Vì sao có quan niệm về trùng tang?
Người ta sinh ra vào thời điểm nào là điều có thể biết trước. Sau khi
 thụ thai,  trong bụng mẹ chín tháng mười ngày... ắt phải cất tiếng khóc
 chào đời. Nhưng khi  nào thì chết vẫn là một bí ẩn. Vì vậy có câu: 
"Sinh có hạn tử bất kỳ".
 
 Ra đời chỉ có một cách là từ bụng mẹ 
chui ra, còn chết lại thiên hình vạn trạng:  Chết già, chết do bệnh tật,
 chết do tai nạn, chết do thiên tai, chết do chiến  tranh, đói rét, chết
 do tù đầy... Có người chết tại nhà, có người chết ở bệnh  viện, có 
người chết đường, chết chợ. Có người thanh thản ra đi, có người "chết  
không nhắm được mắt".
Người chết đã đành người thân còn sống cứ băn khoăn, áy náy không 
hiểu người  chết đã "đúng số" chưa hay chết oan uổng... và ảnh hưởng của
 người chết với  người sống như thế nào? 
 
 Đây là những câu hỏi 
và cũng là nguyện vọng chính đáng của những người còn sống  với vong 
linh của người đã khuất và để giải toả cho chính mình. Chính vì thế mà  
khái niệm về trùng tang, nhập mộ đã ra đời.
Cách tính trùng tang theo quan niệm cổ nhân
 
 Từ xa xưa, dựa trên dịch lý, cổ nhân đã xây dựng cách tính (xác định) 
trùng  tang. Người xưa cho rằng đối với người quá cố khi chết phải xem 
tình trạng ra đi  có được "yên ổn" hay không? Có gì oan khuất hay không,
 được thể hiện qua 3 nhóm  biểu hiện trạng thái vong linh của người đã 
khuất, đó là:
 
 1. Nhập mộ: Yên ổn, đúng số, không có điều gì băn khoăn, oan ức... đóng ở các  cung THÌN - TUẤT - SỬU - MÙI.
 2. Trùng tang: Chết thiêng, chết oan, còn vương vấn ở trần gian đóng ở các cung  DẦN - THÂN - TỴ - HỢI.
 3. Thiên Di: Có ảnh hưởng xấu đến người thân đang còn sống ở các cung TÝ - NGỌ -  MÃO - DẬU.
Theo sách "Tam Giáo Chính Hội": Nam nhất thập khởi Dần thuận liên  
tiến, Nữ nhất Thập khởi Thân, nghịch liên tiến, Niên hạ sinh nguyệt, 
Nguyệt hạ  sinh Nhật, Nhật hạ sinh Thời. Ngộ Tý - Ngọ - Mão - Dậu Thiên 
di. Dần - Thân - Tỵ  - Hợi Trùng tang. Thìn - Tuất - Sửu - Mùi Nhập mộ 
cát dã. Cụ thể như sau:
 
 Cách tính: Phải tính cả năm, tháng, 
ngày, giờ (niên, nguyệt, nhật, thời). Người  quá cố phải được ít nhất 1 
nhập mộ mới có thể xem là giờ ổn. Nếu được càng nhiều  nhập mộ càng tốt 
(nhiều nhất là 4 nhập mộ).

