Từ
tầng 2 trường tiểu học nhìn về, mẹ quệt nước mắt và nói: “Mất hết rồi
con ơi, rồi đây lấy cái gì mà đủ ngày 2 bữa?”. Tôi nhìn dòng nước trôi
mà lòng chùng xuống. Nỗi đau này có gì lạ đối với dân miền Trung!
Cơn lũ qua rồi, mẹ ơi...
Mẹ về nhà, dáng đi thất thểu, xiêu vẹo như người mất hồn. Nước rút
rồi, nắng đã ấm lên nhưng lòng người như tím tái. Mẹ chạy xộc vào nhà
lôi từng bao lúa ướt sũng ra sân: “Gắng phơi để còn hạt mà ăn con ạ”.
Bàn tay mẹ nhăn nheo, đôi mắt thâm quầng.
Cuộc sống áo cơm ngày thường cũng đã làm nên bao cơ cực, nay cơn
vần vũ của đất trời càng làm đôi vai mẹ nặng thêm. Tôi pha gói mì tôm
bằng bát nước ít ỏi xã vừa cứu trợ: “Gắng ăn đi mẹ, hai ngày nhai mì
sống rồi còn gì”. “Ăn uống gì con, thứ gì cũng mặn đắng, kể cả nước
mắt”.
Tôi nhớ đến những mùa lụt xa xưa, khi ba còn sống. Mỗi lần nước bắt
dầu dâng lên là tôi được ba cho ngồi trên vai và di tản bằng cách đi bộ
đến trú ngụ ở nơi cao hơn. Năm nào cũng có một vài lần chạy lụt như
vậy. Ở xứ Quảng nếu năm nào không lụt, đó là điều ngạc nhiên đối với
người dân. Bởi vậy nên mẹ tôi thường hay cất trữ thức ăn như cá khô,
mắm thính hay bầu phơi khô. Cứ mỗi lần nước ngoài sông dâng lên là cả
nhà dìu dắt nhau lên cái gác nằm sát nóc nhà. Cái gác này tôi đã hơn 10
lần trú ngụ, nhai gạo sống trên đó. Cái gác này chỉ dùng cho những năm
lụt nhỏ thôi, chứ như cơn đại hồng thuỷ năm nay thì không thể ở trên đó
khi nước lấp xấp nóc nhà.
Bởi vậy ba tôi thường nhìn con nước, thấy không ổn là chuẩn bị
thuyền để “di cư”. Tôi đã từng nhìn bầu trời với mưa giăng, gió bão qua
những viên ngói ba giở ra, vẫy tay ra hiệu gọi thuyền cứu hộ phát lương
khô hay mì tôm. Nếu có một khung trời kỷ niệm trong những mùa lụt của
tuổi thơ, có lẽ nhìn bầu trời qua những lỗ ngói là ký ức không thể nào
phai nhạt. Những lúc đó, tôi thường nghĩ về vùng núi cao, nơi nước
không thể nào dâng tới được. Có lẽ ở đó, người ta sẽ chẳng biết lụt là
gì. Thế mà giờ đây tôi đã vỡ lẽ khi biết người miền núi cũng dìu dắt
nhau trốn vào hang động như thời thượng cổ. Cũng chính ở trên cái gác
trốn lụt này, tôi biết thế nào là sự thịnh nộ của thiên nhiên và cũng
biết rằng mỗi hạt gạo của người nhà nông không chỉ có mồ hôi mà còn có
cả nước mắt. Bão, lũ quét, nắng hạn cứ thay nhau “cày cấy” trên lưng
người nông dân mà chẳng bao giờ có một mùa bội thu của đất trời.
Ba tôi thường nói, ngày xưa dân ta giỏi đánh giặc vì… đất nước hay
có giặc. Bởi thế nên có câu “giặc năm nay… dễ đánh”. Giờ thì người
người hay bảo: “Lụt năm nay cũng thường”. Nói vậy nhưng ai cũng khóc vì
nó, nói để mà nghe, để mà thấy cái “bình thường” của lụt, không năm nào
không đến, không năm nào trốn thoát. Đó cũng là thể hiện bản lĩnh của
người miền Trung trong việc đối chọi với thiên nhiên, sự gan lì, chai
sạn của những cái đã là hiển nhiên khi sống trên dải đất hẹp, cái eo
của hình chữ S gánh hai đầu Bắc Nam.
Khi nước đã rút, đói khát rồi cũng thế, vẫn dìu dắt nhau qua ngày
khốn khó. Rồi ruộng vẫn cứ cày, cá vẫn cứ thả; lúa vẫn mọc, hoa màu vẫn
xanh tươi đấy thôi.
Yên Mã Sơn (Dân Trí)