Chương một
NỘI DUNG
CA DAO TỤC NGỮ PHẬT
GIÁO
I, K, L
CHỮ I
1. Im như Bụt.
1. Ít thầy đầy
đãy.[1]
2. Im lặng như
chánh pháp.
3. Im lặng mà
chẳng nói năng,
Gật đầu mỉm
miệng rằng anh yêu nàng.
Mượn người mai
mốt đưa sang,
Cầu trời khấn
Phật cho chàng đẹp duyên.
5. Im như Bụt
mọc trên chùa,
Con vào chánh
điện đừng đùa với Sư.
Cúi lạy con phải
từ từ,
Đừng có vội vã
mà hư thân mình.
CHỮ K
1. Khẩu Phật tâm
Xà.
2. Khẩu Xà tâm
Phật.
3. Khẩu tụng tâm
suy.
4. Khẩu tâm bất
nhất.
5. Khổ tăng gia
khổ.
6. Khát máu tăng
lòng.
7. Không vay mà
trả.
8. Kinh thiên
động địa.
9. Kéo cày trả
nợ.
10. Kiếp chết
kiếp hết.
11. Kiếp mầm
thân chịu.
12. Không làm
lại dại ở chùa.
13. Kinh một
đằng thỉnh một đàng.
14. Khư khư như
ông từ giã oản.
15. Kẻ có nhân
mười phân chẳng khó.
16. Kẻ có công
người có của.
17. Kẻ kính
người nhường.
18. Không có mây
sao có mưa.
19. Kẻ khuất
mày, người khuất mặt.
20. Không có bột
sao gột nên hồ.
21. Không có lửa
làm sao có khói.
22. Không ai
giàu ba họ, không ai khó ba đời.
23. Không tiền
ngồi gốc cây Đa.
Có tiền thì kẻ
lân la vào hầu.
24. Khăn xanh có
ví hai đầu,
Nửa thương cha
mẹ nửa sầu căn duyên.
25. Khổ thay cái
kiếp tôi đòi,
Đầu chày đít
thớt ngồi xơi một mình.
26. Khen ai khéo
tiện ngù cờ,
Khéo xông bàn
án, khéo thờ tổ tiên.
27. Khuyên mẹ
niệm Phật cho chuyên,
Thì hoa sen đợi
ở bên Liên Trì.
28. Khăn xanh có
mí hai đầu,
Nửa thương cha
mẹ, nửa sầu nhân duyên.
29. Khôn dại tại
tâm,
Hay giận thầm là
người ít có.
30. Kiếp sau xin
chớ làm người,
Làm cây thông
đứng giữa trời mà reo.
31. Kẻ nghèo thì
chẳng ai nhìn,[2]
Đến khi đỗ trạng
chín mười nhân duyên.
32. Khôn ngoan
qua cửa sông La,
Dễ ai có cánh
bay qua lũy Thầy.
33. Không ai ưa
Cống, gả cho Nghè,
Sao con bạc ác
lấy dè Thầy tu.
34. Không thế
gian làm quan Địa ngục,
Dại thế gian là
quan Thiên đường.
35. Khó giàu
muôn sự tại trời,
Nhân sinh ai
cũng kiếp người mà thôi.
36. Kiếm nơi cha
thảo mẹ hiền,
Gửi thân khuya
sớm, bạc tiền không ham.
37. Khen cho lớp
trước khéo tu,
Ngày sau con
cháu võng dù nghênh ngang.
38. Khen ai khéo
đúc chuông chì,[3]
Dạng thì có dạng
đánh thì không kêu.
39. Không tham
cống nỏ tham nghè,
Thương thầy
chuông mõ mà nghe điệu đàn.
40. Kiếp hồng
nhan nghĩ đến mà thương,
Tài tình chi lắm
để mang nợ đời.
41. Khôn ngoan
qua cửa Thần phù,
Khéo tu thì nổi,
vụng tu thì chìm.
42. Kiếp này trả
nợ cho xong,
Làm chi để nợ
một chồng kiếp sau.
