Chương 1: Hạnh phúc gia đình
Giảng tại khóa tu Một ngày an lạc, chùa Phổ Quang, ngày 19-10- 2008
Đánh máy: Nguyên Ngân và Thức
Tình 5 T
Trong nhiều năm thuyết giảng, thỉnh thoảng chúng tôi có cơ hội tư vấn hạnh phúc một cách bất đắc dĩ theo yêu cầu của Phật tử. Nhờ đó, chúng tôi đã đúc kết bản chất của một gia đình hạnh phúc lệ thuộc vào năm yếu tố, gọi là 5T: Tình, Tiền, Tâm, Thuận, Thương. Mỗi T đóng vai trò hỗ trợ cho hạnh phúc và khi hạnh phúc đã có mặt sẽ bền bỉ với các gia đình.
Tình yêu đóng vai trò quan trọng nhất. Nếu không có tình yêu thì có đến với nhau bằng hấp lực kinh tế hay vị thế xã hội, tuổi thọ của cuộc hôn nhân sẽ rất yểu.
Tiền mang tính chất hỗ trợ. Có tình yêu nồng nàn nhưng đời sống kinh tế vật chất nay đủ mai thiếu, thì sau một thời gian vẫn rơi vào tình trạng bị tổn thất.
Tâm được xem là quan trọng trong trường hợp đã có tình yêu và đời sống vật chất không quá chật vật. Sự hiểu biết, thương yêu, tôn trọng lẫn nhau giúp gia đình đó ngày càng hạnh phúc hơn.
Thuận tạo hàng rào vững chắc bao bọc cho gia đình. Trong các mối quan hệ với gia đình bên chồng, bên vợ thỉnh thoảng có những va chạm, xung đột. Nếu không có tâm hiếu hòa hay hiếu thuận thì rõ ràng sự đổ vỡ về một phía tạo sức ép cho người còn lại đứng giữa ngã ba đường phải chọn lựa. Cho nên chữ thuận trong đời sống vợ chồng rất quan trọng.
Thương là một phần của tình yêu. Tình thương ở đây được giới hạn giữa cha mẹ đối với con cái qua sự chăm sóc mà cả hai đều có vai trò và bổn phận ngang nhau.
Nội dung bài này, chúng tôi chỉ nhấn mạnh đến 4T đầu vì bản chất những đổ vỡ hạnh phúc gia đình liên hệ phần nào đến bốn điều vừa nêu. Bên cạnh đó còn có những kỹ năng truyền thông gia đình rất cần thiết cho việc bảo vệ hạnh phúc lứa đôi.
Chìa khoá truyền thông
Khi còn là người yêu của nhau, việc tìm hiểu và truyền thông trong giao tiếp là nhu cầu không thể thiếu. Nhờ đó tình yêu được chớm nở và phát triển thành hôn thú. Nhưng sau khi trở thành vợ chồng, rất nhiều người rơi vào tư tưởng không quan trọng sự truyền thông. Từ đó, tình yêu sau thời gian ngắn bị tắt lịm.
Một cặp vợ chồng, vợ là bác sĩ, chồng là kỹ sư. Cô bác sĩ rất giỏi bệnh lý trẻ em. Mỗi khi khám bệnh, cô đều dành thời gian tâm sự, hỏi han, hướng dẫn, vừa trị liệu tâm lý kết hợp trị liệu y học, cho nên bệnh nhân đến rất đông. Trong khi đó, người chồng lại ít nói, khó khăn trong truyền thông tình yêu của mình dành cho vợ. Suốt ngày anh vùi đầu vào máy tính. Sau khoảng ba tháng sống chung, tình cảm lạnh nhạt bắt đầu xuất hiện, mặc dù họ đã có với nhau hai mặt con. Hạnh phúc hôn nhân ngày càng mờ nhạt đến mức cả hai quyết định ly thân. Một căn nhà như hai thế giới. Bất ngờ một ngày người chồng bị tai nạn giao thông bán thân bất toại. Tình cảnh ly thân làm cho người vợ phải suy nghĩ. Vì tình nghĩa vợ chồng mà cô nỗ lực gắn kết, nhưng trong suốt một năm nuôi chồng ở bệnh viện, tình yêu vẫn không chớm nở lần thứ hai. Bảy năm sau tai nạn của người chồng, sự lạnh nhạt đó ngày càng đè nặng. Lẽ ra trong hoàn cảnh hoạn nạn, người ta dễ dàng đến với nhau, hâm nóng lại tình yêu. Nhưng vì người chồng khi tiếp nhận sự chăm sóc của vợ có thể nảy sinh tâm lý mặc cảm rằng mình là phế nhân, mọi sự chăm sóc phản ánh sự thương hại. Cảm nhận tình thương của vợ nhưng không thấy nó song hành với tình yêu, cho nên càng được chăm sóc nhiều chừng nào thì tự ái và sự xúc phạm cái tôi về phương diện tự trọng hay nói cách khác là bản ngã của người chồng làm tình yêu đó ngày càng lịm tắt.
Truyền thông là cơ hội trực tiếp giúp chúng ta truyền đạt dòng cảm xúc, thái độ, suy nghĩ với người đối diện, cụ thể trong trường hợp này là vợ hoặc chồng. Cho nên tầm quan trọng của nó không thể thiếu. Khi đến với nhau thông qua sự tìm hiểu, người ta thường ríu rít tâm sự. Nhờ kỹ năng tâm sự mà họ cảm thấy mình được thương yêu, được quan tâm, chăm sóc. Các nhà tâm lý khẳng định, người nữ yêu bằng tai, họ đánh giá tình cảm bằng cảm nhận truyền thông qua tai. Nhưng sau khi trở thành vợ chồng, rất nhiều người, đặc biệt là người nam rơi vào hội chứng “câm sau khi yêu”, họ không mạnh dạn hoặc gặp nhiều trở ngại trong việc truyền thông tình cảm của mình. Tình trạng đó làm cho người vợ bắt đầu bị tẻ nhạt, cảm giác tình yêu bắt đầu phai mờ.
Vụng về trong truyền thông có thể dẫn đến tình trạng biến cả hai trở thành nạn nhân. Nghiên cứu xã hội học cho chúng ta biết sự đổ vỡ và chiến tranh trong quan hệ vợ chồng không hoàn toàn do cả hai hiếu chiến mà còn do một trong hai người quá kiệm lời trong giao tiếp. Nhiều người nam rơi vào chứng bệnh này, nhưng lại cho rằng đó là bản tính của mình mà không chịu nỗ lực tháo gỡ, tương nhượng với nhu cầu tình cảm của vợ. Đó là một sai lầm cần phải nhận diện và làm mới.
Truyền thông đòi hỏi phát xuất từ trái tim với nhận thức chân thành. Nghĩ gì thì nên mô tả biểu đạt đúng với dòng cảm xúc đó. Tuy nhiên nhiều người nữ lại không thích như thế, họ biểu đạt khác với những gì họ nghĩ vì ngại ngùng. Ví dụ nhu cầu được yêu thương đáng lẽ phải bày tỏ nhưng vì muốn chồng phải tự hiểu và đáp ứng khiến người vợ ngại ngùng không dám nói. Vì không bày tỏ nhu cầu nên khi thấy chồng thờ ơ vô tâm, nỗi khổ niềm đau bắt đầu trỗi dậy. Từ trạng thái ức chế tâm lý cho nên mâu thuẫn nhỏ va chạm nếu không điều chỉnh kịp thời sẽ trở thành vấn đề lớn. Truyền thông phải trực tiếp bằng ngôn ngữ rõ ràng, không nên nói bóng gió, hoặc mỉa mai.
Lắng nghe và chia sẻ
Lắng nghe là nhu cầu phát sinh khi một trong hai người bắt đầu phát ra ngôn ngữ nói về nhu cầu cảm xúc nhưng người kia không quan tâm. Do đó sự lắng nghe chính là năng lực trị liệu giúp nỗi đau lắng dịu phần nào. Chúng ta hãy học hạnh lắng nghe của bồ tát Quan Thế Âm khi người thân thương muốn truyền thông. Quát tháo, hay chặn đứng tất cả cơ hội phát ngôn, thậm chí hiểu lầm mà không cho người kia cơ hội giãi bày thì dần dần những ức chế tâm lý này làm đời sống tình yêu bị đốt cháy.