Niên (năm): Người quá cố là nam, khởi từ cung Dần, đi theo chiều 
thuận kim đồng  hồ. Gọi cung Dần là 10 tuổi, cung Mão là 20 tuổi, cung 
Thìn là 30 tuổi... cứ thế  mỗi cung là 10 tuổi cho đến số hàng chục của 
tuổi thọ người quá cố, rồi cứ tiếp  mỗi cung là 1 tuổi cho đến hết số 
tuổi người quá cố. Người quá cố là nữ, khởi từ  cung THÂN, đi theo chiều
 ngược kim đồng hồ. Gọi cung Thân là 10 tuổi, cung Mùi  là 20 tuổi... cứ
 thế mỗi cung 10 tuổi cho đến số hàng chục của tuổi thọ của  người quá 
cố, rồi tiếp mỗi cung là 1 tuổi cho đến số hàng chục của tuổi thọ của  
người quá cố. Nếu số đó trùng vào các cung THÌN - TUẤT - SỬU - MÙI  thì 
được  niên nhập mộ, nếu các cung DẦN - THÂN - TỴ - HỢI thì bị trùng 
tang, vào các cung  TÝ - NGỌ - MÃO - DẬU thì bị thiên di.
| Theo
 quan niệm của dân gian, trùng tang là trường hợp người chết phạm  		
phải năm (tuổi), tháng, ngày hoặc giờ xấu cho nên linh hồn không siêu  	
	thoát được về nơi cực lạc, cứ quanh quẩn nơi người thân và bị "ma xui, 
 		quỷ khiến" bắt người thân đi. Nói nôm na là trong một thời gian ngắn 
(thường  		là 3 năm) sẽ có một số người thân (thường là ruột thịt) chết 
sau người  		đã khuất. | 
Trường hợp người quá cố dưới 10 tuổi là nam thì cung Dần là 1 tuổi, 
cung Mão là  2 tuổi, cung Thìn là 3 tuổi... cho đến tuổi mất của người 
quá cố. Trường hợp  người quá cố dưới 10 tuổi là nữ thì cung Thân là 1 
tuổi, cung Mùi là 2 tuổi,  cung Ngọ là 3 tuổi.. cho đến tuổi mất của 
người quá cố.
 
 Nguyệt (tháng): Tháng giêng tiếp ngay vào sau 
cung tuổi. Thí dụ: Tuổi dừng ở  cung Ngọ thì tháng giêng ở cung Mùi (đối
 với nam) và tháng giêng ở cung Tỵ (đối  với nữ) cứ thế mỗi tháng tiếp 1
 cung cho đến tháng mất của người quá cố. Nếu vào  THÌN - TUẤT - SỬU - 
MÙI thì được nhập mộ; Nếu vào DẦN - THÂN - TỴ - HỢI thì bị  trùng tang. 
Nếu gặp TÝ - NGỌ - MÃO - DẬU thì bị thiên di.
 
 Nhật (ngày): Ngày
 mùng 1 tiếp vào ngay sau cung tháng, cứ thế tiếp mỗi ngày 1  cung cho 
tới ngày người quá cố qua đời và xem rơi vào nhập mộ, trùng tang hay  
thiên di như trên.
 
 Thời (giờ): Giờ Tý tiếp ngay sau cung ngày 
và mỗi cung là 1 giờ cho đến giờ  người quá cố qua đời và xem rơi vào 
nhập mộ, trùng tang hay thiên di như trên.
 
 Nói chung được 1 
nhập mộ trở lên là yên tâm, vì "nhất mộ sát tam trùng" (một  nhập mộ xoá
 được 3 trùng tang). Hoặc được 2 thiên di thì cũng không lo vì "nhị  
thiên di sát nhất trùng" (2 thiên di xoá được 1 trùng tang). Nếu không 
có nhập  mộ nào thì phải xem ngày mất của người quá cố có phạm vào tam 
sa sát hay không?  Theo người xưa và sách vở ghi chép lại thì: Trùng 
tang Ngày là nặng nhất. Trùng  tang Tháng là nặng nhì. Trùng tang Giờ là
 nặng thứ ba. Trùng tang Năm là nhẹ  nhất. 
Quan niệm cổ về trùng tang
Nếu căn cứ vào phép tính trùng tang như trên thì cả nam và nữ những 
người chết  vào các tuổi (âm lịch): 10, 13, 16, 19, 22, 25, 28, 31, 34, 
37, 40, 43, 46, 49,  52, 55, 58, 61, 64, 67, 70, 73, 76, 79, 82, 85, 88,
 91... sẽ rơi vào trùng tang.  Từ đó quy nạp ngược lại theo hệ can - chi
 thì những người có tuổi: Tý, Ngọ, Mão,  Dậu nếu chết vào một trong các 
năm TÝ - NGỌ - MÃO - DẬU thì rơi vào trùng tang;  Hoặc: Dần, Thân, Tỵ, 
Hợi nếu chết vào một trong các năm DẦN - THÂN - TỴ - HỢI  thì rơi vào 
trùng tang; Thìn, Tuất, Sửu, Mùi nếu chết vào một trong các năm THÌN  - 
TUẤT - SỬU - MÙI có nghĩa là chết vào các năm "xung (tứ hình xung) sẽ bị
 TRÙNG  TANG (xem bảng).