43. Khuyên ai ăn
ở cho lành,
Kiếp này chẳng
gặp để dành kiếp sau.
44. Khen ai khéo
đúc chuông chì,
Khéo đâm cốm dẹp
ăn thi người già.
45. Không cầu
ông Phật trong nhà,
Lại đi cầu khẩn
quỉ ma ngoài đường.
46. Không trang
điểm chẳng chơi bời,
Ăn chay niệm
Phật nói lời từ bi.
47. Không thiêng
cũng thể Bụt nhà,
Dầu khôn dầu dại
cũng ra ông chồng.
48. Không thiêng
cũng thể Bụt nhà,
Dầu không dầu
dại cũng là chồng em.
49. Khó khăn mất
thảo mất ngay,
Ơn cha cũng bỏ,
nghĩa Thầy cũng quên.
50. Không ngoan
nhờ ấm cha ông,
Làm nên phải
đoái tổ tông phụng thờ.
Đạo làm con chớ
hững hờ,
Phải đem hiếu
kính nhà thờ từ nghiêm.
50b. kẻ ăn người
ở trong nhà
Sớm khuya công
việc giúp ta nhọc nhằn
Thương người đày
đọa chút thân
Chớ nên ngược
đãi, lòng nhân mới là.
51. Kiếp tu hành
nặng đá đeo,
Hiềm vì một chút
tẻo tèo teo.
Thuyền từ cũng
muốn về Tây Trúc,
Trái gió nam chi
phải lộn đèo.
52. Kìa ai khéo
tạc mà nên,
Cái núi con gái
ở bên núi Thầy.
Núi gái chẳng
ruỗi chân tay,
Còn như núi Thầy
ngoảnh mặt đàng đông.[4]
53. Khuyên nhau
theo gót Mục Kiền Liên,
Báo đáp ân thâm
cả lưỡng miền,
Kẻ mất siêu sanh
về Lạc quốc,
Người con dương
thế được an nhiên.
54. Khổ qua
xanh, khổ qua trắng,
Khổ qua mắc
nắng, khổ qua đèo,
Dù sanh dù tử dù
nghèo em cũng theo.
55. Kể từ ngày
anh đau bệnh ban
cua lưỡi trắng,
miệng đắng cơm
hôi.
Em đến đây đỡ
đứng bồng ngồi,
Sao giờ anh ở
bạc
Duyên nợ đổi dời
không vui.
56. Kể từ Ất Dậu
mới rồi,[5]
Nhà Sư Năm
Thượng là người đảm đang.
Xin tu chùa của
hai làng,
Rèm và lộ xá bên
đường cái quan.
Ruộng chùa chăm
bói giỏi giang,
Ba chuồng thóc
cót, một ngàn phương to.
Cụ đem ngầm giúp
phủ Bo,
Bỏ chùa rồi cụ
đi xe không về.
Dân lên kiểm
soát mọi bề,
Ba cây thóc đẩy
chẳng hề có rơi.
Nhân khi nắng
ráo đẹp trời,
Dân làng đem
thóc ra phơi kịp liền.
Vừa vào xúc hết
lượt trên,
Ở dưới toàn trấu
vít liền ra cây.
Thế là thóc đã
lên mây,
Thóc đem ăn để
đánh Tây mất rồi.
Riết vậy dân
chúng đều thôi,
Lạy Phật, lạy
giời phù hộ nghĩa quân.
57. Kể về người
ở trông theo,
Ngựa hồ chim
Việt đôi đường ái ân.
Một mình tựa án
tần ngần,
Năm canh khúc
ruột như rần cả năm.
Vắng mình ta vẫn
hỏi thăm,
Chốn ăn đã vậy
chốn nằm làm sao?
Bấy lâu nay
những khát khao,
Biết nhau rồi kẻ
ngược người xuôi.
Bao giờ cho được
đủ đôi,
Mong chưa thấy
mặt lòng nào đã quên.
Nghĩ rằng cũng
bạn thiếu niên,
Vì ai xúi dục
cho nên nổi này.
Trách ông tơ ra
tay hờ hững,
Lúc xe dây sao
chẳng lựa ngày.
