Nếu hữu duyên ta sẽ bắt gặp
một loài hoa rất bình dị, tên gọi vô ưu. Vô có nghĩa là không, ưu có
nghĩa là buồn. Vô ưu là không buồn đau, không phiền muộn, không lo lắng.
Loài hoa này không thơm, không đẹp bằng nhiều hoa khác song vượt trên
muôn hoa vì mang trong mình tất cả những điềm lành. Hoa nở đem tới sự
tươi trẻ, giải thoát, niềm vui, hạnh phúc và an thái.
Vô ưu theo chữ Phạn có các tên là Asoka, Anganapriya,
Kenkalimara,... theo chữ Hán là A thủ ca thọ, A du ca,... Tên chung
khoa học là Jonesia asoka hay Saraca indica L, còn gọi là cây vàng
anh, họ Điệp phụ Caesalpinioideae, cao chừng 10 mét, lá xanh dài 9
cm, hoa to 10 cm mầu vàng cam và đỏ tươi, thơm dịu, quả dài 20 cm hình
bầu dục. Đây là loài hoa thân mộc, mọc nhiều ở Thiên Trúc, đất Phật, nơi
chân núi phía đông và trung của dãy Hi Mã Lạp Sơn (Himalaya). Hoa nở
đại đóa thu hút ong bướm. Thần thoại Ramayana Ấn Độ kể rằng, khi công
chúa Sita bị ác quỉ Ravana đuổi bắt, nàng đã sự trêu trọc của quỷ
vương. Phụ nữ Ấn Độ vì vậy rất tôn kính hoa vô ưu, xem đây là loại hoa
quý thường hái để dâng thần Siva. Vô ưu còn được gọi là hoa tình yêu,
tượng trưng của thần Kama Deva. Phụ nữ khi chạm vào hoa sẽ có vẻ đẹp
thanh xuân, được nhiều người yêu mến. Hoa cũng cảm nhận được tình
cảm con người nên khi được chăm sóc nở cực đẹp. Vô ưu cũng được gọi là
cây không đau do chứa chất giảm đau, khi hái lá hoa kết hợp dùng với sữa
ong chúa còn trị được bệnh trứng cá, làm mát da, chống béo phì hay u
mạch.
Hoa vô ưu gắn liền với ngày Phật đản. Theo tục truyền, vào năm 563
trước Công lịch, hoàng hậu Mahamada (Mahamaya) khi đó đang có
mang, Ngài cùng tùy tùng xa giá trên đường từ Ca Tỳ La Vệ
(Kapilavatthu) trở về cố quốc Thiện Giác quê ngoại để sinh con,
ngang qua Lâm Tì Ni (Lubini) - bấy giờ là một rừng hoa vô ưu bạt ngàn,
dạo ngự uyển chơi trong tiếng chim réo rắt thanh bình, thấy hoa nở rộ,
hạnh phúc đã đưa tay vịn cành hoa vô ưu và ngay sau đó đã sinh hạ Thái
tử Tất Đạt Đa - Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni). Và Ngài đã đi
những bước chân đầu tiên trên bảy đóa sen hồng. Tuổi trẻ của
Ngài thiền tịnh và ngộ được trốn dưới gốc cây hoa vô ưu và chống
được Đạo Vô thượng Chánh đẳng giác dưới gốc cây Bồ đề; Ngài đã
thuyết giảng lần đầu tiên tại vườn Nai và đi vào cõi Niết Bàn giữa
hai cây Sala,... Ngài xuất thế đã hé nở một nụ cười giải thoát cho bao
kiếp sống đọa đày, và nhờ lòng từ bi vô lượng đem tới cho thế giới sự
bình yên, xua tan nỗi sợ hãi bởi chiến tranh, nạn khủng bố, bạo lực,
sự chết chóc đang diễn ra từng ngày trên nhân thế. Kinh Tăng
Nhất A Hàm ghi: Một con người phi thường đã xuất hiện trong
thế gian này, vì lợi ích và hạnh phúc cho số đông, vì lòng bi mẫn, vì sự
tốt đẹp, vì sự lợi ích và hạnh phúc cho chư Thiên và loài người.
Ngày vô ưu nở hoa cũng là ngày nở hoa của đời người. Nhân tâm, trí
tuệ được khơi nguồn, sống dậy xóa đi sự vô tri vô giác, dập tắt hận thù
và giải phóng thể xác - tâm hồn.
Vô ưu là biểu tượng của Phật pháp cảm hóa con người bằng lương tri và
trí tuệ, kêu gọi sự từ bi hỉ xả, bình đẳng, tự do; chiến đấu với tội
ác, tham sân si và dục vọng, v.v... Việc đầu tiên mà hoa gửi tới chính
là sự kêu gọi con người phải có tình thương yêu, tôn trọng sự sống và
không sát sinh. Kế đó là quyền tự chủ và trí tuệ để nhận thức chân lí,
biết và đem lại lợi ích cho mình và người, cho cuộc đời.
Đã trải qua hơn 2.500 năm kể từ ngày Phật đản, hoa vô ưu vẫn nguyên
sự tươi tắn, sum suê và ngày đêm tỏa hương để thức tỉnh nhân loại trước
những khổ đau, thù hận và u tối.
Từ đất Phật về Việt Nam, hoa vô ưu đã được trồng khắp nơi trong các
chùa chiền, trung tâm nghiên cứu Phật giáo, dọc hai bên đường làng lối
xóm ở vùng quê lẫn đô thành. Lần nào, hoa nở cũng huyền diệu, tràn trề
và rực rỡ, không kể mùa hay khí hậu, ngày đổi mầu ba lần: sáng hồng
tươi, trưa vàng cam, tối đỏ thắm; ban ngày hương đưa nhẹ nhàng và ban
đêm hương nưng nức sân vườn.
Có khá nhiều thi phẩm ca ngợi vẻ đẹp của hoa vô ưu, như bài thơ Hoa Vô ưu:
Mưa nắng bốn mùa ấm lạnh
Tượng đời ngẩng mặt an nhiên
Đóa hoa vô ưu trầm mặc
Nở bừng... rực rỡ... thiêng liêng!
Xuân hồng cánh hoa nhân ái
Đôi mắt mồ côi biết cười
Hương xưa làn môi thổn thức
Tìm đâu bóng mẹ xa xôi...
Tháng Sáu ngây thơ phượng vĩ
Trong veo giọt nắng sân trường
Chiêm bao nghiêng tình nón Huế
Tóc thề hương phấn yêu thương!
Hoa dịu dàng thu biếc lá
Bồ đề rợp mát chùa quê
Trời xanh tháng Mười êm ả
Ầu ơ... ru xưa đồng vọng
Vô ưu hoa ngát đường về.
Hoặc Vườn hoa Vô ưu:
Ánh sáng mờ sương hơi gió nhẹ
Cảnh an bình động vật lao xao
Bay lượn đàn chim ríu rít hót
Cảnh vật yên vui thật ngọt ngào
Hoa vô ưu từng chùm nở rộ
Sáng rực sắc vàng bên vườn nhà
Bướm ong vườn lượn tìm phấn mật
Trên đất lát đầy những cánh hoa./.
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo