Inzan
chẳng phân biệt Gisho là người khác phái. Ông mắng nhiếc và tát Gisho
để đánh thức bổn tánh của cô. Cuối cùng Gisho đã tìm được những gì mình
muốn tìm. Để tôn vinh Gisho, Inzan viết :
Cô đã theo học với ta mười ba năm
Sáng, là một công án sâu xa nhất
Chiều, tập trung cho một công án mới
Trước Gisho, Tetsuma đã vượt qua tất cả
Và kể từ Majaka, không ai bằng Gisho
Song vẫn còn nhiều cửa để Gisho vượt qua
Còn phải nhận nhiều cú đấm sắt của ta
Đó
là một trong những giai thoại thiền mà tôi rất thích. Chúng là một phần
không thể thiếu trong quá trình học Phật của tôi. Tôi rất thích những
mẫu chuyện đó. Bởi ngoài ý nghĩa dẫn đạo, giai thoại còn giúp mình thư
giản thần kinh và phấn khích tinh thần để vượt qua những ì trệ của bản
thân.
Gisho
không phải là người tầm thường. Cô ở lại với thiền sư Inzan không phải
vì nhận được sự che chở thương yêu của bậc tôn sư, mà vì ông đã mắng cô
như mưa bão, thậm chí còn tát cả vào mặt cô. Chính nhờ đó, cô nhận ra
được bổn tánh của mình.
Muốn
học đạo thành công, mình phải chuẩn bị tinh thần như vị ni đó. Đừng trố
mắt nhìn thầy như một quái thai khi ông trở thành bất thường và dị dạng
so với những gì người tu cần có : Hiền lành, tự tại và bất động với mọi
chuyện ở thế gian. Hình tướng ấy khiến bậc tôn sư trở thành ông Phật ở
trần gian, nhưng nó chẳng lợi ích gì cho mình nếu THÓI ĐỜI và TRÍ PHÂN
BIỆT của mình còn quá nặng. Cái hiền lành ấy chỉ là thứ ru ngủ mình chứ
không phải là thứ giúp mình tiến thân. Muốn nhận được pháp thân, phải để
cho trí phân biệt lụi tàn. Cái gì có thể giúp trí phân biệt lụi tàn?
Chính là những chiêu thức dị dạng bất thường của chư tôn giả. Đang êm ấm
bỗng dưng “trở chứng”. Đang hiền lành trở thành “quá quắc”. Bình thản
được với những chiêu thức đó, trí phân biệt của mình mới lụi tàn. Nếu
ngay đây nhận được thì mọi phiền toái ở gia đình hay trong tùng lâm đều
là cơ hội giúp mình phá đi ngã tướng. Chỉ vì không vừa lòng một chút gì
đó mà mình nổi lồ cồ xông pha tìm chỗ khác thì muôn đời chỉ làm kẻ lang
thang, rày đây mai đó. Bởi chẳng bao giờ tìm được chỗ bình yên nếu tâm
mình không tự bình yên.
Mắng như thế, tát như thế, được ca ngợi như thế mà “Song vẫn còn nhiều cửa để Gisho vượt qua. Còn phải nhận nhiều cú đấm sắt của ta”.
Ngày nay căn cơ của mình không được như người xưa, nên bậc tôn sư của
mình không dám mắng cũng không dám đánh. Chỉ vài chiêu nhè nhẹ là đã
ngập lụt hết Thường Chiếu, còn bậc tôn sư trở thành tác phẩm nghệ thuật
dưới gọng kềm giận trách gắt gao. Vì thế mình không thể là một Gisho thứ
hai, thứ ba hay thứ tư v.v...
Song tu để khế ngộ Phật tâm, không phải là chuyện thường tình, cũng không phải là chuyện một sớm một chiều. Tổ Hoàng Bá nói “Vượt
khỏi trần lao việc chẳng thường. Đầu dây nắm chặt giữ lập trường. Chẳng
phải một phen xương lạnh buốt. Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”. Vài
chục năm không nghĩa lý gì, dù có thể chỉ vài ba năm, cũng có thể là vô
số kiếp. Nó là quá trình bào mòn những thói quen của bản thân, là thời
gian tập dửng dưng với những hình ảnh hoặc lời nói bên ngoài. Đó là việc
mà không phải nói là làm được liền. Từ chỗ hiểu đến chỗ hành là một quá
trình. Từ chỗ hành đến chỗ thuần thục lại là một quá trình nữa. Tu
Phật, mình phải chuẩn bị tinh thần chịu khó chịu khổ trường kỳ. Khi bậc
tôn sư đang tươi như hoa, bỗng nhiên như thiên lôi quẹt ngang, dửng
dưng, khó hiểu thì phải biết mình đang được trân trọng như nàng Gisho.
