩn đã theo sư Vạn Hạnh về chùa Lục Tổ.
Mấy
năm sau, Lý Công Uẩn vào Hoa Lư làm quan. Nhờ tài năng xuất chúng, đức
độ siêu quần, không bao lâu uy tín ông lan rộng trong dân chúng cũng như
ở triều đình. Chưa tới 30 tuổi ông đã được phong chức Tả Thân Vệ Điện
Tiền Chỉ Huy Sứ. Cũng thời gian này, nhà Tiền Lê đang ở trên đà tuột dốc
kinh khủng.
Vua
Lê Đại Hành tuổi già bệnh hoạn liên miên cho nên suy tính rất lầm lẫn.
Mùa xuân năm Giáp Thìn (1004) Ngài mới lập con thứ ba là Long Việt lên
làm Thái tử trong khi mộng lớn đã căng đầy trong đầu óc các hoàng tử
khác.
Tháng
3 năm Ất Tỵ, vua Đại Hành qua đời. Thế là ba vị hoàng tử Ngân Tích (con
cả), Long Kính, Long Đĩnh nổi loạn đánh nhau luôn 8 tháng ròng Long
Việt mới chính thức lên ngôi được. Ngân Tích bỏ trốn rồi bị giết, Long
Kính, Long Đĩnh đầu hàng. Nhưng chỉ ba ngày sau, Long Đĩnh lại thuê
người lẻn vào cung ám sát được vua Long Việt.
Long
Đĩnh cướp ngôi xưng là Khai Thiên Ứng Vận Thánh Văn, Tắc Thiên Sùng Đạo
Đại Thắng Minh Quang Hiếu Hoàng Đế. Vụ ám sát vua Long Việt xảy ra làm
các quan lớn nhỏ của triều đình kinh hoảng bỏ chạy tứ tán. Chỉ còn lại
viên quan Thân Vệ Lý Công Uẩn ở lại ôm thây vị vua xấu số mà khóc. Hành
động trung thành và can đảm này của Công Uẩn đã chinh phục được sự nể
nang của Long Đĩnh. Nhưng Long Đĩnh lên ngôi lại liền bị các hoàng tử
Long Ngân, Long Kính nổi dậy đánh tơi bời. Phải hơn một năm sau Long
Đĩnh mới dẹp yên được loạn lạc.
Long
Đĩnh có lẽ là ông vua tàn bạo nhất hoàn vũ. Bình thường ông ưa lấy
chuyện giết chóc làm trò vui. Nhiều lần ông thân xuống nhà bếp tự tay
thọc huyết bò heo gà vịt rồi trao cho nhà bếp. Ông bắt tử tù quấn rơm
vào mình, tẩm dầu rồi đốt cho nóng chạy trước khi chết. Ông bắt tù leo
lên cây rồi sai đốn cây cho ngã. Ông sai trói tù dưới chân cầu để chờ
nước lên xem tù chết ngộp như thế nào. Nghe ở Ninh Giang có nhiều rắn
độc, ông sai trói tù bên mạn thuyền rồi cho bơi qua bơi lại để cho rắn
cắn. Có khi ông cho để mía trên đầu nhà sư mà róc vỏ rồi giả vờ trật tay
cho dao bổ xuống đầu làm cho chảy máu, trong số đó có nhà sư Quách
Ngang, nhà sư có tiếng đương thời.
Năm
Nhâm Thân, ông đánh dẹp giặc Mán, bắt được một tù trưởng đem về đánh
đập hành hạ. Tên này chịu không thấu kêu tên tục vua Đại Hành mà chửi.
Thế mà Long Đĩnh sung sướng cười ha hả vì lâu nay Long Đĩnh vẫn hờn giận
vua cha đã cố ý không truyền ngôi cho mình.
Long
Đĩnh lại hoang dâm vô độ nên mắc bệnh không ngồi dậy được. Lúc thiết
triều ông thường phải nằm nghiêng nên người thời bấy giờ vẫn quen gọi là
Ngọa Triều. Thế mà ông vẫn tìm niềm vui bằng cách sai mấy tên hề nhại
tiếng những viên quan tấu trình công việc làm chốn triều đình không còn
thể thống gì hết.
Trong
tình trạng triều đình như thế, sư Vạn Hạnh bèn ráo riết bí mật vận động
sắp đặt tạo ra một cuộc chính biến để cứu vớt lê dân. Dân chúng đồn ầm
lên về chuyện có một cây gạo lớn ở làng Diên Hồng bị sét đánh gẫy, trên
thân cây bị tróc vỏ thấy có mấy chữ “Hòa đao mộc lạc, thập bát tử
thành”. Chữ hòa, chữ đao, chữ mộc hợp lại thành chữ Lê, chữ thập, chữ
bát, chữ tử hợp lại thành chữ Lý. Câu chữ Hán trên chiết tự và giải
nghĩa thành “Lê rụng, Lý thành”. Không bao lâu khắp quân đội lẫn dân
chúng đều nghe lời “truyền sấm” đó….
Giữa lúc đó thì vua Ngọa Triều bỗng mắc bệnh nặng rồi qua đời. Người con mới 4 tuổi của ông được ông di chiếu truyền ngôi.
Thấy cơ hội đó, một viên quan có thế lực trong triều là Đào Cam Mộc bèn đến gặp Lý Công Uẩn và bàn:
–
Hồi trước đức vua tối tăm bạc ác nên lòng trời chán ghét, con ngài thì
bé nhỏ quá làm sao kham nổi việc nước trong buổi đa nạn này? Dân chúng
trông chờ chân chúa như khát nước mong mưa. Thân Vệ nên theo gương
Thang, Võ để cho dân nhờ. Trước đây họ Lê lấy nước của họ Đinh được coi
là chính đáng, thì nay nếu Thân Vệ làm việc này cũng vậy, trên hợp ý
trời dưới thuận lòng dân chứ khư khư giữ cái tiết mọn làm gì?
Lý Công Uẩn trả lời:
– Ông muốn đem cái họa giết ba họ đến cho tôi sao? Tôi không dám nghe đâu!
Đào Cam Mộc trở về. Nhưng hôm sau ông lại đến gặp Công Uẩn, nói:
– Lời sấm đã nói rõ họ Lý sẽ dấy lên, đổi họa ra phúc cho đất nước, Thân Vệ còn ngần ngại gì nữa?
Lần này thì Công Uẩn xiêu lòng:
– Ý ông và sư Vạn Hạnh giống nhau, nhưng làm sao cho trong ấm ngoài êm?
– Dân đang đói khổ, Thân Vệ là người công bình, khoan thứ vỗ về ai không nghe?
Được
sự bằng lòng của Công Uẩn, Đào Cam Mộc chủ động triệu tập các quan, lợi
dụng lòng căm ghét của họ đối với vua Ngọa Triều, ông thuyết phục họ
tôn Công Uẩn lên ngôi Hoàng Đế. Cuộc chính biến đã xảy ra không đổ một
giọt máu.
Chú
tiểu Công Uẩn của chùa Cổ Pháp bấy giờ đã trở thành vua Lý Thái Tổ.
Ngài là vị vua khai sáng ra triều Lý, một triều đại tiếng tăm lừng lẫy
về những chiến công phá Tống bình Chiêm, khiến các lân bang lớn nhỏ đều
phải kiêng nể.
Sau
khi lên ngôi, Lý Thái Tổ cho dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Về nông
nghiệp, ngài cho đắp đê Cơ Xá để tránh thủy tai hàng năm làm thiệt hại
mùa màng. Về văn học, ngài cho lập Văn miếu để tôn sùng Nho học và mở
khoa thi Tam giáo (Phật, Lão và Nho giáo).
Vốn
xuất thân từ cửa thiền, Lý Thái tổ đặc biệt trọng đãi và khuyến khích
Phật giáo. Ngài phong sư Vạn Hạnh là Quốc Sư và cho sưu tầm Tam Tạng
kinh điển để truyền bá đạo Phật. Ngài cũng cho xuất tiền kho để xây 8
ngôi chùa ở phủ Thiên Đức (châu Cổ Pháp cũ, quê hương ngài). Tại thành
Thăng Long, ngài cho lập chùa Thiên Ngự, chùa Vạn Tuế và cung Thái
Thanh. Bên ngoài thành Thăng Long thì ngài cho xây các chùa Thắng
Nghiêm, Thiên Vương, Cẩm Y, Long Hưng, Thánh Thổ, Thiên Đức và Thiên
Quang. Ngoài ra, những chùa đổ nát ở các đị a h ạt khác đều được ngài
cho tu sửa.
Việc
cải tổ lớn lao nhất của vua Lý Thái Tổ nhờ ảnh hưởng của Phật giáo là
bãi bỏ được hình luật đặt vạc dầu và nuôi cọp beo để trừng trị tội phạm
như dưới hai triều Đinh, Lê. Bản sắc từ bi của Phật giáo đã ảnh hưởng
mạnh mẽ đến chính sách trị dân của cả triều Lý. Như vua Lý Thái Tôn tha
tội không giết Nùng Trí Cao, người đã nổi loạn, vì ông ta là người còn
lại duy nhất của một dòng họ. Như vua Lý Thánh Tôn không giết vua Chiêm
Thành là Chế Củ. Cũng chính vua Thánh Tôn, vào một mùa đông cực lạnh,
đã ra lệnh phát áo chăn cho tù phạm và cho xét giảm tội và tha bớt.
Không có một vị vua Lý nào hiếu sát hay hoang dâm quá độ.
Có
thể nói nhà Lý là triều đại có chính sách cai trị dân khoan hồng độ
lượng nhất trong lịch sử mà không một triều đại nào khác theo kịp.
Ngô Viết Trọng