Cạnh nhà tôi là chiếc cầu xây theo lối thượng gia hạ
kiều, lợp ngói âm dương mát rượi. Chiến tranh, chùa bị đốt mất, cầu bị
giật mìn, đến khi cải cách đình được trưng dụng làm sân kho hợp tác.
Tôi sinh ra ở Hà Nội, về quê viếng mộ ông bà, cỏ mồ xanh úa, ao tàn lấp
dở. Chùa thì mới dựng lại, hàng chục tấm bia lớn nhỏ nằm sấp ngửa từ sân
ra đến giếng làng, lòng bia trán bia nhẵn thín; bố tôi bảo hồi xưa hợp
tác xã dùng để đập lúa, làm cầu ao và làm tấm kê chỡpe công nông chạy.
|
Sắc phong đình Xuân Dục (niên đại tk XVIII, đời Cảnh Hưng) đã bị ép dẻo và bong lớp.
|
Tôi về nhà bác tôi,
các anh tôi chân quê mắt toét. Người thì suốt đời bò trên ruộng đất, kẻ
thì vật vã chốn đô thành, người thì pha nước mắm Tàu bán rong, người thì
vay nợ đi nước ngoài xuất khẩu lao động thô. Lần hồi đoạn tháng. Tôi
về, không có nổi bát canh cua nuôi vị quê hương. Ruộng quê bạc thếch vì
thuốc sâu, anh tôi đi kiếm bữa nhậu bằng cần nhúng điện. Tôi hỏi gia
phả, nhưng mất hết. Anh tôi bảo chú học hành hai chục năm, giờ lương
tháng được triệu hai chẳng bằng anh chạy xe ôm; tôi cười cười, gãi đầu
ngớ ngẩn! Bố tôi là tiến sĩ, lãnh đạo một viện nghiên cứu, bố tiếc tôi
không theo nghề, lại bảo rằng tôi đi học thứ chữ của người chết làm gì.
Tôi biết bố được dạy như thế thật. Lòng không thấy giận, nhưng trống
huếch. Tôi chợt nhớ đến lần khai sơ yếu lý lịch đầu tiên khi tôi chuẩn
bị đi học vỡ lòng, cái cảm giác lâng lâng và tự hào khi viết chữ “không”
to tướng vào mục khai “tôn giáo”. Hơn hai mươi năm sau, tôi mới lờ mờ
hiểu được tại sao mình lại có cảm xúc ấy. Nhưng bây giờ, day dứt tôi hơn
cả là những đồng ruộng tơi bời, những làng quê khánh kiệt văn hoá và
những thế hệ vôi hoá tâm hồn. Tôi lang thang qua các triền sông, qua
những nếp chùa hoang lạnh, lòng mường tượng về những vùng văn hoá cổ
truyền đã từng hiện diện trên dải nước non này…
1. Về một vùng văn hoá bị xoá xổ
Đầu năm
nay, tôi được cử đi công tác tại Như Thanh, một vùng đất được coi là
hẻo lánh và mới mẻ của Thanh Hóa. Nghe qua tên (Như Thanh, nghĩa là đến
đất Thanh), tôi đoán chắc đây là tên do một vị nho sĩ nào đó đặt ra cho
vùng đất này. Nhưng thật lạ là trong các buổi nói chuyện với các cấp
lãnh đạo văn hoá, thì ai cũng khẳng định đây là huyện mới thành lập từ
những năm 1960. Hỏi về lịch sử trước đó thì dĩ nhiên không ai biết, chỉ
có lịch sử Đảng bộ thì đang biên soạn. Tôi la cà đi hỏi người dân, không
ai nhớ gì.