Ngay lúc ấy, thay vì hướng ra ngoài chạy theo những tướng đó, hãy quay
lại coi tâm mình thế nào. Những cú đấm như thế không thể làm bể đầu, sức
tai nhưng nó là cú đấm của bàn tay sắt. Bởi nó đấm trúng vào ngã tướng
của mình. Ngã tướng càng nhiều thì ê ẩm càng ghê. Song tu thiền thì
không thể sợ đau. Bình thản được với những cú đấm như thế - không phải
chỉ ở bậc tôn sư mà với tất cả mọi sự mọi vật ở thế gian - mình mới có
thể ngộ nhập lại Phật tánh của mình.
THẦY THỊ GIẢ TUYỆT VỜI
Thiền
sư Phật Quang trụ trì chùa Truyền Đăng, đồ chúng theo học rất đông. Một
hôm thiền sư giảng Thiền Môn Chân Thuyên xong, tăng Giáp thưa “Sanh tử
là việc lớn. Muốn liễu thoát sanh tử chỉ có niệm Phật vãng sanh tịnh độ.
Cho nên đệ tử muốn đến đạo tràng niệm Phật Linh Nham để học pháp niệm
Phật”. Thiền sư nghe xong hoan hỉ đáp “Tốt! Ông học pháp môn niệm Phật
trở về, thì đất này tiếng niệm Phật không dứt, đạo tràng cũng chân chính
như thế giới Liên Hoa”.
Thấy
vậy tăng Ất lại trình “Giới trụ thì pháp trụ, xem ra không gì hơn giới
luật. Bạch thầy, con muốn đến Học Giới Đường để học luật”. Phật Quang
gật đầu “Tốt lắm! Ông học luật trở về, đạo tràng của ta mọi người đều có
đủ ba ngàn oai nghi tám muôn tế hạnh, thành một tăng đoàn lục hòa chân
chánh”.
Thiền
sư Phật Quang vừa dứt lời thì tăng Bính cũng vừa xuất hiện “Bạch Thầy,
học đạo không gì bằng tức thân thành tựu. Đệ tử muốn đến Tây Tạng học
mật”. Phật Quang mĩm cười “Mật tông giảng cứu tức thân thành Phật. Ông
học Phật trở về ắt nhiều người được thành tựu thân kim cang bất hoại.
Tốt thôi!”.
Thị
giả hầu bên cạnh nghe vậy không vừa lòng “Bạch thầy, thiền là pháp môn
do đức Phật ban đầu để lại, giúp người thành Phật thành Tổ. Không việc
nào trọng yếu hơn việc học đạo tham thiền. Thầy lại là thiền sư một đời,
vì sao không giữ họ lại học thiền để minh tâm kiến tánh mà khuyến khích
họ đi?”. Thiền sư Phật Quang nghe xong, cười ha hả “Ta còn có ông mà!”.
Ta
còn có ông mà! Mình phải tu học làm sao để bậc tôn sư của mình có thể
cười ha hả như thiền sư Phật Quang “Ta còn có ông mà!”. Ừ! Dù mọi người
có đi hết, vẫn còn ông ở lại với ta, vẫn còn ông hiểu được những gì ta
nói, vẫn còn ông thấy được chỗ trọng yếu mà thiền đã nêu.
Tất
cả mọi pháp môn đều tựu trung giúp người tu được chỗ rốt ráo, chính là
rõ được tâm, thấy được tánh. Pháp môn nào cũng mang tính hàng phục vọng
tâm, giúp tâm qui về một mối. Vì căn cơ của người đời có cạn sâu mà pháp
thấy có khác nhau. Song chỗ đến thì không khác. THẾ GIỚI LIÊN HOA không
ngoài tự tâm thanh tịnh của chính mình. GIẢI THOÁT SANH TỬ chính là
nhận ra được bản chất của sanh tử. GIỚI LUẬT là để giúp người tu trừ bỏ
tham dục và an định tự tâm. Tâm an định, trí tuệ mới phát triển, mới
nhận ra được những gì cần nhận. Không niệm Phật, không giới luật mà ngay
đó có thể an định tự tâm, trong định hiển tuệ, trong tuệ hiển định,
giới luật tự nhiên đầy đủ thì không cần niệm Phật cũng không cần học
giới. Mọi thứ đều qui tâm, chẳng thể từ ngoài mà được. Tiến hay thối là
tự mình. Nhận được chỗ này, mới thấy thiền là con đường thẳng tắt. Tuy
thẳng tắt nhưng không đủ căn cơ cũng không thấu được chỗ này. Đứng núi
này trông núi nọ, một chút không vừa lòng đành đoạn bỏ ra đi ... là bởi
không đủ tâm nhận cho thấu đáo, không đủ trí để biện thiệt hơn, không
thấy rằng nghịch duyên chính là chỗ học đạo.