Bây giờ hai ngã
Đông Tây,
Trước sau xe mối
tơ này làm chi.
Chưa biết nhau
sao không nói trước,
Như sen Tịnh độ
một chồi hai hoa.
Khăn anh nàng
lấy vá vai,
Bây giờ nàng đã
nghe ai dỗ dành.
Chẳng nên ai
tháo chỉ lấy mụn trả anh,[6]
Để anh đem bán
lấy hai trăm vàng.
Một trăm anh đưa
cho nàng,
Còn một trăm nữa
để nàng treo ngọn cây Đa,
Chớ em không nhớ
lời khuyên với ta,
Sông có Nhị Hà
núi có Tản Viên,
Còn bây giờ nàng
ở thế sao nên,
Tôi khấn quan
Nam Tào Bắc Đẩu biên tên rành rành.
Đã yêu nhau thời
quyết với anh,
Nhà tre cột nứa
lợp tranh e vững vàng.
Chớ tham nhà gỗ
bức bàn,
Gỗ lim chẳng có
làm xoàng gỗ Vông.
Chỉ nhọc mình
thôi lại uổng công,
Phòng khi gỗ mục
lại phòng nhà tre.
Còn duyên anh
bảo chẳng nghe.
CHỮ L
1. Làm chay.
2. Làm lành.
3. Làm tuần.
4. Làm phước.
5. Lành như Bụt.
6. Làm chay
thất.
7. Làm lễ kỳ an.
8. Làm lễ cầu
siêu.
9. Làm phúc cho
trót.
10. Làm phúc
được phước.[7]
11. Làm lành
tránh dữ.
12. Làm phúc
phải tội.
12b.Làm phúc lại
được phúc.
13. Lắm thầy rầy
ma.
14. Lễ bạc tâm
thành.
15. Lễ như tế
sao.
16. Lý tác Mạc
tô.[8]
17. Lấy đầu làm
lễ.
18. Lạy Phật,
lạy trời.
19. Lực bất tòng
tâm.
20. Liệu oản đọc
canh.[9]
21. Lành ăn dễ
khiến.
22. Làm phúc như
làm giàu.
23. La sát như
bát vỡ.
24. Làm ơn được
nên ơn.
25. Làm phúc
không cầu được phúc.
25b. Làm phúc
nơi nao, cầu ao chẳng bắc.
26. Lành thì đỡ,
dỡ thì đê.
27. Làm quan ăn
lộc vua, ở chùa ăn lộc Phật.
28.Lấy chồng nhờ
hồng phúc nhà chồng.
29b. Lội sông đã
đến bờ[10]
30. Lấy vải thưa
che mắt Thánh.
31. Làm kiếp
trâu kéo cày trả nợ.
32. Làm khi lành
để dành khi đau.
33. Lừ đừ như
ông Từ vào đền.
34. Làm phúc quá
tay ăn mày không kịp.
35. Lắm Sãi
không ai đóng cửa chùa.
35b. Lành cho
đường, dữ cho trượng.
36. Lành ở một
chỗ, lo ở một nơi.
37. Làm phúc ở
nơi nao cầu ao chẳng bắc.
38. Lắm duyên
nhiều nợ, lắm nợ nhiều oan gia.
39. Lửa càng
phiền càng dập càng khiêu mối phiền.
39b. Lễ thầy
đạo, gạo thầy tu.
40. Làm ơn nên
oán, làm bạn thiệt mình.
41. làm kiếp
trâu ăn cỏ, làm kiếp chó ăn dơ.
42. Lành với
Bụt, chứ ai lành với ma
43. Lật đật như
ma[11]vật
ông Vãi.
43b. Liệt hóa
thí kim, gian nan thí đức[12]
44. Lễ Phật
quanh năm không bằng ngày rằm tháng giêng.
45. Lộc Phật
hằng hà sa số, đường nào lợi thì tu.
46. Lắm con
nhiều nợ, lắm vợ nhiều cái oan gia.
47. Lắm thầy
thúi ma lắm cha con khó lấy chồng.