Lần qua phủ Bến Sung, nơi được coi là trung tâm tín ngưỡng của cả
vùng. Chẳng ngờ gặp được cậu em ở trọ cùng khu ngày xưa trên Thanh Xuân,
cậu này vốn là dân thế giới thứ ba, nay dạt về vùng đất hẻo lánh này
làm cô làm cậu. Hỏi ra mới biết đất hẻo này là chốn ăn chơi, phủ Sung là
nơi làm công tác tinh thần cho những người giàu có và quyền lực nhất
vùng, cũng là nơi ăn chơi nhảy múa hơn cả. Dân ở đây vốn là Việt kiều ở
Thái Lan được vận động về định cư vào giữa thế kỷ trước. Phủ Sung mới
toanh, sơn son loè loẹt, chữ nghĩa èo uột; có hai tấm bia chữ Hán (hai
cổ vật có giá trị nhất còn sót lại của huyện), nhưng đã di sang một phủ
khác gần đấy, tên là phủ bà X. Chẳng ai đọc được chữ nào, nhưng ai cũng
cho là của phủ mình. Bà X vốn nhặt được “các ngài” hồi hợp tác xã, hương
hoả mấy chục năm nay cho bà con, chính quyền cũng vì dân nên không dám
động vào. Thế là hình thành nên thế lưỡng phân: “phủ ông ông cúng, phủ
chúng chúng thờ”.
|
Tượng Phật Bà nghìn tay nghìn mắt chùa Bút Tháp (niên đại tk XVII, Bắc Ninh), với ngón tay bị bẻ.
|
Ngoài hai phủ ấy ra, tuyệt không thấy
di tích nào nữa. Ấy thế mà trên làng sâu nhất, cách phủ lị chừng 17 km
đường rừng núi, người ta từng đào được một chiếc trống đồng; huyện lập
tức nẫng trống về, được một hai hôm tỉnh về đem lên tỉnh mất. Ở một xã
khác, chúng tôi còn tìm được những chân cột bằng đá xanh to lắm. Hỏi
dân, thì biết rằng đình bị phá từ những năm 1950. Chúng tôi qua một làng
khác, Uỷ ban xã nằm ngay dưới một gốc sanh chừng ba bốn trăm năm, lưng
Uỷ ban dựa vào núi, mặt hướng ra hồ nước xanh đẫm với cánh đồng lấp ló
lúa chớp đông điểm xuyết những thân kè mốc thếch. Chúng tôi hỏi ướm ông
phó Chủ tịch có phải nền nhà xưa là chùa cổ, ông phả khói thuốc lào xong
quay đầu sang kêu: thế à?
Tôi
chợt rùng mình: điều kinh khủng nhất của sự phá huỷ chính là khi sự vật
không còn hiện hữu trong trí nhớ của chính chủ thể văn hoá! Đêm về phủ
lị, đầu tôi cứ ong ong những tiếng khánh tiếng chuông và tiếng đồng cổ
từ núi vọng về, ra ngoài hành lang đi dạo, thì thấy phòng bên đã mở
chiếu bạc và tiếng con gái cười trong trẻo qua khói thuốc mênh mông…
2. Những di tích biến dạng
Trước
đây tôi có qua chùa Tiêu, mê mẩn đi trong vườn tháp cổ, lên đỉnh núi
vọng xuống dòng Tương giang huyền thoại. Dăm tháng sau, mấy tên trộm cổ
vật phát lộ ra pho tượng táng của Thiền sư Như Trí vào thế Kỷ XVIII. Rồi
dự án nghiên cứu và bảo trì nhục thân thiền sư được thực hiện. Phóng
viên và khách tham quan về tới tấp. Chùa hình như được “quan tâm” hơn,
đường vào chùa giờ đã được bê tông hoá, lối lên là đôi rồng xi măng xanh
xao vàng vọt. Vườn tháp nằm nem nép dưới chân khu tăng xá và nhà khách
mới xây. Tam bảo đóng cửa im ỉm, khách vào vãn cảnh không thắp được
hương đành nhòm qua khe cửa xem bóng tam thế soi dưới nền đá hoa. Mấy kẻ
hiếu kì thì trèo lên đỉnh Tiêu sơn ngắm tượng Phật mới xây theo phong
cách Ấn Độ, tuy không cổ xưa nhưng được cái hoành tráng và bề thế.
|
Tượng cừu chùa Dâu (niên đại tthế kỷ VI, chùa Dâu - đền Sĩ Nhiếp, Bắc Ninh), lưng tượng cừu đã bị mòn vẹt vì đập lúa.
|
Gần chùa Tiêu là đình Hồi Quan được
xây dựng vào quãng thế kỷ XVIII. Đình không nổi tiếng lắm nên còn giữ
được khá nhiều. Mái đình cong vút, những vạt điêu khắc theo phong cách
hậu Lê vừa khoáng hoạt vừa tinh tế. Cụ từ chỉ cho tôi đôi hổ vờn trên
nóc, cụ bảo mảng chạm ấy mới làm lại; mảng cổ ngày xưa bị cấp trên đem
về mất. Tôi tẩn mẩn đi chụp từng mảng từng miếng. Nơi này mây lửa sứt
mẻ, nơi khác linh thú bị chém bạt đầu. Vết dao cũng đã phủ bụi thời
gian, đoán chừng dăm ba chục năm gì đấy. Trong đình còn những đôi câu
đối, những bức hoành và cuốn thư chữ nghĩa cổ kính, bút pháp hào hoa. Có
đôi câu đối chữ lệ tuyệt mỹ, tiếc là mới bị sứt mất do trẻ con nghịch
ngợm. (ảnh: linh thú bị chặt mất đầu) Thiền Phong, anh bạn tôi cẩn thận
chụp từng chữ một, bảo về làm tư liêu sau này viết về lịch sử thư pháp
Việt Nam.
Cùng ở
gần đấy là đền Đô, thờ tám vị vua triều Lý. Di tích cấp quốc gia, nên
phần trang trọng là hàng cây kỉ niệm của các vị lãnh đạo cấp cao. Kiến
trúc được sửa mới hoàn toàn. Mới vào sân, đập ngay vào mắt là đôi sư tử
Tàu hung dữ, trông vừa hàng mã, trọc phú lại vừa a dua đua đòi; chắc là
đồ cúng tiến của đại gia nào đó khệ nệ vác từ Trung Quốc về. Các loại
hoành phi câu đối đều mới coóng, thư pháp hạng xoàng, gò đồng bóng nhãy
và nhem nhuốc. Tượng các vị vua đều được đặt trong khám bằng kính, đen
mờ vì khói nhang. Chỗ nào cũng treo bức ảnh “bát đế vân du” như là minh
chứng cho sự giàu có và linh thiêng về văn hoá, lịch sử. Lẽ thường, càng
là di tích quốc gia, càng được Nhà nước đầu tư thì di tích càng bị tiêu
thổ mạnh. Các cơ quan hữu quan chỉ chú tâm vào việc giải ngân thế nào
cho hợp lý để tiện bề nuôi nhau chứ mấy khi để ý đến việc bảo tồn.
3. Những cổ vật biến hình
Chúng
tôi từng qua núi Non Nước ở Ninh Bình. Núi khắc đầy thơ của người xưa,
chỗ này thơ Trương Hán Siêu, chỗ kia là bút tích chúa Trịnh. Lại có một
bức “vũ trụ dĩ lai” rất nổi tiếng của Ngô Thì Sĩ. Giờ thì núi Bài Thơ
không ai lên để đọc thơ nữa. Học sinh lớp mười hai lên đấy mượn phong
cảnh đẹp để chia tay thời áo trắng học đường, khắc lên sườn núi những là
xúc cảm của lứa tuổi 9x mộng mơ và dại khờ. Chịu chung số phận là hàng
loạt các thắng tích khác trên khắp đất nước. “Văn hoá” khắc và viết kỉ
niệm lên di tích đã trở thành một vấn đề nhức nhối. Học sinh các cấp,
sinh viên đại học và các khách du lịch trong nước để lại tên mình và tim
mình trên chuông trên khánh, trên cấu kiện gỗ bằng mọi cách, khắc bằng
dao kiwi hay dao trổ rọc giấy, viết bằng gạch non, bút phủ hay bằng vôi
ve. Gần đây lại thêm mấy nhà thơ Hải Phòng chủ ý đánh bóng thơ mình
bằng sơn nữa.