Nhận
được rồi, dù 20 năm chưa sáng đạo, 50 năm chưa nổi danh, mình vẫn an
lòng với những gì mình đã chọn. Mình vẫn xứng đáng để bậc tôn sư lên
tiếng “Ta còn có ông mà!”. Ngày nào ông còn bên ta, trôi tròn trong từng
công việc, chăm chút từng chút công phu, ngày đó mình vẫn xứng đáng để
bậc tôn sư lên tiếng “Ta còn có ông mà!”.
THIỀN SƯ TRÍCH THỦY
Một
lần thiền sư Nghi Sơn vào tắm, vì nước nóng quá nên sai đệ tử mang nước
châm thêm. Trích Thủy pha nước xong, thuận tay hất nước thừa đi. Nghi
Sơn không vui liền quở “Nhân địa tu hành, âm đức là bậc nhất, cớ sao
không biết tiếc phước? Tuy là một giọt nước, tưới cây cây cũng hoản hỉ,
tưới cỏ cỏ cũng hoan hỉ, nước cũng không mất giá trị của nó, vì sao
không biết tiếc vật như thế?”. Cảm công đức chỉ dạy của thầy, sư mới đổi
tên thành Trích Thủy. Trích Thủy có nghĩa là một giọt nước.
Thiền
sư Trích Thủy do thừa kế gia phong nghiêm khắc của thầy, nên về sau khi
tiếp đãi người học cũng rất nghiêm khắc. Thậm chí có lúc còn đánh
người. Nhiều thiền tăng không hiểu được cơ phong của ngài, đều rút lui
khỏi pháp hội. Chỉ có thiền sư Nga Sơn không chịu đi mà nói “Tăng có ba
hạng. Bậc hạ lợi dụng tiếng tăm của thầy. Bậc trung thưởng thức lòng từ
của thầy. Bậc thượng, mỗi ngày mỗi lớn mạnh dưới kiến chùy của thầy.
Thiền
thấy có vẻ phóng khoáng nhưng thực ra giới luật rất nghiêm, việc làm
cần cẩn trọng. Làm việc không cẩn trọng cho thấy tâm không có chánh
niệm. Làm chuyện này mà nghĩ đến chuyện khác. Tâm không chuyên nhất thì
việc sáng tâm khó mà thành công. Tâm không sáng thì tánh không thể thấy.
Song không phải chỉ có thế, ngay cả việc dùng các vật dụng hằng ngày
cũng phải cẩn thận chu tất. Vì sao phải cẩn thận chu tất? Thiền sư
Sessan nói “Điều này không liên quan đến nghĩa cần kiệm ở thế gian mà phải nhận ra rằng phước đức không được phung phí”.
Ngày
còn nhỏ tôi ít khi ăn cơm được ngon nên thấy cơm là tôi không thích.
Thấy nó là tôi buộc miệng “Không còn món gì khác sao mà cứ cơm hoài
zậy?”. Điều ấy vẫn xảy ra thường xuyên cho đến lúc tôi vượt biên và gặp
nạn.
Đói,
cơm trắng thơm ngút ngàn mà không thể mó vào được. Lúc ấy mới thấy hết
giá trị của hạt cơm. Nó nhắc mình nhớ những lần chán cơm của mình. Cái
quả của một ý nghĩ chán chường là như thế. Phung phí lại còn tồi tệ hơn.
Nhà
giàu trước đây cũng như bây giờ thường phung phí những gì mình có. Tiền
bạc, thức ăn, thời giờ, điện nước v.v... Công việc không cho phép họ
quan tâm đến những việc nhỏ nhặt trong nhà. Người làm không có thì giờ
để giữ gìn, bởi những thứ đó không do họ làm ra. Còn trẻ con thì không ý
thức được sự tai hại của việc phung phí. Gà, chúng ăn nửa con và quăng
nửa con vào thùng rác. Chúng vò chocolat thành từng cục để ném nhau.
