Dưới đây là một số nguyên nhân thường gặp và phương pháp điều trị đau ngực bằng y học cổ truyền.
Đau ngực do bệnh tim mạch:
Cơn đau thắt ngực và thiếu máu cơ tim. Theo đông y do khí trệ huyết ứ
gây ra. Triệu chứng: người bệnh đau nhói vùng sau xương ức lan ra cánh
tay trái, tức ngực, mệt mỏi, hồi hộp, chất lưỡi tím, mạch trầm tế. Pháp
điều trị: hành khí hoạt huyết. Bài thuốc: Huyết phủ trục ứ thang gia
giảm (xuyên khung, hồng hoa, đương quy, cát cánh, mỗi vị 12g; sinh địa,
đào nhân, chỉ xác, qua lâu, mỗi vị 8g; phỉ bạch, cam thảo, trần bì,
mỗi vị 6g). Sắc uống ngày 1 thang.
Rối loạn thần kinh tim:
Đông y cho là chứng tâm quý, bệnh nhân đau vùng ngực, không liên quan
đến gắng sức, không đau lan. Có 2 thể: thể tâm huyết hư: đau tức ngực,
chóng mặt, hồi hộp, tim đập nhanh, ngủ ít, hay mê, chất lưỡi đỏ, mạch tế
nhược. Pháp điều trị: bổ huyết dưỡng tâm an thần. Bài thuốc: Quy tỳ
thang gia giảm (đương quy, đảng sâm, hoàng kỳ, bạch truật, mỗi vị 12g;
long nhãn, viễn chí, táo nhân, mỗi vị 8g; cam thảo, phục thần, mộc
hương, mỗi vị 6g). Thể dương hư (tâm dương hư, tỳ dương hư...) triệu
chứng lâm sàng: hồi hộp, đau ngực, đau lưng, chân tay lạnh, sợ lạnh, ăn
ngủ kém, tiểu nhiều, mạch trầm tế. Pháp điều trị: ôn dương an thần. Bài
thuốc: Thận khí hoàn gia giảm (thục địa, hoài sơn, mỗi vị 12g; trạch tả
8g, đơn bì, phục linh, mỗi vị 8g; sơn thù, phụ tử chế, mỗi vị 6g; quế
nhục 4g)...
Đau ngực do bệnh phế quản, phổi: Tràn
dịch màng phổi (thường do lao), trong Đông y là chứng huyền ẩm. Biểu
hiện: ho khan, khó thở, đau ngực, tăng khi thay đổi tư thế, rêu lưỡi
trắng, mạch huyền hoạt. Pháp điều trị: trục thủy lý khí. Bài thuốc: Thập
táo thang gia giảm: nguyên hoa, đại kích, cam thảo mỗi vị 4g; đại táo
12 quả. Sắc uống ngày 1 thang.
Viêm phế quản, viêm phổi: Chứng
khái thấu, đàm ẩm trong y học cổ truyền. Tùy theo thể bệnh mà có cách
chữa khác nhau: Thể phong hàn phạm phế: ho ra đờm loãng, trắng, dễ khạc
có thể đau ngực, phát sốt, sợ lạnh, ngứa cổ, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch
phù. Pháp điều trị: sơ phong tán hàn chỉ khái trừ đàm. Bài thuốc: Chỉ
khái tán gia giảm: hạnh nhân (khổ hạnh nhân), tiền hồ, mỗi vị 12g; cát
cánh, tử uyển, cam thảo, mỗi vị 8g. Thể phong nhiệt phạm phế: ho, đau
tức ngực, khạc nhiều đờm vàng, họng khô, phát sốt, nhức đầu, rêu lưỡi
vàng, mạch phù sác. Pháp điều trị: sơ phong thanh nhiệt chỉ khái trừ
đờm. Bài thuốc: Tang hạnh thang gia giảm: tang diệp, tiền hồ, sa sâm,
tang bạch bì, mỗi vị 12g; khổ hạnh nhân 8g, chi tử, bối mẫu, cam thảo,
mỗi vị 6g. Sắc uống ngày 1 thang.
Đau ngực do các bệnh về tiêu hoá: Sỏi
túi mật, viêm túi mật... Theo Đông y do khí trệ hoặc thấp nhiệt ở can
đởm. Triệu chứng: đau từ hạ sườn bên phải lan lên ngực, vàng da, vàng
mắt, sốt, miệng đắng, họng khô, rêu lưỡi vàng, mạch huyền sác. Pháp điều
trị: thanh nhiệt lợi thấp, sơ can lý khí. Bài thuốc: Long đởm tả can
thang gia giảm: long đởm thảo, sài hồ, mỗi vị 12g; hoàng cầm, chi tử,
mỗi vị 8g; đại hoàng, cam thảo, mỗi vị 6g. Sắc uống ngày 1 thang.
Trường hợp viêm loét dạ dày - tá tràng: Đông
y gọi là vị quản thống. Biểu hiện: đau trước hay sau bữa ăn, đau theo
giờ nhất định, có khi đau không theo quy luật, đau vùng thượng vị lan
ra sau lưng, hai bên sườn hoặc lên ngực, ăn kém, bụng đầy, ợ hơi, ợ
chua. Tùy thể bệnh mà có pháp điều trị và phương dược khác nhau: thể can
khí phạm vị, phải sơ can hoà vị, bài thuốc: Sài hồ sơ can thang gia
giảm: sài hồ, bạch thược, mỗi vị 12g; hương phụ, chỉ xác, mỗi vị 8g;
cam thảo 6g. Thể tỳ vị hư hàn phải ôn trung kiện tỳ, bài thuốc: Lý trung
thang: đảng sâm, bạch truật, mỗi vị 12g, can khương 8g, cam thảo 6g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Ngoài ra, đau ngực còn có nguyên nhân từ tuyến vú như: viêm
tuyến vú, tắc tia sữa, áp-xe vú... Theo y học cổ truyền thường do nhiệt
độc gây ra, hay xuất hiện ở phụ nữ thời kỳ sau đẻ, người bệnh thường
phát sốt, vú sưng đau, rêu lưỡi vàng, mạch sác. Pháp điều trị: thanh
nhiệt giải độc, hoạt huyết lợi sữa. Bài thuốc: Hoà nhũ thang gia giảm:
bồ công anh 20g, kim ngân hoa, liên kiều, mỗi vị 12g; hoàng cầm, sài
hồ, thanh bì, mỗi vị 8g; qua lâu 6g. Sắc uống ngày 1 thang.
BS. Phạm Xuân Hùng