Dưới góc độ của Dịch lý, trên cơ sở học
 thuyết Âm - Dương và Ngũ hành: Đồng  	khí (đồng cực) thì đẩy nhau, khác
 khí (khác cực) thì hút nhau. Tương sinh  	thì tốt, tương khắc thì xấu, 
đồng hành thì tị hoà. Vậy thì người chết vào  	những năm xung (tứ hình 
xung) thì rất xấu nên bị TRÙNG TANG.
Ví dụ: Người tuổi Mão (thuộc Mộc, ở phương Đông) chết năm Dậu (thuộc 
Kim ở  phương Tây) sẽ bị trùng tang vì Kim khắc Mộc, Tây đối lập với 
Đông; Hoặc người  tuổi Ngọ (ở phương Nam thuộc Hoả) chết năm Tý (ở 
phương Bắc, thuộc Thuỷ) sẽ bị  TRÙNG TANG vì Thuỷ khắc Hoả, Bắc với Nam 
đối lập... Các trường hợp khác cũng  tương tự như vậy. Như vậy, việc xác
 định trùng tang là dựa trên nguyên lý của  dịch với học thuyết Âm dương
 - Ngũ hành chứ không phải sự mê tín, tuỳ tiện. 
 
 Chưa có cơ sở về cách giải?
 
 Theo sách vở ghi lại và cách làm của các thầy và kinh nghiệm dân gian 
thì việc  giải trùng tang có nhiều cách khác nhau như: Gửi lên chùa để 
"nhốt trùng" lại;  Chọn ngày, giờ an táng không phạm vào giờ kiếp sát; 
Làm huyệt giả; Đổ tỏi vào  huyệt khi lấp đất... thậm chí có cả bài thuốc
 trấn trùng, dùng linh phù để trấn...  Tuy nhiên, đây là những cách giải
 huyền bí, không có cơ sở, khó thuyết phục. 
 
 Đối với Phật giáo 
thì sống chết là chuyện thường nhiên, do nghiệp lực của tự  thân mỗi 
người chi phối. Sống và chết chỉ là hai hiện tượng trong tiến trình  
luân hồi bất tận. Vì thế, Phật giáo không có quan niệm về ngày trùng 
tang, trùng  nhật và hoàn toàn phủ nhận việc ngày giờ chôn cất của một 
người mà có thể ảnh  hưởng đến sự sống chết của người khác. 
 
 
Tuy nhiên, vì tập tục này ăn sâu vào tâm thức mọi người nên một vài nơi 
nhà chùa  vẫn khuyên các Phật tử không an táng thân quyến vào những ngày
 trùng, nhằm giúp  họ an tâm để chu toàn tang lễ đồng thời nỗ lực cầu 
nguyện, khai thị, làm phước  hồi hướng cho hương linh.

  
Quan sát và chiêm nghiệm thực tiễn
 
 Quan sát và chiêm nghiệm khá nhiều người chết và tình trạng xảy ra sau 
đó với  người thân của người quá cố, chúng tôi thấy có 4 trường hợp xảy 
ra:
 
 1. Người quá cố bị trùng tang kể cả đã làm giải trùng, sau 
đó có những người  thân mất theo (thậm chí nhiều người liên tiếp). Trong
 trường hợp này người sống  rất hoang mang, lo sợ và cho rằng trùng tang
 là có thật.
 