Chúng mở nước bỏ đó rồi đi, không bao giờ tắt điện, mặc dù nhiều nơi
đang thiếu điện và nước.
Mẹ
tôi rất giàu nhưng không bao giờ bà phung phí một hạt cơm. Bà gắng thu
dọn thức ăn thừa, ít nhất là cho một người nào đó. Bởi bà từng chứng
kiến quả báo hiện tiền của một gia đình giàu có. Sự phung phí phước đức
đã khiến gia đình ấy lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, thức ăn phải xin
từng ngày. Ngay cả khi được người cho rồi, thức ăn vẫn không thể tới
tay. Kết quả của sự phung phí phước đức là như thế.
Người
ngoài đời, ít ai chú ý đến việc giữ lại một chút nước cặn trong xô cho
việc tưới cây. Người nào có thái độ chú tâm kỹ càng như thế sẽ được nhìn
với con mắt khắt khe khó chịu. Nhưng trong các thiền viện thời xưa, một
chút nước thừa cũng không được phí. Một lần, Trích Thủy dùng giấy trắng
lau nước mũi. Thiền sư Nghi Sơn hét thẳng thừng “Lỗ mũi ông quí lắm sao mà dùng giấy trắng lau mũi, thứ đó đâu phải dễ được. Ông thật là pháp tặc tổn đức, tu hành cái gì?”.
Ngày nay mình dễ dàng phí phạm nhiều thứ vì nó quá thừa mứa với mình.
Quên rằng, dùng chưa đúng chỗ còn bị gọi là pháp tặc tổn đức, huống là
phí phạm. Trong Bạch Ẩn Thiền Định Ca, thiền sư Sessan nói “Theo quan
điểm hiện thời thì có vẻ khó hiểu, nhưng những điều như thế có ý nghĩa
sâu xa trong sự tu tập của các thiền sinh. Không chỉ nhìn nó theo mặt
công dụng hay nguy hại, có lợi hay không có lợi theo nghĩa kinh tế, mà
phải thâm nhập vào tận cốt tủy để khám phá ra cái diệu dụng và mật hạnh,
phải tôn kính vì ánh sáng ẩn tàng trong đó”. “Cái diệu dụng và mật hạnh”, “Cái ánh sáng ẩn tàng trong đó”
là gì, thì phải mỗi người tự tìm thấy trong chính mình. Nhưng thấy hay
không thấy, thì một giọt nước cũng phải được quí trọng, một chén trà
cũng không được bỏ đi. Thiền sư Đạo Nguyên không bao giờ bỏ phí nửa chén
trà dù có một thác nước ngay bên cạnh. Thức ăn, vật dụng cũng không
được bỏ phí. Đó là những gì mà người tu thiền cần phải quan tâm khi còn
trong giai đoạn tu hành.
Tăng
sinh nào hiểu được sự chăm chút kỹ lưỡng của thầy chỉ khiến ông nhọc
tâm hơn là dửng dưng với mọi thứ, mới hiểu tâm lão bà tha thiết của bậc
thầy. Thiền sư Trích Thủy đạt được nhiều thành quả to lớn nhờ sự giáo
hóa nghiêm khắc của bậc tôn sư, nên đối với đệ tử, ông cũng làm như thế.
Là mong mang đến cho đệ tử những gì mình đã từng nhận được của thầy từ
sự nghiêm khắc. Chỉ những tăng sinh cảm nhận và đồng ý với những điều
như thế, tăng sinh ấy mới có thể trưởng thành lớn mạnh dưới kiền chùy
của bậc thầy.
HÃY NƯƠNG TỰA CHÍNH MÌNH
Thiền
sư Phật Ấn cùng Tô Đông Pha đi dạo, giữa đường thấy tượng đá Quán Thế
Âm. Phật Ấn lập tức chấp tay bái lễ. Tô Đông Pha hỏi “Quán Thế Âm là
người để ta lễ bái, vì sao trên tay còn cầm xâu chuỗi niệm Phật. Vậy
Quán Thế Âm niệm ai?”. Thiền sư Phật Ấn trả lời “Đó phải hỏi chính ông”.
Tô Đông Pha ngây thơ “Sao con biết niệm ai”. “Thì niệm Quán Thế Âm chứ
ai”. “Vì sao lại phải niệm mình?”. “Bởi cầu người không bằng cầu mình”.
Cầu
người không bằng cầu mình. Bởi mọi thứ sạch, dơ, hay, dở ... đều từ
mình mà ra, không phải chư Phật có năng lực ban phát hay hóa giải được
mọi thứ cho mình. Niệm Quán Thế Âm chính là niệm Quán Thế Âm của chính
mình. Một khi vọng niệm của mình tóm qui về một chỗ, lòng từ của mình
được phát huy, mọi công đức huân tập trước đây sẽ hiển lộ. Nguy nan, tai
họa, sông nước bị đẩy lùi.
Tuổi
thơ và trong giai đoạn trưởng thành, câu niệm Phật gắn liền với từng
suy nghĩ của tôi. Tôi đã hướng về ngài với tất cả lòng thành kính của
mình. Không phải chỉ khi có tai họa mà ngay cả trong những giấc mơ cũng
có câu niệm Phật. Niệm rất chuyên cần và thuần thục.
Từ
lúc tu thiền, câu niệm Phật gần như không đụng đến. Một phần pháp biết
vọng không cho phép tôi nuôi niệm, dù chỉ là niệm Phật. Một phần gặp ma
trong giấc mơ, câu niệm Phật không còn tác dụng. Tôi càng niệm nó càng
rịt chặt lấy tôi. Chỉ khi tôi ngưng niệm và nhiếp tâm trở về không, mọi
thứ mới được hóa giải. Hành động ấy tác dụng rất mạnh trong các giấc mơ
nên theo thói quen, hễ gặp ma là tôi lại bình thản sử dụng tâm không. Ma
cứ thế mà lặng lẽ ngang qua như tôi không hề có mặt.
Với
những nghịch cảnh, mình dễ tỉnh trí để đối phó, nhưng với những cảnh
vui vẻ thoải mái, mình chết chìm. Vì thế cảnh ma trong mơ thì trị được,
mà những thứ thuận ý vừa lòng hiện đời thì đầu hàng, đừng nói là những
thứ mơ mơ màng màng trong giấc ngủ. Cho nên, cái đáng tỉnh là thuận
duyên chứ không phải nghịch duyên. Nghịch duyên, không muốn tỉnh cũng
không được. Không tỉnh thì khổ. Vì thế phải tỉnh mới thoát khổ. Còn
thuận duyên thì không mang lại cái khổ cho mình, nên mình không muốn
tỉnh để thấy ngay trong cái vui đã sẵn có cái mầm của khổ nạn.
Con
bé dễ thương nói với tôi “Cứ ai nói với con họ hoàn toàn hài lòng về
những gì họ đang có là y như rằng họ sẽ gặp một chuyện gì đó bất hạnh
liền sau. Con luôn cảm thấy trong sung sướng hạnh phúc, luôn sẵn có cái
gì bất ổn. Nó làm con sợ hãi”. Không có trí tuệ, không thể thấy được
những thứ như thế. Vô thường luôn chi phối mọi thứ ở thế gian. Song nếu
trí ấy được bảo tồn bằng công phu thiền định trong hiện tại, mình sẽ
bình thản được với mọi thứ. Không phải sợ hãi về những điều mình đã nhận
thấy đó.
Không
phải sự hài lòng nào cũng đưa đến sự bất hạnh liền sau. Hài lòng mà do
tâm thái biết đủ của người biết đạo thì đó là loại hài lòng rất tốt. Hài
lòng chỉ trở thành bất hạnh khi mình quên đi những việc phước đức trong
hiện tại. Mình bó rọ hạnh phúc của mình trong gia đình và người thân mà
quên đi nỗi khổ đau của người khác. Mình có thái độ phung phí những gì
mình đang có. Nỗi bất hạnh mới liền sau.
Sự
hài lòng còn biểu hiện cho thái độ chấp thủ. Vui mà chấp thủ thì khổ sẽ
liền kề. Vì sao? Vì tâm mình vốn không. Nó như quả lắc đồng hồ đứng
ngay vị trí của nó. Một khi bạn vui, tức bạn đẩy quả lắc ấy về một phía.
Đương nhiên theo quán tính, bạn sẽ nhận được một thứ theo chiều ngược
lại. Vui và buồn, sanh và tử là những thứ thường tình ở cuộc đời này. Nó
đến có đôi và đi cũng có đôi. May mắn đến mà bình thản, bất hạnh đến
mới bình yên. May mắn đến mà vui thì bất hạnh đến nhất định thấy khổ. Đã
sanh thì biết có ngày phải chết. Nếu muốn sanh mà còn hoài thì chết
đương nhiên thấy khổ. Chữ MUỐN đó, tức muốn trong hoàn cảnh đó, là đầu
mối của nguy nan. Chỉ khi “Sanh như đắp chăn bông, tử như cởi áo hạ” thì
sanh sanh tử tử mới không là gì. Mọi thứ đều tự nơi mình.
Đời
người là một chuỗi nhân quả nhân quả nối tiếp nhau. Gây một nhân thiện,
gặt một quả tốt. Gây một nhân ác, gặt cái quả chẳng lành. Nhân nào đủ
duyên sẽ cho ra cái quả của nhân đó. Quả này gặt đủ thì quả khác trổ ra.
Cứ vậy mà thành toàn bộ đời sống một con người. Vì thế Phật Tổ chỉ tập
trung dạy người làm lành tránh ác. Tùy căn cơ mà cái thiện này có cạn
sâu. Bạch Cư Dị hỏi thiền sư Ô Sào “Thế nào là căn bản của Phật pháp?”.
Thiền sư trả lời “Các ác chớ làm, vâng làm điều thiện”. Bạch Cư Dị nói
“Câu này con nít 3 tuổi cũng thuộc”. Ô Sào nói “Con nít 3 tuổi cũng
thuộc nhưng ông lão 80 làm chưa rồi”. Quan trọng là ở một chữ LÀM. Làm
một việc thiện chính là gieo một nhân thiện, đủ duyên sẽ gặt một quả
thiện. Một hành động thiện cho ra một hoàn cảnh thiện. Mình nghe pháp,
sướng lỗ tai với những lý thuyết cao siêu mà làm toàn chuyện động trời,
không bằng nghe những điều thiện tầm thường rồi áp dụng nó vào đời sống
của mình. Bởi đó chính là cái nhân để mình có một hoàn cảnh tốt đẹp
trong tương lai. Mình là kẻ gieo nhân và thừa hưởng cái quả của những
nghiệp nhân đó. Không ai có thể quyết định thay cho mình. Vì thế, thiền
sư Phật Ấn nói “Cầu người không bằng cầu mình”.
PHẢI VƯỢT QUA CHÍNH MÌNH
Bạch
Vân Thủ Đoan lúc ở chỗ thiền sư Dương Kỳ, tham thiền đã lâu mà không
ngộ. Dương Kỳ rất quan tâm, muốn dùng phương tiện khai đạo cho Đoan bèn
hỏi “Ta nghe nói thầy ông trước đây là Trà Lăng Úc do té mà đại ngộ, có
làm một bài kệ, ông biết không?”. Thủ Đoan gật đầu và đọc bài kệ. Bài kệ
vừa dứt, Dương Kỳ cười lên quái lạ.
Nghe
tiếng cười, Thủ Đoan không ăn cơm, cả đêm ngủ không được. Hôm sau liền
đến pháp đường hỏi Dương Kỳ “Vì sao nghe bài kệ xong thầy liền cười?”.
Dương Kỳ không trả lời mà hỏi “Hôm qua ông có thấy tên hề trước tự viện
chăng?”. “Dạ thấy”. Dương Kỳ gật đầu “Thật tình ông không bằng tên hề ấy
chút nào. Tên hề mong sao được người khác cười mình, còn ông lại sợ
người khác cười”.
Kệ
không phải của mình, người phát ra tiếng cười cũng không phải kẻ thấp
hơn mình, chính là thầy dạy của mình, vậy mà Thủ Đoan ăn không được, ngủ
không yên. Chỉ vì một chút “Còn ông lại sợ người khác cười”.
Mình
học đạo mà tâm không thể sáng vì không phá được loại tâm chấp ngã này.
Không phải chỉ học đạo, mà học thứ gì cũng vậy. Một khi không thắng được
cái sợ người cười đó, mọi việc đều đình trệ. Không biết mà không dám
hỏi thì học không tiến. Chướng mà không dám hỏi, có khi là tu sai. Vậy
mà thứ gì mình cũng che đậy. Một cảm giác che đậy lạ lùng. Rất sợ người
khác cười mình. Rất sợ người khác thấy những khiếm khuyết của mình, sợ
người cho mình sai. Chỉ thích trình những thứ mình cho là tốt ... Sợ rất
nhiều thứ vô cớ mà không một lần nhìn lại tìm xem cái gì khiến mình như
thế, cái gì khiến mình rơi vào tình trạng vo tròn trong một cái vỏ ốc,
không hề tìm cách chui ra.