47b. Làm đĩ có
tàn, có tán, có hương án thờ vua, có chuông chùa niệm Phật.
48. Lỗi căn
duyên như đờn lỗi nhịp.
Biết bao giờ cho
hiệp phụng loan.
49. Lời thề hai
mái tóc xanh,
Theo nhau cho
trọn, tử sanh cũng liều.
50. Lấy chồng
biết chữ là tiên,
Lấy chồng dốt
chữ là duyên nợ đời.
51. Lăng Nghiêm
thì sợ bà già,
Di Đà thì sợ Xá
lợi.
52. Lạy Trời lạy
Phật lạy Vua,
Để tôi sức khỏe
tôi xua con ruồi.
53. Lâm râm khấn
vái Phật trời,
Cầu[13]cho
cha mẹ sống đời nuôi con.
54. Lênh đênh
qua cửa Thần phù,
Khéo tu thì nổi,
vụng tu thì chìm.
55. Lỗ miệng thì
nói Nam mô,
Trong lòng đựng[14]một
bồ dao găm.
56. Lòng thương
con gái xóm chùa,
Khéo may đảy
gấm, khéo thùa bông dâu.
57. Lễ Phật thì
đặng việc hiền,
Bao nhiêu nghiệp
chướng não phiền đều tan.
58. Lấy chồng cờ
bạc là tiên,
Lấy chồng chè
rượu là duyên nợ nần.
59. Lưu ly nửa
bấc nửa dầu,
Nửa thương cha
mẹ nửa sầu căn duyên.
60. Lên chùa gõ
mõ cúc bon,
O kia đứng đó
hôi son rình rình.
61. Lửa nhen vừa
mới bén trầm,
Trách lòng cha
mẹ nỡ cầm duyên con.
61b. Lưỡi vò độc
quá đuôi ong
Xui người tan
hợp, đứt lòng nghĩa nhân.
62. Lấy hận thù
diệt hận thù,
Hận thù không
mất nghìn thu vẫn còn.
63. Lên chùa
thấy Phật muốn tu,
Về nhà thấy mẹ
công phu chửa đền.
64. Liên đài
sánh với hào quang,
Dặn người quân
tử đá vàng đừng quên (nhai).
65. Làng ta mở
hội vui mừng,
Chuông kêu trống
dóng vang lần đôi bên.
66. Lên yên khó
nỗi dục yên,
Tiền căn báo hậu
nhãn tiền thấy chưa.
67. Lên chùa lạy
Phật quy y,
Cầu cho kẻ ở
người đi an lành.
68. Lên chùa lạy
Phật quy y,
Cầu cho tuổi nớ
tuổi ni kết nguyền.
69. Lững lờ bóng
quế dọi thềm,
Chuông đưa bát
ngát càng thêm bận lòng.
70. Làm lính qua
đèo sợ ải,
Làm Sãi ở chùa
thì sợ Lăng Nghiêm.
71. Làm lành
muốn chúng biết danh,
Ấy là làm tiếng
phải lành ở mô.
72. Lênh đênh
duyên nổi phận bèo,
Tránh sao cho
khỏi nước triều đầy vơi.
73. Lên non mới
biết non cao,
Nuôi con mới
biết công lao mẫu từ.
74. Lời nói
chẳng mất tiền mua,
Lựa lời mà nói
cho vừa lòng nhau.
75. Lập thu mới
cấy lúc mùa,
Khác nào hương
khói lên chùa cầu con.
76. Lui về quét
dọn chùa chiền,
Sửa sang Phật
tượng để bạn hiền vô tu.
77. Lấy chi trả
thảo cùng cha,
Đền ơn cha mẹ
con ra lấy chồng.
78. Người thì
xông khói, lời nói xông hương,
Chẳng được phẩm
oản mâm xôi, cũng được lời nói cho vui tấm lòng.
79. Lời nguyền
trước cũng như sau,
Ta không ham vui
bỏ bạn, bạn chớ tham giàu bỏ ta.
80. Lênh đênh
duyên phận bọt bèo,
Đành cho con
nước thủy triều đầy vơi.
81. Lấy chồng
hay chữ là tiên,
Lấy chồng mù chữ
là duyên con bò.
82. Làm ơn ắt
chẳng nên ơn,
Trời nào phụ kẻ
có nhơn bao giờ.
83. Lao động ba
niên,
Không bằng một
diên đi cúng.
84. Liễu đôi có
kiệu chầu nghênh,
Bát hương nổi
bềnh đồn chạy vòng quanh.[15]
85. Lời kinh
vang dậy ngân nga,
Chạnh lòng nhớ
nghĩ mẹ cha sinh thành.
86. Làm con cho
đáng nên con,
Trong tròn hiếu
đạo, ngoài tròn gia danh.
87. Lên chùa dự
lễ Vu Lan,
Cầu cho cha mẹ
thoát đàng tử sanh.
88. Lên non lượm
quả Bồ đề,
Cầu cho cha mẹ
thoát về Lạc bang.
89. Làng Tô có
quan Thượng thư,
Cắt tóc làm Sư
giữ chức Hòa thượng.
90. Lên chùa
thác ván nhổ đinh,
Đốt chùa không
tội bằng mình bỏ ta.
91. Lên chùa cầu
Phật cầu trời,
Xét cho một việc
ở đời bất công.
92. Làm con hiếu
đạo qui tiên,
Nhớ mà báo đáp
thung huyên cao dày.
93. Lên chùa lạy
Phật cầu kinh,
Cầu cho cha mẹ
thát sanh Liên đài.
93b. Lụy song sa
đưa chàng xuống huyệt
Mai táng chàng
rồi ly biệt ngàn năm.
94. Lắm ma chùa
Bứa,
Lắm dứa chùa
Chành,
Lắm chanh chùa
Mãi,
Lắm giải sông
Bo,
Lắm đò Đoan túc.[16]
95. Lắng nghe
nàng nói cũng tình,
Trông nàng bẻ
lái càng xinh con thuyền.
Mong cho hương
lửa bén duyên,
Để anh phỉ
nguyện ước nguyền bấy lâu.
96. Làm trai vác
cuốc vác mai,
Theo ông Sư Lãng
đua tài một phen.
Làm trai chớ giữ
phận hèn,
Xách điếu bưng
trap ho hen cho người.
97. Lương duyên
túc đế giai ngẫu tựa thiên thành,
Bởi vì con trăng
kia sợi chỉ vướng tơ mành,
Rứt duyên căn nợ
sao đành bỏ anh.
98. Lô diện tri
mã lực,
Sự cửu kiến nhân
tâm,
Bởi anh nghe vậy
mới lầm,
Vàng ơi khó kiếm
châu tầm không theo.
99. Lá này gọi
lá Soan đào,
Tương tư gọi nó
thế nào hả em?
Lá khoai anh ngỡ
lá sen,
Bóng trăng anh
ngỡ bóng đèn anh khêu.
100. Lạy trời
phù hộ cho em,
Cho em chóng lớn
em lên cõi già.
Khỏi đền duyên
nợ rầy rà,
Khỏi mang tiếng
xấu như là những ai.
101. Lắm con
thêm bận nhà nàng,
Lắm nơi lịch sự
hơn chàng chàng ơi.
Chàng thôi thiếp
cũng xin thôi,
Hồ sen tát cạn
ai hôi mặc lòng.
102. Làm thơ
biết cậy ai đem,
Cậy cùng chim
nhạn đặng đem cho mình.
Mình đau tương
tư tôi vái tận tình,
Vái cho mình
mạnh vào đình cúng Heo.
103. Lững lờ
vườn quế soi thềm,
Hương đưa bát
ngát càng thêm bận lòng.
Gió thu thổi
ngọn phù dung,
Dạ nàng là sắt
anh nung cũng mềm.
104. Làm sao
hiệp mặt đôi ta,
Để tôi báo hiếu
mẹ cha bên mình.
Không xuống lên
mình nói bạc tình,
Xuống lên phụ
mẫu đánh mình thấy không.
105. Làm trai
quyết chí tu thân,
Công danh chớ
vội nợ nần chớ lo.
Khi nên trời
giúp công cho,
Làm trai năm
liệu bảy lo mới hào.
106. Lộ bất hành
bất đáo
Chung bất thỉnh
bất minh.
Lâu nay tôi
chẳng biết ý mình,
Ngày nay mình
bạch nhơn tình trí tri.
107. Lên chùa
thấy tiểu mười ba,
Thấy sư mười
bốn, Vãi già mười lăm.
Muốn cho một
tháng đôi rằm,
Trước là lễ Phật
, sau thăm Vãi già.
108. Lòng riêng
nhớ mẹ thương cha,
Bóng chim tăm cá
biết là về đâu.
Trong lòng binh
lửa dãi dầu,
Bơ vơ lưu lạc
bạn bầu cùng ai.
109. Lấy oán thù
đáp oán thù,
Oán thù không
dứt niềm từ lại tiêu.
Lấy tình thương
xóa hận thù,
Hận thù bay mất
niềm từ lại sinh.
109b. Lòng không
ruột lại từ bi
Cất lên một
tiếng quan trong quan ngoài
Vua ban cho áo
cho đai
Cho chức cho
tước với hai nàng hầu.
110. Lấy oán thù
đáp oán thù,
Oán thù không
dứt niềm từ lại tiêu.
Lấy tình thương
gọi tình thương,
Sóng lên một dợn
thủy triều liền dâng.
111. Lộ bất hành
bất đáo,
Chuông bất thỉnh
bất minh.
Bây giờ anh mới
rõ sự tình,
Tại ba má ở độc
hai đứa mình mới xa nhau.
112. Lụa làng
Trúc[17]vừa
thanh vừa bóng,
May áo chàng
cùng sóng áo em.
Chữ tình cùng
với chữ duyên,
Xin đừng thay áo
mà quyên lời nguyền.
113. Làm trai
lấy được vợ hiền,
Như cầm đồng
tiền mua được của ngon,
Phận gái lấy
được chồng khôn,
Xem bằng cá vượt
Vũ môn hóa Rồng.
114. Liễn treo
ba phía trong đình,
Chữ vàng chưa
lợt sao mình vội quên.
Đường sanh tử
như mũi tên,
Ở gần không dám
xuống lên cho thường.
115. Lúc em bước
chơn ra,
Má ở nhà có dặn.
Công sanh thành
là nặng,
Điều tình ái là
khinh.
Hãy đừng tham
sắc đắm tình,
Lánh xa tửu
điếm, trà đình chớ vô.
116. Lên chùa
lạy Phật Thích Ca,
Lạy ông Tam thế
vua cha Ngọc Hoàng.
Bước ra kết
nghĩa cùng nàng,
Túi anh có nhẫn
cho nàng đeo tay.
Dù ai bấm chí cô
bay,
Thì nàng cũng
giữ nhẫn này cho anh.
117. Làng ta đây
lễ bái lòng thành,
Sao lại rước ê a
chú tiểu.
Đọc “Quan ban”
bảo rằng “Dịch biểu”,
Tụng “Dược sư”
bảo chữ “Quang lai”[18]
Thủy Sám kinh
tụng giữa ban ngày,
Chữ “Bát nhã”
đọc ra “Ban nhược”.[19]
118. Lên bờ lại
muốn xuống thuyền,
Vì chân chữ ngãi
chữ duyên buộc rồi.
Buộc vào thành
cánh hoa hồi,
Khi lên khi
xuống hai người cùng khiêng.
Buộc vào tấm
lưới sợi giềng,
Khi khơi khi
lộng chỉ riêng ta mình.
Chữ duyên chữ
ngãi chữ tình,
Cả ba chữ ấy in
hình trong gương.
119. Làm trai
nết đủ trăm đuờng,
Trước tiên điều
hiếu đạo thường xưa nay.
Công cha đức mẹ
cao dày,
Cưu mang trứng
nước những ngày ngây thơ.
Nuôi con khó
nhọc đến giờ,
Trưởng thành con
phải biết thờ song thân.
Thức khuya dậy
sớm cho cần,
Quạt nồng ấp
lạnh giữ phần đạo con.
120. La hồn hồ
khoan
Ta chèo cất mái
hồ khoan
Thuyền rồng chúa
ngự khoan khoan mái chèo.
Lênh đênh duyên
nổi phận bèo,
Đã đành khi nước
thủy triều đầy vơi.
Lộ đồ giao viễn
xa khơi,
Thuyền tình chở
một mình tôi nặng gì.
Chẳng dậm thì
thuyền chẳng đi,
Dậm ra mắc tiếng
thị phi với tình.
Khách tình lại
nhớ thuyền tình,
Thuyền tình lại
nhớ khách tình nợ duyên.
121. Lên bờ lại
muốn xuống thuyền,
Vì chưng chữ
ngãi chữ duyên buộc rồi.
Buộc vào thành
cánh hoa hồi,
Khi lên khi
xuống hai người cùng khiêng.
Buộc vào tấm
lưới sợi giềng,
Khi khơi khi
lộng chỉ riêng ta mình.
Chữ duyên chữ
ngãi chữ tình,
Cả ba chữ ấy là
in hình trong gương.
Lắng nghe nàng
nói cũng tình,
Trông nàng bẻ
lái càng xinh con thuyền.
Mong cho hương
lửa bén duyên,
Để anh phỉ
nguyện ước nguyền bấy lâu.
122. Lênh đênh
qua cửa Thần Phù,
Khéo tu thì nổi
vụng tu thì chìm.[20]
Thênh thênh một
chiếc thuyền nan,
Trôi dòng Xích
bích,[21]
Nhè nhẹ đôi con
chèo quế rằng Khúc Trương Lương.[22]
Trải hang gời
qua cửa Thần Phù,
Qua kênh Mên tới
chùa Non nước,
Ai từng tới chốn
sơn cao thủy tú,
Mang sắc thái
thiên nhiên dừng thuyền nan gác mái chèo…
Ta ngắm nhìn bức
tranh màu sơn cước,
123. Lúc đêm
sương sương lạnh trăng mờ,
Canh tàn rượu
tỉnh lúc bấy giờ em nghĩ thương thân.
Em tiếc thay
trong giá trắng ngần,
Nở gieo mình vào
đám phong tình mà chơi.
Chốn hang sâu
lẩn khuất hương trời,
Non xanh nước
biếc để ai người biết cho.
Con chim khôn đã
mắc phải dò,
Vui gì cái kiếp
giang hồ hỡi chị em ơi.
Tính đốt tay quá
nửa xuân rồi,
Đầu xanh mấy nổi
da mồi tóc sương.
Kiếp hồng nhan
nghĩ đến mà thương,
Tài tình chi lắm
để mang nợ đời,
Khi em vui
gượng, khi cười em cười suông.
Ruột con tằm
trăm mối tơ vương,
Bên trời góc bể
biết gởi can trường vào đâu.
Ai về nhắn ả Mạc
sầu!
124. Lên non lên
núi tầm chùa mà tu, bốn mùa rau dưa cho rãnh,
Mai sau đi về
tiên cảnh đặng chữ thanh nhàn
Sống ở dương
gian mà chi, chồng một nơi vợ một ngã
Dẫu anh có tu
năm bảy cảnh chùa cũng không đắc quả thành công.
Lên xe gãy ngựa
bương
Trách lòng con
tạo cầm cương không đều.
125. Lơ thơ tơ
liễu buông mành,
Con oanh học nói
trên cành líu lo.
Em nghĩ mình em
cái cúc bạc lưu ly tai,
Cúc bạc tình
chung thời có, cái trâm cài vốn không.
Cái tóc mây xanh
em vấn lộn khăn sồng,
Quần lĩnh hâm
đôi ba chiếc, đôi má hồng cô nhởn nhơ.
Sáng trăng
suông,
Sáng cả vườn
đào, sáng cả vườn canh.
Ba bốn cô đằng
ấy có cô nào còn không,,
Có một cô thật
đích cô chưa chồng
Có anh cho ghé
chút làm chồng nên chăng.
Cô mình về có
nhớ chúng anh chăng?
Ta về ta chỉ nhớ
cái hàm răng cô mình cười.
Năm quan mua lấy
miệng cười,
Mười quan anh
chả tiếc anh chỉ tiếc người răng đen.
Cái răng đen ai
khéo nhuộm cho cô mình,
Để duyên cô mình
đẹp,
Cho cái tình
chúng anh yêu.
Trăm con như cái
sợi chỉ điều.
Trăm con cái sợi
chỉ ấy nó cũng buộc vào cái tay anh.
Một duyên hai nợ
ba tình,
Cái tang tình,
ngày hai tình mười một.
Cái tình mong
song hỡi tình,
À lên một lên
hai lên ba lên bốn,
Làm con mẹ cha
lên chín lên mười.
Soi gương tình
chung đánh phấn,
Tang tích tịch
tang tình tang,
Cho nó đẹp em
sáp ra lấy chồng,
Ò ý e, ò e ý ò.
126. Lúc em bước
chân ra,
Má ở nhà có dặn:
Công sanh thành
là nặng,
Điều tình ái là
không,
Hãy đừng tham
sắc đắm tình,
Lánh xa tửu điếm
trà đình chớ vô.
Lưu ly nửa bấc
nửa dầu (đèn thủy linh),
Nửa thương cha
mẹ nửa sầu nhơn dươn (duyên),
Má ơi chuộc chạy
đám gừng,
Thân con nhỏ
nhít mẹ đừng đánh con.
[2]
Có nơi chép: khéo hèn
[3]
Khen ai khéo đúc chuông chì
Dáng thì tốt dáng đánh thì không kêu
[4]
Núi thầy tức núi Thầy tu, hoặc núi Đốt Đuốc
[6]
Chẳng nên ra: chẳng thành
[7]
Làm phúc lại được phước
[10]
Ba la mật đa (đáo bỉ ngạn)
[12]
Lửa dữ thử vàng, gian nan thử đức
[14]
Chứa: Lỗ miệng thì nói Nam mô
Trong lòng thì đựng ba bồ dao găm.
[15]
Truyền rằng ở cầu Tháp, xưa có 1 bát hương nổi lên, dân vớt lên thờ.
[16]
Làng Bứa thuộc làng Sinh, tức là làng Nhân Thanh hay thuộc xã Tiền
Phong huyện Vũ Thư. Cuối thế kỷ XIX, tại ngôi chùa này đã nổ ra một
cuộc chiến đấu dữ dội giữa nghĩa quân của Lãnh Bí với quân Pháp. Sau
trận đánh, nhân dân ở trong vùng phải chôn nhiều xác chết, cho nên sợ
hãi gọi đó là nơi nhiều ma.
Chùa Chành thuộc làng Tú Vinh, chùa Mãi
thuộc làng Trường Mại nay đều thuộc xã Tiền Phong.
Sông Bo tức là khúc sông Trà Lý thuộc địa
phận làng Bo (tên Hán Việt là làng Bồ Duyên) một thời ở đấy có nhiều
cá giải.
Làng Đoan Túc nay thuộc xã Tiền Phong,
huyện Vũ Thư.
[18]
Hai câu này nghi là chép lầm
[19]
Bát nhã có nghĩa là trí tuệ. Người không hiểu đạo Phật sẽ đọc là “Ban
nhược” vì chúng có mặt chữ như nhau-Nguyễn Huy Động-Phường Nguyễn.
[20]
Hai câu ca dao cổ. Cửa Thần phù nay thuộc tỉnh Hà Nam Ninh
[21]
Xích Bích: tên 1 con sông ở Trung Quốc.
[22]
Trương Lương: Nguyên là tướng nước Hán. Sau giúp Hán Cao Tổ khởi binh
đánh nhà Tần lập được công lớn. Trương Lương là người có tài thổi sáo
câu này ý nói: Trên cành sông nước hữu tình như có tiếng sáo hay của
Trương Lương ngày xưa.