 2. Người quá cố bị trùng tang có khi không làm 
giải trùng, nhưng sau đó người  thân hoàn toàn bình an vô sự, thậm chí 
còn gặp may mắn. Trong trường hợp này  người thân không tin có chuyện 
trùng tang.
 
 3. Người quá cố không bị trùng tang, thậm chí có 
nhiều nhập mộ, nhưng sau đó  người thân vẫn gặp rủi ro, bất trắc, thậm 
chí có người chết sau khi người quá cố  qua đời. Trong trường hợp này, 
người sống trở nên mất lòng tin vào việc dự báo  có trùng tang hay 
không.
 
 4. Người quá cố không bị trùng tang và sau đó gia đình 
và người thân của người  quá cố hoàn toàn bình an vô sự. Trong những 
trường hợp này người sống tin là  người quá cố đã chết đúng số.
 
 Như vậy cho thấy mọi việc đều có thể xảy ra theo chiều hướng đúng hoặc 
sai với  việc dự báo (tính) trùng tang. Tất cả đều xảy ra một cách ngẫu 
nhiên, có thể  trùng hợp hay sai lệch với việc người quá cố có trùng 
tang hay không, không theo  một quy luật nào cả.
Đừng "bày cỗ cho ma ăn"
 
 Một triết gia đã 
từng nói: "Cái gì còn tồn tại, cái đó còn hợp lý". Câu chuyện  về trùng 
tang vẫn đang tồn tại, hiện hữu trong đời sống tâm linh và tập tục  
trong đời sống. Bởi vậy, không nên vội vàng "chụp mũ" đó là thứ mê tín 
dị đoan  cần cấm kỵ trong khi chưa có minh chứng đủ thuyết phục đó là mê
 tín dị đoan phải  loại bỏ. Hơn thế nữa, bản chất vấn đề là hướng thiện,
 mong cho linh hồn người  chết được siêu thoát và sự bình an của người 
sống. Vậy sao lại cấm đoán. Làm như  vậy e rằng chúng ta quá cực đoan và
 sẽ "phủ định sạch trơn".
 
 Còn nói trùng tang là một hiện tượng 
khoa học do sóng nhân điện như một số nhà  cảm xạ, nhà khoa học giải 
thích e rằng chưa đủ cơ sở và cũng không thật thuyết  phục. Thực chất đó
 cũng chỉ là sự suy diễn. Bởi lẽ nếu là khoa học thật sự thì  phải có sự
 chứng minh, lý giải, tuân theo một quy luật chặt chẽ... 
 
 Nhưng
 thực tế cho thấy có trường hợp trùng tang vẫn bình an vô sự, ngược lại 
có  trường hợp không trùng tang vẫn gặp rủi ro, tai hoạ, thậm chí chết 
người. Vậy  giải thích thế nào, trong khi chúng ta thừa nhận "thực tiễn 
là thước đo chân lý"?
 
 Điều cần nói thêm là theo sách vở để lại 
và tập tục trong dân gian có trùng tang  và có cách giải trùng tang. 
Thực ra việc giải trùng tang cũng đơn giản, không  tốn kém là bao. Có 
điều ngày nay một số "thầy" đã lợi dụng lòng tin theo tinh  thần "có thờ
 có thiêng, có kiêng có lành" và "bị bệnh phải vái tứ phương" để khi  
chẳng may có người nhà bị trùng tang thì bày đặt ra phải lập đàn cúng 
tế, đốt  vàng mã, "bày cỗ cho ma ăn"... để kiếm chác làm không ít người 
lâm vào cảnh vay  mượn để làm (đối với người nghèo) hoặc gây lãng phí về
 của cải, thời gian (đối  với người giàu) là việc cần lên án và loại bỏ.
Xem thêm >>> Hoá giải trùng tang
Lương y Vũ Quốc Trung 
* Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả