Nghe
chuyện đời cha tôi, Thầy bảo: "Hãy nhớ ngày này.
Nếu có cơ duyên, mười năm sau ta sẽ trở lại".
Trở về Thầy bỏ Tăng viện, lên một ngọn núi hẻo
lánh trong rú xa, dựng mấy nếp nhà cổ. Từ ấy,
Thầy ẩn tu, hiếm khi xuống núi...
Lớn lên, tôi
giống cha như đúc và rất được mẹ yêu chiều. Cha
tôi mắt sáng, mũi cao, tiếng nói trầm ấm, tính
tình hiền hòa trung thực. Khi còn là một chú
tiểu đầu để chỏm, người đã nổi tiếng thông minh,
mười lăm tuổi chép rành kinh chữ Hán. Rồi vì học
giỏi, được cử làm giáo viên ở Trường Trung học
Bồ Ðề, một trường phổ thông tư thục của Giáo hội.
Lúc người sắp được tấn phong Ðại Ðức thì gặp cô
bé nữ sinh tinh nghịch, có đôi mắt hút hồn, đôi
môi đầy đam mê và cái tính thích gì thì làm cho
bằng được. Ban đầu, cô bé chỉ định quấy phá chơi
để thử bản lĩnh của Thầy. Nhưng rồi tình yêu là
lửa, chính người muốn đốt lại cháy. Cả chùa ngẩn
ngơ khi người thanh niên đạo hạnh vòng tay thưa
trước sư cụ trụ trì: "Yến bệnh nặng đã bốn tháng
rồi, sợ rằng cô ấy chết. Thầy dạy con tu hành để
cứu chúng sinh. Nay con có thể cứu một sinh linh,
sao lại khước từ". Cha tôi rời chùa, cô Yến khỏi
bệnh rồi hai người thành vợ thành chồng. Ông bà
tôi để lại một ngôi nhà, cha tôi cho dỡ đi, xây
vào chỗ đó một ngôi chùa tư.
Ðã không bỏ đời
theo đạo được, thì ông đem đạo về giữa đời. Sau
khi đã có con, ông vẫn ăn chay, mặc áo nâu và
tụng kinh sớm chiều.
Có lần mẹ tôi đi
chợ mua một xâu ếch, những con ếch theo phản xạ
cứ chắp hai chân trước vái lia lịa. Một bà đi
ngang bảo mẹ tôi: "Mấy con ếch lạy khéo không
thua Thầy M.H". Rồi bà cười hả hả: "Ði tu mà
chẳng chót đời, làm thân con ếch cho người lột
da". Tính mẹ tôi mau nước mắt, cứ vừa đi vừa
khóc thút thít cho đến lúc tới nhà. Tối đó bà
kèo nhèo mãi, năn nỉ mãi cha tôi tội gì không để
tóc, ngã mặn, làm người trần cho sướng cái thân.
Tu kiểu này, người ta nói không chịu nổi. Cha
tôi chỉ cười, dường như chẳng để tâm. Cả đời
người không tranh giành với ai mà như có phép
thần thông, chạm vào đâu thì phất lên đến đó. Cơ
sở làm hương trầm của người càng phát triển, mẹ
tôi càng béo đẹp ra thì lời đàm tiếu của thiên
hạ càng rần rần. Cuối cùng, chẳng hiểu vì sao,
mẹ bỗng đột ngột bỏ đi mất tăm...
Cô ruột tôi giận
lắm bảo: "Mẹ mi là con yêu tinh, khi trước đã
phá đời tu của cha mi, chừ lại phá luôn đời tục
của ổng". Ai cũng khuyên đăng báo tìm nhưng cha
tôi chỉ nói: "Ðừng". Ông không trách móc gì,
nhưng có lẽ ông buồn, tiếng tụng kinh đêm khuya
nghe chừng khắc khoải. Chao ôi, với những con
thuyền khắc khoải ấy, kiếp nào cha mới đến Tây
Phương?
Cơ sở làm hương
từ đó phó mặc cho cô tôi. Cô tôi cho chặt cây,
nhổ cỏ, sửa sang lại cho khu vườn sáng sủa: "Thiệt
là hư sự, ai đời lập chùa mà lại trồng hoàng lan
trong sân. Mùi hoàng lan là mùi ma, hèn chi ma
chướng nó phá cho như thế ni".
Tôi dân dấn nước
mắt nhìn người ta chặt cây hoàng lan, cành lá
vứt bừa bãi trên mặt đất. Ngày xưa, gội đầu xong
mẹ tôi thường hái hoa giấu vào bối tóc cho thơm.
Bây giờ người đã đi, hoa cũng không còn...
Năm tôi mười tuổi,
có vị Ðại Ðức trên núi về thuyết pháp ở chùa
Diệu Dế. Tôi đi theo cô tôi đến nghe. Khi trở về
tôi xin xuất gia. Cha tôi bảo: "Kinh sách ở đây,
chuông mõ ở đây, con còn đi đâu?". Tôi chỉ lắc
đầu...
Nơi Thầy tôi ẩn
tu là Bích Vân Am - am Mây Biếc. Mười năm khai
sơn, Thầy đã cùng đồ đệ trồng hơn hai chục mẫu
bạch đàn và ba ngàn giò phong lan đủ loại. Các
sư huynh dạy tôi chăm hoa, tưới cây mỗi sáng.
Buổi chiều đi học ở trường Nam Giao. Năm mười
lăm tuổi, tôi bắt đầu chướng tính. Sư huynh hạch
tôi: "Bạch Thầy, Ðăng Ninh trốn học, la cà ở
quán cà-phê Tím. Người quanh đó ai cũng chê cười,
họ nói cô ruột Ninh làm hương giàu có, cúng
dường nhiều tiền nên Thầy thả cho Ninh tha hồ tự
tung tự tác". Tôi ức, lầm lì không nói, Thầy
cũng không quở. Tính Thầy rất nghiêm, không mấy
khi la rầy mà đồ đệ ai nấy tuân lời răm rắp. Chỉ
riêng với tôi, không hiểu sao Thầy đặc biệt
khoan thứ.
Sợ Thầy phạt, đợi
lúc sắp vào tụng kinh, tôi biện bạch: "Bạch Thầy,
ngày xưa cha con thường bảo: tu trên núi dễ, tu
giữa chợ mới là khó. Không ở giữa đời làm sao
hiểu đời đục mà tránh?". Thầy hỏi: "Ai bảo con
là đời đục? Ðời không đục, không trong". Tôi hụt
hẫng, không hiểu ý Thầy định nói gì?
Tu trên
non bây giờ thật ra cũng không phải dễ. Thầy tôi
tránh đời vào núi sâu, nhưng rồi vườn lan Mây
Biếc nổi tiếng quá nên người trần lại kéo lên
thưởng ngoạn. Thứ bảy, chủ nhật, học trò đạp xe
lác đác trắng trên con đường mòn tới thảo am.
Mấy cô nữ sinh nhỏ tuổi mê hoa ngẩn ngơ ngắm
bông súng tím trong hồ, chạy vào đến tận hiên,
chỗ Thầy ngồi viết sách. Thầy không quở, cũng
không ngẩng lên nhìn. Một cô bé chạy đến gần tôi,
nhìn làn sương li ti mà tôi đang xịt lên những
chồi đang đơm nụ. Cô hỏi tôi tên hoa, tôi giảng:
"Ðây là giống Tiểu Hồ điệp, nghĩa là bươm bướm
nhỏ. Em thấy không, trông xa chấp chới như đàn
bướm cải màu vàng". Cô chìa hai bàn tay với
những ngón búp măng, hứng sương. Tôi cau mày: "Này,
đừng nghịch". Cô bé cứ đùa với những bụi nước,
chẳng để ý lời tôi. "Anh cứ tưới đi, em cũng là
Lan". Tôi cáu, xịt cho nước rơi ướt cả tóc, cả
áo cô bé. Mấy cô bạn cười rúc rích, khi về có cô
còn nói vọng lại: "Con Lan hên quá, gặp chú tiểu
vừa đẹp trai, vừa quậy". Tôi tủm tỉm cười. Sư
huynh tôi cáu kỉnh: "Mấy con Thị Mầu đời nay quá
quắc lắm. Bay không biết quyến rũ sư tăng là tội
đọa địa ngục hử?". Tôi cự: "Người ta chỉ đùa thế,
có gì mà gọi là quyến rũ".
Từ đó, vài ba hôm
một lần, Lan lại đến giúp tôi tưới hoa. Tôi dạy
cho cô biết về phong lan, đấy là cả một thế giới
còn đa dạng hơn thế giới người. Phượng Vĩ đỏ rực,
Tuyết Ðiểm thì trắng, Vũ Nữ thì như đang múa
trước gió. Lan phụng phịu: "Hoa nào cũng có tên
riêng, chỉ em không có". Tôi nhìn khuôn mặt cô,
đôi mắt trong trẻo với cái miệng cười hồn nhiên
như trẻ thơ. "Vậy tôi đặt cho cô một cái tên.
Tên cô là Tinh Khôi".
Thầy biết tình
thân giữa tôi và Lan. Sư huynh không vui lòng,
Thầy chỉ bảo: "Không can gì". "Bạch Thầy, người
này có bạn thì người kia có bạn, rồi con gái kéo
đến đầy thảo am, còn cái thể thống gì nữa?".
Thầy gật đầu. Chiều lại, tôi mài mực hầu Thầy,
Thầy đem cho tôi xem bộ tranh mười bức vẽ mục
đồng chăn trâu: "Ðây là thập mục ngưu đồ, cũng
là quá trình tu học của một con người. Trâu
không là trâu, mà chính là cái tâm ta đó". Tôi
động lòng, hỏi: "Bạch Thầy, con xem bức vẽ cuối
cùng, không còn trâu chẳng còn người, chỉ còn
trăng soi. Vậy cớ gì phải sống trong dây trói.
Ngày xưa Tuệ Trung Thượng Sĩ là bậc ngộ đạo mà
không kiêng rượu thịt, vì chay mặn chỉ là hình
tướng bên ngoài, không can hệ đến sự giác ngộ
bên trong". Thầy cười: "Ðúng, con ạ, với bậc đắc
đạo là thế. Nhưng khi ta còn là một người phàm,
thì cũng như con trâu kia, phải có sợi dây buộc,
có người chăn dắt. Ðến khi cái tâm vững rồi,
sáng rồi mới có thể như trâu đen thành trâu
trắng, không ràng không buộc, chẳng những nhởn
nhơ trên cỏ xanh mà còn bay lên đến chín tầng
mây". Tôi vái Thầy mà thưa: "Con hiểu rồi, nhưng
nhà chùa chẳng thể xua đuổi ai. Từ mai con xin
thôi không giữ vườn lan nữa".
Mấy hôm sau, Lan
thấy sư huynh ra tưới vườn, còn tôi thì chẻ củi.
"Anh không thích phong lan nữa sao?". "Không.
Muôn hồng nghìn tía, chẳng qua cũng chỉ để nhìn
trong chốc lát. Một đời tôi chỉ riêng nhớ hoa
hoàng lan". Tôi giảng cho cô bé biết hoa hoàng
lan cánh mảnh mai, vàng như mầu chim hoàng yến.
Thuở trước, cứ sắp rằm, mồng một, các bà hàng
hoa lại đến mua, họ gói hoa trong lá chuối, từng
gói nhỏ xinh xinh tỏa thơm ngây ngất. Lan bảo: "Thích
ghê, em chưa thấy bao giờ". Ừ, loài cây ấy có lẽ
giờ đây đã tiệt giống rồi hay sao, nhiều lần
theo sư huynh đi chợ mua bông chuối, tôi để ý
tìm mà không thấy nữa. Tôi lớn lên lòng bâng
khuâng như thiếu vắng một thứ gì, cứ mơ hồ nhớ
nhớ, thương thương...
Cuối năm, anh em
tôi kẻ kéo, người đẩy, chở phong lan xuống phố
đổi gạo. Ông chủ tịch hội hoa cảnh hài lòng lắm
khi thấy những giò mũm mĩm với chồi xanh đầy nụ.
Ba bao gạo lớn được bưng ra. "Cha ơi, con có làm
một ít bánh trái cây để cúng dường". Tôi nghe
tiếng quay lại, sững người vì thấy Lan. Ông chủ
tịch âu yếm bảo: "Cúng dường thì phải cung kính.
Con phải tự lên chùa lạy Phật mà dâng". Tôi hãi
hồn, vội nói: "Thôi thôi, khỏi phiền nữ thí chủ.
Nhận ngay ở đây". Lan bật cười, lại cái cười
tinh khôi. Rồi Lan nhìn tôi buồn thiu: "Sao lâu
nay anh không ra vườn? Em lên chùa, biết anh
trong bếp mà mấy chú không cho vào. Riết rồi em
buồn không muốn đến nữa".