Tuy nhiên, những cơ quan chủ quản đành chịu bất lực với hiện tượng
này, vì các thế hệ người Việt lâu nay không hề được giáo dục về hành vi
văn hoá trong di tích, hoặc nếu có được giáo dục đi chăng nữa thì sự phá
hoại lại xảy ra ở mức độ có chủ ý và đầy ác ý. Tôi từng rờn rợn khi
thấy những đứa trẻ tay cầm thanh nứa mỏng lia đứt bất kỳ mầm cây nào
mà chúng thấy với một khoái cảm man rợ, càng quát chúng chúng càng nhâng
nháo và nghịch dữ hơn. Giờ là với các di tích và các cổ vật trong di
tích. Mới đây thôi, cách nay chừng ba bốn tuần, bức tượng Phật Bà nghìn
tay nghìn mắt, tuyệt phẩm bậc nhất của điêu khắc Việt Nam thế kỳ XVII đã
bị bẻ mất… ngón tay. Thầy trụ trì chỉ còn biết lầm rầm tụng niệm.
|
Linh thú chùa Phật Tích (niên đại thế kỷ XII, Bắc Ninh) đã bị mất nửa đầu.
|
Mấy năm trước, tôi dẫn sinh viên bảo
tàng đi thực tập. Lừng lững trong sân một số bảo tàng là những sấu đá,
ngựa đá, voi đá; toàn những “chiến lợi phẩm” của bảo tàng trong quá
trình đi điền dã tại địa phương. Sự bóc tách các cổ vật tại di tích để
đem về trưng bày cho hệ thống bảo tàng hay cơ quan văn hoá các cấp thực
chất là sự giết chết cổ vật và làm “nghèo hoá” chính các di tích bản
địa. Một yếu tố văn hoá thực sự chỉ có giá trị khi nó nằm trong môi
trường văn hoá của chính nó. Như cá tươi chỉ khi ở dưới nước, chim hót
hay chỉ khi ở trên cành. Ấy là chưa kể đến sự lợi dụng chức quyền, lợi
dụng tư cách cán bộ văn hoá để ăn cướp hay mua hớt tay trên các cổ vật
có giá trị. Cho nên, bảo tàng thì nghèo nàn xập xệ, còn các sưu tập cá
nhân (của chính cán bộ) thì toàn đồ hiếm và hiểm; và không lâu sau thì
tuồn ra nước ngoài.
Việc
cán bộ văn hoá bảo tồn di tích và lưu giữ cổ vật cũng là một vấn đề đáng
nói. Ở nhiều nơi, các cổ vật quý thường được cố định bằng dây xích và
gắn bê tông đến gần nửa thân. Các cụ từ, cụ lềnh, các sư trụ trì đều có
tư duy “thích khang trang”, luôn muốn phá di tích cũ đi để xây mới cho
sạch sẽ, sáng sủa. Các cấu kiện gỗ, các mảng miếng chạm trổ cũ thường bị
vứt đi sau quá trình trùng tu di tích. Các tượng cũ được tô lại với tay
nghề vụng về, và chất liệu mới sẽ rất dễ phá huỷ và ăn mòn tượng cổ.
Sắc
phong xưa vốn được trữ trong hộp sắc hay ống quyển bằng tre, lớp cật
cách nhiệt, chống thấm và chống ẩm rất tốt; nay chuyển sang ống sắt và
ống i-nốc; tệ hại hơn có những nơi bảo quản sắc phong bằng cách đem đi
ép plastic. Chúng tôi còn nhớ được hai nơi có hiện tượng này đó là đình
Xuân Dục (Bắc Ninh) và ban văn hoá xã Nhân Huệ (Chí Linh, Hải Dương).
Chất nhựa khi ép nóng, hai mặt sẽ cắn chặt vào giấy vĩnh viễn. Việc ép
dẻo sẽ dẫn đến nhiều hệ quả tai hại: như sắc phong sẽ rất dễ bị gãy theo
lớp nhựa; hay khi bị nóng ẩm lâu năm, lớp nhựa sẽ bị tróc ra, bóc đi xơ
dó cũng như toàn bộ hoa văn, thư pháp và triện khắc trên sắc phong đó,
đây là nguy cơ trầm trọng nhất. Ngoài ra, việc ép dẻo sắc phong sẽ gây
rất nhiều khó khăn trong việc chụp ảnh tư liệu và phục chế sau này.
Có lẽ
trăm năm vừa qua là giai đoạn tổn thất văn hoá cổ truyền lớn nhất kể từ
sau cuộc tàn sát văn hoá Đại Việt thời thuộc Minh. Khác biệt ở mỗi một
điểm, đó là sau khi đánh đuổi được quân xâm lược, nhà Lê đã xây dựng lại
được một nền văn hoá mới nhưng vẫn tiếp nối được những hào khí xưa cũ.
Nho giáo được đặt trong mối tương quan và vị trí khác hẳn so với thời Lý
- Trần. Trong khi đó, sau khi thoát khỏi được ách đô hộ của Pháp, người
Việt đã bẻ ghi văn hoá sang một giai đoạn đại chúng đầy nhiệt thành.
Chữ quốc ngữ thay thế cho chữ Hán, chữ Nôm và chữ Pháp, họ Tưởng tiếc là
người Việt tự loại mình ra khỏi khối các nước đồng văn; ai ai cũng biết
đọc, nhưng điều đó không có nghĩa là ai cũng hiểu được những gì mình
đánh vần ra được. Trước mắt con người hiện ra cả một tương lai sáng rỡ,
không còn một cổ hai tròng, không còn những gông cùm cổ hủ của ý thức hệ
Nho giáo và những đè nén áp bức của thực dân. Người ta hồ hởi đi vào
xây dựng một nền văn hoá mới, với ý thức về sự cần thiết phải đoạn tuyệt
với gánh nặng quá khứ.
Trải qua nhiều thập kỷ chiến tranh loạn lạc, vấn đề văn hoá chỉ đặt ra
ở cấp độ hệ tư tưởng và đấu tranh giai cấp. Đến khi giành được thống
nhất, văn hoá trở thành những hoạt động khải ca mang tính quần chúng từ
cấp thôn xóm phường xã đến cấp trung ương. Con người được đào tạo và
hưởng thụ văn hoá đơn tuyến đến mức đơn điệu. Gần như không có ý thức
tái tạo và sáng tạo văn hoá. Đến khi kinh tế mở cửa, sự đói nghèo quá
dài khiến ta trượt đi trong vòng mũ áo; đồng tiền lúc này là hiện thân
của văn hoá. Cơ quan văn hoá cấp cao hơn quản lý bằng cách giễu ô tô
kinh lý các di tích, kiểm tra xem cấp dưới chạy xô phong bì ra sao. Còn
cấp dưới thì ra sức cung phụng, mong được mặt trời rót cho ít kinh phí.
Mô hình “phễu chồng tầng theo kiểu hình tháp ngược” phải chăng là đặc
điểm văn hoá lớn nhất trong giai đoạn hiện nay? Còn các di tích vẫn hàng
ngày chịu những hậu quả nặng nề của xu hướng đô thị hoá trong khi đài
báo vẫn luôn hô hào cho việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc.
Bài và ảnh: Trần Trọng Dương (Vietimes)