Chính
cái TÔI. Phật Tổ gọi là NGÃ TƯỚNG. Cái tôi ấy không có gốc, chỉ là một
thứ được nhóm họp và huân tập từ bao đời. Vì huân tập đã lâu nên nó có
lực khiến mình như thế. Nó có khuynh hướng bọc chặt những thứ mà nó cảm
thấy thua thiệt với người đối diện. Mình rất sợ người ta thấy mình trong
một cái đầu thiếu thông minh hay trong một bộ dạng không tốt. Khi buồn,
tôi đóng chặt cửa phòng, không muốn nhìn thấy ai cũng không muốn ai
nhìn thấy mình. Có thể trong trạng thái một mình yên lắng, tôi tìm thấy
sự bình an và nỗi buồn qua đi nhanh chóng. Nhưng sâu xa hơn, tôi không
muốn người ta thấy tôi buồn. Tôi không muốn người ta nhìn thấy bộ dạng
thỉu não của tôi. Tôi phải cười để mọi người thấy tôi vui, dù cái không
vui đã lộ hẳn ra ngoài, chỉ mỗi mình mình là không biết. Mình không biết
thành mình cứ tìm cách che đậy. Mình không thể tự nhiên như thiền sư Bá
Trượng “Vừa rồi khóc, bây giờ cười”.
Không
phải chỉ mình tôi mà hình như với rất nhiều người, ở nhiều lãnh vực
khác nhau, đều như thế. Mặc một chiếc áo vượt quá túi tiền, xây một căn
nhà dù phải đổ nợ, biết một nói hai, được ít nói nhiều, không biết nói
biết, trở thành kẻ huênh hoang sáo rỗng chỉ vì không muốn phô bày một sự
thật không muốn phô bày.
Những
năm đầu mới đến Thường Chiếu, tôi có rất nhiều thắc mắc muốn hỏi Thầy.
Song câu hỏi được chuẩn bị luôn đi kèm với một mớ gì khác không rõ ràng.
Câu này chằng chịt câu kia. Xuất hiện thêm những thứ đi kèm đó vì mình
hỏi mà mình sợ người thấy mình ngu. Chuẩn bị đâu đó rồi, thầy đến sát
mặt rồi, mình cũng nín thinh cho qua chuyện. Bởi mình sợ. Một cái sợ
không có nguyên do, không trình tin tức.
Võ Tắc Thiên đời Đường nói “Ta chỉ thực sự là ta khi ta tắm”.
Việc tu hành cũng như thế. chỉ khi ta cởi bỏ được những thứ che đậy bên
ngoài, ta mới nhận được cái thân chân thật của chính ta. Thiền sư
Suzuki nói “Ta cất nhà qui mô đồ sộ vượt hẳn mức cần dùng là cốt khoe
của, khoe địa vị xã hội và uy quyền chính trị, Nhưng đó toàn là những
món thêm thắc rởm, thật sự không làm cho cốt người của ta cao lớn thêm
tí nào”. Thứ gì không phải là mình, nó không thể làm mình khá hơn,
có khi còn khiến mình trở thành tên ngốc trước mặt mọi người. Ngốc vì
mình cứ cố che đậy những thứ mà mình tưởng che đậy được. Ngốc vì mình đã
đặt lên vai một gánh nặng không cần thiết. Thử một lần thành thật với
chính mình và với mọi người, vô tư trình hiện xấu tốt, mình sẽ thấy khỏe
khoắn biết bao. Vì sao cứ phải là một con người giỏi giang mà không là
một kẻ tầm thường và ngu tối? Vượt được một lần, mình mới có thể vượt
qua lần hai, lần ba và còn vô số lần để vượt qua nữa. Không thì mọi thứ
cứ bị bọc chặt trong một cái vỏ. Nó quấn lấy mình, ngày một cứng. Mình
sẽ ra sao trong tương lai khi tâm mang tính huân tập và lưu giữ rất
mạnh? Chiếc vỏ càng cứng, đập vỡ càng khó. Tu càng lâu, đạo càng xa. Vì
thế, cố gắng vượt qua những thói hư tật xấu, nhưng không nên dính mắc
vào xấu hay tốt. Không dính mắc thì mình mới có thể phá bỏ nó hoàn toàn.
Học
thiền mà bị sư phụ chê một câu “Không bằng một tên hề” thì thật là tối
tăm mày mặt. Song vì thủng tai được với những câu nói như thế nên sau
này Thủ Đoan là chủ của núi Bạch Vân, là thầy của thiền sư Pháp Diễn nổi
tiếng lúc bấy giờ.
HOÀNG ĐẾ GOYOZEI
Hoàng
đế Goyozei theo học thiền với thiền sư Gudo. Ông hỏi “Bạch thầy, thiền
nói tâm này chính là Phật. Có đúng không?”. Gudo đáp “Nếu tôi bảo đúng
thì ngài sẽ nghĩ rằng ngài hiểu mà không hiểu. Nếu tôi nói không thì tôi
phản lại một sự thật mà nhiều người đã biết hoàn toàn”. Một ngày khác,
hoàng đế lại hỏi “Người giác ngộ đi đâu khi chết?” Gudo trả lời “Tôi
không biết”. Hoàng đế hỏi tiếp “Vì sao Thầy không biết”. “Vì tôi chưa
chết’. Hoàng đế còn phân vân nhiều thứ mà ông chưa thể nào một lần hiểu
hết. Gudo đập tay lên bàn và hoàng đế giác ngộ.
Sau
khi giác ngộ, hoàng đế kính trọng thiền và ông già Gudo hơn nữa. Khi
hơn 80 tuổi, Gudo thường ngủ gục trong lúc dạy, và hoàng đế im lặng rút
lui để người thầy kính yêu của ông có thể hưởng được những gì còn lại mà
tấm thân già của Gudo đòi hỏi.
Thời
gian đầu tôi không hiểu lắm về những gì thiền sư Gudo đã nói với đệ tử.
Tôi không biết THIỀN là thứ để chiêm nghiệm không phải để giải thích.
Một sự giải thích quá rõ ràng thường biến đệ tử thành những con vẹt biết
nói hơn là truyền thiền cho họ. Tôi không biết sự thoái thác của ông là
phương tiện giáo hóa tuyệt vời của một bậc thầy : Đẩy hết mọi thứ về
phía người học, là để họ tự tìm và bật ra cái trí của chính mình, không
hẳn chỉ vì ông không trí. Ngày ấy tôi không hiểu được những điều như
thế. Song tôi rất thích câu chuyện vì tôi yêu quí Gudo.
Ông
không có phong cách dữ tợn hùng hồn như Vân Môn hay Đặng Ẩn Phong. Ông
nhẹ nhàng và thành thật. “Tôi không biết, vì tôi chưa chết”. Ông không
huênh hoang về những gì mình chưa trải qua. Lúc ấy tôi chỉ nghĩ đơn giản
như thế. Ông thành thật với chính mình và với đệ tử. Ông ít quan tâm
đến hình thái bên ngoài. Khi cần ông đập tay xuống bàn. Muốn ngủ ông gục
đầu xuống ngủ. Không có hình thức “thánh nhân” nào hiện diện nơi ông.
Cũng không cần tạo cho mình một hình thái thánh nhân. Ông đích thực là
một con người bằng xương bằng thịt. Có thể chính cái chất người đó là
thứ khiến tôi cảm thấy gần gũi và yêu thích. Có thể sự nhẹ nhàng của ông
là chỗ bù đắp sự yếu đuối của tôi. Song một người có thể làm cho người
khác giác ngộ, nhất định không phải kẻ tầm thường. Chính vì vậy, tôi yêu
quí Gudo.
Tôi
kính trọng sự tử tế chân thành của hoàng đế Goyozei đối với bậc thầy
của mình. Ngày nay tinh thần tôn sư trọng đạo không được như xưa. Ngoài
đời, trò mắng thầy, phụ huynh đánh cô giáo. Trong đạo, mình soi rọi lỗi
của thầy nhiều hơn là soi chiếu lại bản thân. Một chút không vừa lòng,
liền thành kẻ đối đầu. Ít ai quan tâm mình đã nhận được gì ở bậc tôn sư,
mà thường tìm cho được một ông thánh ở trần gian để nương tựa. Điều đó
hoàn toàn tốt. Nhưng quá đà một chút, mình dễ trở thành kẻ lang thang
không thầy. Không như Goyozei, quí trọng cả những việc được cho là tầm
thường dưới mắt người đời. Gudo thường ngủ gục trong lúc dạy, và hoàng
đế im lặng rút lui để người thầy kính yêu của mình có thể hưởng được
những gì còn sót lại của tấm thân già. Có lẽ, vì Goyozei đã giác ngộ. Sự
giác ngộ do chính Gudo mang đến.