Mấy buổi sau, tôi
theo các bạn cùng lớp vào quán. Lan ngồi ở đó,
sau chiếc bàn con bên cửa sổ. Các bạn tôi ai
cũng nhìn về phía Lan còn cô bé chẳng nhìn ai,
cứ lặng lẽ một mình. Ngồi ở một bàn xa mà tôi
như thấy cả bầu trời hoàng hôn tím, tím ngát
ngoài kia đang in trong đôi mắt Lan. Mãi đến khi
chúng tôi ra về, Lan mới ngoái nhìn, ánh mắt thơ
ngây mà não nùng. Bỗng dưng đỏ mặt, rồi tôi thấy
hoảng sợ vì mình đã đỏ mặt...
Một người con gái
chiều nào cũng ngồi ở quán Tím, chẳng bao lâu đã
thành đề tài để bọn con trai bàn tán.
"Con Lan sữa tươi
trông xinh vậy chứ nó mắc bệnh, bệnh sợ đàn ông.
Ðếch thằng nào đến gần được, nó tránh như tránh
tà". "Không phải đâu, nó giữ giá để chờ lấy Việt
kiều, thằng Hùng ở Cali về ngày nào cũng trực ở
nhà nó". "Giữ giá cái gì, nó ưa thằng Quắn chạy
bàn ở cà-phê Tím. Tao thấy nó ngồi một bàn với
thằng Quắn, khóc rưng rức". Tôi im lặng, một lát
sau mới bảo: "Khó tin". "Ở đời chuyện gì mà
chẳng có thể xảy ra" Bạn tôi nói, vẻ ông cụ non
- Chiều qua chính mắt tao thấy nó chạy ra sau
quầy đưa bức thư cho thằng Quắn".
Ðạp xe về đã đến
quá lăng Tự Ðức, tự nhiên tôi bứt rứt không chịu
được. Tôi quay xe, đạp về nhà Lan. Mưa phùn lướt
thướt trên con đường về Bao Vinh xa tắp. Mẹ Lan
hỏi: "Nhà chùa có việc gì mà nhắn cháu lên? Thấy
Quắn về nhắn, tôi cho cháu đi ngay rồi". Tôi tái
mặt, không kịp chào, đạp xe đi như tên bắn. Tim
tôi dội thình thịch vì âm vang những lời của sư
huynh khi Lan mới lên thảo am lần đầu: "Cô gái
này đẹp đẽ thanh tú nhưng đuôi mắt dài quá, môi
mỏng, cổ cao, tai nhỏ. Ðấy là tướng hồng nhan
mệnh yểu..." Trời nhập nhoạng tối, tới Nam Giao.
Nhìn dáo dác hai bên đường, tình cờ thấy Quắn và
Lan cùng ngồi trong quán ốc. Quắn gọi rượu, đang
ép Lan uống. Lan lắc đầu. Quắn cố nài. Tôi đi
vào, đấm mạnh vào mũi Quắn. "Ðồ lừa đảo. Từ nay
chừa cái thói dụ dỗ gái đi". Quay sang Lan, tôi nạt
"Ði về!". Không biết Lan có bị một thứ thuốc mê
gì không, mặt ngây ngây như bị bỏ bùa. Tôi chở
Lan đi. Quắn biết tôi có võ nên đành chịu phép,
hậm hực, chùi máu mũi nhìn theo, cái nhìn của
con thú mất mồi...
Trên đường về,
Lan tỉnh lại, gục mặt vào lưng tôi khóc: "Em nhờ
Quắn chuyển đến anh nhiều thư, anh có nhận được
không?". Tôi cau mặt: "Em khờ lắm, sao lại đi
với thằng Quắn?". "Quắn bảo em uống vài chén cho
ấm rồi lên đàn Nam Giao chờ Ninh đến". "Em đừng
quên, tên em là Tinh Khôi. Ðừng dại dột để bọn
lưu manh làm nhơ bẩn". Nước mắt Lan chảy thấm
qua chiếc áo lam của tôi, thấm vào đến da thịt.
Dừng xe, tôi ngồi xuống vệ cỏ bên đường. Lan
ngồi bên tôi. "Ðêm nào cũng nằm mơ thấy anh dắt
em đi thăm vườn phong lan. Mình về trồng lan
trong sân nhà em đi, có thích hơn không?". Tôi
không trả lời, ngắt những cọng cỏ, vò nát trong
đôi tay run run. Trên kia, trăng sáng quá, tròn
và rực rỡ như chiếc mâm vàng giữa trời. Bỗng
nhiên lòng tôi miên man nhớ những câu chuyện cha
tôi vẫn kể ngày xưa...
"Em có thích nghe
chuyện cổ tích không?". "Thích". Tôi kể cho Lan
nghe chuyện người tử tù đội chiếc mâm vàng đầy
nước đi từ cổng hoàng cung vào trước ngai vua mà
không sánh ra ngoài một giọt, Lan nghi ngờ: "Sao
có người làm được như thế?". Tôi gật đầu: "Ngày
ấy, nhà vua cũng đã hỏi như vậy. Vị thiền sư trả
lời: "Bệ hạ đã hứa nếu y làm được thì sẽ tha tội
chết. Vì lẽ sống chết của y, nên dù việc khó vô
cùng mà y vẫn chăm chăm làm bằng được. Nay nếu
bệ hạ cầu giải thoát cũng như người này cầu sống,
thì việc tu hành dù khó mấy cũng có thể vượt
qua". Lan ngước nhìn tôi, lần đầu tiên tôi nhận
ra trong hai cái giếng êm như nhung của mắt cô
bé những tia sáng ương ngạnh lạnh lùng. "Em hiểu
rồi. Anh xem tu hành là chuyện sinh tử của anh.
Vậy nếu em lại xem anh là chuyện sinh tử của em
thì sao? Anh và em, ai đi trọn đường, ai bỏ cuộc?".
Tôi bảo: "Em nói gì thế? Chuyện sống chết mà
nghe cứ như là trò chơi sấp ngửa của trẻ con".
Lan cười... Bàn tay nhỏ nắm lấy tay tôi, ngón
thon vuôn vuốt như cánh hoa ngậm sữa. Vẻ đẹp này
có phải phù du? Vẻ đẹp này là “Sắc” hay là “Không”?
Chỉ thấy ngợp vì trăng. Trăng sáng quá. "Thôi,
về đi em". Tôi đạp xe, trước mặt tôi chập chờn
lấp lóa những con đường. Những mê lộ giữa đạo và
đời, giữa ma và Phật...
Việc lộn xộn ở
quán ốc chẳng mấy ngày đã đồn đến chùa. Cô tôi
biết, tốc lên ngay. Tôi bảo: "Cô đừng lo. Chẳng
có chuyện gì đâu". "Không có lửa, sao có khói?
Ăn ốc, đánh lộn, giành gái… thế còn gì là tu
hành? Tao mà gặp con ma nữ đó, tao tước từ dưới
tước lên". Tôi ngẩn người một lúc rồi hiểu ra,
không nín được cười. Cô bực tức: "Cháu tưởng
chuyện gì cũng cười là xong sao?"
Quả là chuyện
không thể cười mà xong. Mấy hôm sau, gia đình
Lan mời tôi về…"Con ma nữ" đã uống hai mươi viên
thuốc ngủ, may sao nhà biết được chở đi cấp cứu.
Mẹ Lan chắp tay lạy tôi như lạy Bồ Tát: "Bác
biết tính con Lan lắm, từ nhỏ nó đã nói là làm,
đã làm là làm tới cùng. Sợ e cứu thoát lần này,
nó lại tự sát lần nữa. Con cứu nó cho bác đi
con". Tôi cuống quýt: "Bác bảo con làm sao được?".
Con cứ giả vờ ừ đi, bây giờ nó mới lớn, tính còn
ngông cuồng, vài ba năm nữa chững chạc rồi tự
nhiên nó hiểu ra". Ông chủ tịch hội hoa cảnh mắt
đỏ au, nhìn tôi chờ đợi một lúc rồi bảo vợ. "Nói
như bà cũng khó. Chú Ninh đây tướng mạo khôi ngô,
trước sau rồi sẽ có phước được che lọng vàng. Lẽ
nào vì con mình mà để người ta mang tai mang
tiếng". Tôi thở dài: "Cháu đi tu không phải là
mong lọng vàng che đầu. Chỉ vì nguyện giữ thân
trong sạch để tụng cho mẹ cháu một nghìn lần
Kinh Thủy Sám". Nhớ tới mẹ, tôi bất giác đau đớn
trong lòng, đứng dậy đi...
Tôi về chùa, từ
ấy không đi đâu. Thầy bảo: "Sao con bỏ học?".
Tôi nói: "Suối ở xa, con muốn ra triền núi đào
giếng". Tôi tự đày mình trong những nhát cuốc
trên sỏi đá, đêm về tụng kinh, vẫn đôi khi chợt
nghe tiếng mình khắc khoải. Có lúc nửa đêm chợt
tỉnh, thấy Thầy ngồi bên giường, lâm râm niệm
chú. Tôi hốt hoảng vùng dậy: "Bạch Thầy". Thầy
tôi bảo: "Con giật mình, nói mê luôn, hất tung
cả chăn". Tôi nói: "Con tỉnh rồi. Rước Thầy đi
nghỉ, con xin ra bệ Phật niệm kinh". Thầy lặng
lẽ một lúc, rồi bảo tôi: "Tâm không an, có cầu
cũng vô ích". Tôi gật đầu thú nhận. Bao nhiêu
đêm, cứ chợp mắt là thấy Lan hiện ra, mảnh dẻ,
thanh thoát, đầu đội chiếc mâm vàng sóng sánh
nước đi thẳng đến bờ vực. Tôi nghe tiếng thét
của nàng vang động cả giấc mơ, nàng nhào xuống
rơi thẳng vào không gian mênh mông như chiếc lá
lìa cành trước gió. "Thầy ơi, nếu vào Niết bàn
mà phải đạp lên một chiếc lá, Phật có làm không?
Xin Thầy cho con hay, trời đất nặng hơn hay
chiếc lá nặng hơn?". Thầy nhìn vào mắt tôi: "Chỉ
có con tự trả lời được thôi. Ngày mai con hãy về,
cứ nhìn thẳng vào nghiệp duyên mà tự quyết định
lòng mình". Tôi lắc đầu: "Thầy quên sao? Con đã
thề khi nào đào xong giếng mới xuống núi".
Ra xuân, đường
lên núi khô ráo. Hai tay tôi ướt bùn đỏ, những
giọt nước đầu tiên đã ứa ra từ lòng đất sâu. Tôi
chạy về chùa, định vào trình Thầy nhưng người
đang làm lễ. Có người thí chủ dâng hương trong
bệ Phật, mùi trầm mới thơm thơm trong không gian.
Ðang dội nước rửa
tay, tôi nghe có người bước đến. "Chú Ninh!".
Tôi ngẩng
lên. Mẹ của Lan. "Bác lên chùa cầu cho em đi
bình an. Có cái này, em nó gửi lại...". Bà đưa
cho tôi một cái túi nhỏ, rồi vừa quay đi vừa đưa
khăn lau mắt.
Những dòng chữ
trong thư, mảnh mai và run run như những cánh
lan.
"Bốn
trăm ngày chờ anh ở quán Tím, cuối cùng em cũng
hiểu ra là mình thua cuộc. Ðã đi mà chẳng tới,
lẽ ra thì phải chết. Nhưng em chết thì anh làm
sao yên lòng đi trọn con đường tu. Vì vậy, em đã
quyết định lấy chồng xa xứ. Trong cái túi này là
cây hoàng lan con, em nguyện tìm cho anh bằng
được rồi mới ra đi. Em vẫn nhớ lời anh nói, một
đời anh chỉ thích hoàng lan...
Người ta cứ bảo
là em khôn, lấy ông Việt kiều đi Tây đi Mỹ cho
sướng chứ theo chi chú tiểu trọc đầu. Nhưng đi
Tây đi Mỹ không phải là chí nguyện của em. Lấy
một người mình không thương, đến một nơi xa lạ
với em còn khổ hơn là chết. Xin anh hãy tụng cho
em một lần kinh cầu siêu thoát, một lần thôi...".
Bất giác, tôi òa
khóc. Nước mắt theo nhau lăn trên má tôi như ép
cho hết những dòng tục lụy cuối cùng. "Cứ
khóc đi con" - Thầy vỗ về khi thấy tôi luống
cuống che mặt - Thầy chưa nghe nói gỗ đá thành
Phật bao giờ". Tôi nức nở: "Bạch Thầy,
Thầy có cho con trồng cây hoàng lan không?"
Thầy bảo: "Cỏ cây
vô tội, sao mình không thể bao dung?". Rồi một
tay dắt tôi, một tay cầm túi cây đến bên góc
vườn, Thầy tự mình trồng xuống.
Tôi tưới cây bằng
nước giếng chùa. Hoàng lan lớn lên, năm này qua
năm khác, nở hoa vàng mong manh. Mong manh như
tất cả những gì đẹp trên thế gian.
Tôi cầm lòng thôi
thương, thôi nhớ…
Trần Thùy Mai
(theo Blog Hương Từ Bi)