Lắng nghe cần song hành với quan sát để đi vào chi tiết của vấn đề, những tâm tư, suy nghĩ mà tìm ra giải pháp. Nếu chỉ lắng nghe một cách đơn thuần qua loa, chắc chắn người còn lại sẽ cảm thấy hụt hẫng dần dần rơi vào trạng thái lặng câm. Nói mà có người biết lắng nghe sẽ dẫn đến xóa bỏ hiểu lầm, khai thông được trạng thái cô đơn của người đang có nhu cầu truyền đạt thông tin tình cảm. Nói tạo phản ứng nghe, lúc đó nhu cầu trao đổi tâm tình và kéo theo sự gắn bó.
Trong đời sống vợ chồng, nếu không hề có sự trao đổi, mạnh ai nấy làm, tiền ai nấy giữ, không quan tâm để ý đến nhau thì trước sau gì đổ vỡ hạnh phúc là điều đương nhiên xảy ra. Tuy nhiên, trao đổi đó cũng phải đặt trên sự chia sẻ.
Bản chất của sự chia sẻ đòi hỏi nhiều yếu tố. Trước tiên là thời gian dành cho nhau. Nhiều cặp vợ chồng trẻ gặp khủng hoảng trong hạnh phúc hôn nhân bởi vì những đứa con thơ đòi hỏi quá nhiều sự chăm sóc làm cho cả hai không còn thời gian dành cho nhau nữa. Rốt cuộc tình yêu nồng thắm trở nên nguội lạnh. Do đó, tình yêu khi được quan tâm chia sẻ thì phải hướng đến những nhu cầu cần giải quyết và dành cho nhau không gian để tình yêu được duy trì và được nuôi lớn.
Chia sẻ cũng cần có chừng mực nhất định. Vợ chăm sóc chồng như đứa con trai dễ gây cho chồng cảm giác tự ti rằng mình mất hết nam tính lẫn cương vị trụ cột gia đình. Ức chế tâm lý này sẽ phá vỡ tình yêu mặc dù được chăm sóc rất kỹ. Cho nên trong thương yêu chăm sóc cũng cần có khoảng cách nhất định của đời sống riêng tư thuận theo luật pháp, đạo đức mà vẫn giữ được bản chất riêng. Còn nếu cả hai vợ chồng hòa với nhau làm một như lý thuyết thì điều kiện kéo dài tình yêu hạnh phúc đó không được bao lâu.
Tôn trọng sự riêng tư
Không nên can thiệp một cách thô bạo vào những công việc riêng mà nó không dính líu gì đến sự không chung thủy của cả hai. Nhờ có những không gian riêng nên mỗi lần gặp nhau, năng lượng thu hút giới tính làm giảm bớt tâm lý nhàm chán. Mối quan hệ về tâm lý luôn diễn ra theo thế: Cái gì thường xuyên quá sẽ trở nên nhàm chán. Tâm lý học phương Tây khuyên các đôi vợ chồng nên ngủ riêng sau những giờ phút bên nhau cả ngày để cảm giác gần nhau luôn là mới. Dĩ nhiên tâm lý học phương Tây khai thác yếu tố tham ái và tâm lý dính mắc của đời sống vợ chồng để duy trì và bảo hộ nó. Kết quả cho thấy không phải bất cứ đôi vợ chồng nào thực tập theo kỹ năng tâm lý vừa nêu cũng thành công, bởi vì tùy tình huống không ngủ chung dẫn đến sự đổ vỡ. Cho nên áp dụng kỹ năng tâm lý học phương Tây cũng cần hết sức thận trọng. Khai thác yếu tố dính mắc của tham ái để tăng trưởng hạnh phúc lứa đôi đôi khi gặp phản ứng tác dụng phụ.
Trong khi đó, đức Phật khuyên chúng ta thỉnh thoảng tách ly tham ái trong đời sống vợ chồng. Vào những ngày lễ vía, ngày văn hóa Phật giáo, vợ chồng nên phát nguyện giữ bát quan trai, trở thành người tu trong hai mươi bốn giờ đồng hồ. Sau đó, năng lượng về tình yêu, thông cảm, nhận thức, nâng đỡ nhau sẽ được vượt trội. Đây là yếu tố làm cho cả hai không quá đặt nặng khoái lạc giác quan để bị đắm chìm trên cơ sở so sánh đối chiếu vợ hoặc chồng mình với người khác hấp dẫn hơn.
Như vậy, kỹ năng giao tiếp vợ chồng đóng vai trò quan trọng như yếu tố dẫn khởi, nhưng không phải ai cũng thành công. Nếu một trong hai người không nỗ lực thay đổi cá tính trên nền tảng tương nhượng thì mâu thuẫn và xung đột ngày càng phát triển. Cho nên đạo Phật khuyên dạy chúng ta giải quyết căng thẳng trong xung đột do cá tính khác biệt là nguyên nhân chủ yếu.
Một đôi vợ chồng nọ chênh nhau mười hai tuổi. Họ gặp nhau tình cờ qua mai mối. Tình yêu sét đánh làm cho hai bên quyết định tiến tới hôn nhân mà không cần thời gian tìm hiểu cặn kẽ về nhau. Họ tổ chức kết hôn sau một tháng quen biết. Khi sống chung, cá tính bộc lộ khác biệt trời và vực. Người vợ chăm chỉ, tươm tất, đứng đắn. Còn ông chồng cẩu thả, vô tâm, vô lo. Sau thời gian chung sống, cuộc hôn nhân rơi vào khủng hoảng. Bên cạnh cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu diễn ra ảnh hưởng đến Việt Nam làm cho người chồng rơi vào cảnh thất nghiệp. Nỗi buồn cô đơn vì bất đồng cá tính và sự thất nghiệp dẫn lối người chồng đến với rượu để giải sầu. Mỗi đêm khi chồng trở về nhà, người vợ lại biểu lộ thái độ căm giận chồng vô trách nhiệm. Đôi lúc chồng ngủ say trong men rượu, người vợ đạp và đánh vào đầu cùng với những lời mắng nhiếc nặng nhẹ khác nhau. Cuối cùng, hai bên rơi vào tình trạng bạo lực gia đình. Nhưng sau mỗi lần bạo lực gia đình, họ lại thương yêu nhau đắm đuối.
Chúng ta thấy, giữa hai người quá khác biệt cá tính cũng dẫn đến sự xung đột. Nếu không giải quyết nhanh thì trạng thái trầm cảm, lãnh cảm bắt đầu phát sinh, tệ hại hơn là bạo lực gia đình. Do đó một trong hai người hoặc cả hai cần nỗ lực tích cực hơn. Quan niệm mình như vị bồ tát sinh ra trên cõi đời để làm những việc khó làm. Còn nếu nghĩ rằng mình là phận nữ cần được quan tâm chăm sóc, hoặc nếu là người chồng nghĩ rằng mình không có lỗi nên không cần phải xuống nước, thì sự khủng hoảng vì hai cái tôi va chạm nhau ở mức độ khá cao, dẫn đến không khí ngột ngạt trong đời sống vợ chồng. Đối với tình huống hành xử giữa hai bên tạo cảm giác không an và bất hạnh thì người còn lại phải nhận diện rằng đây là một khuyết điểm hay khác biệt cá tính. Từ đó bản thân thay đổi thái độ để thích ứng với cá tính của bạn đời, nếu cá tính này không làm thương tổn đến tình yêu ở mức độ rộng và sâu. Chấp nhận một cách tương đối như thế, chúng ta dễ dàng giữ và nuôi lớn được hạnh phúc. Còn lý tưởng hoá, tuyệt đối hoá, hay thần tượng hoá nhiều chừng nào thì sự tuyệt vọng tương đương chừng đó. Cũng không nên trách móc mà tạo cơ hội cho bạn đời sửa chữa khuyết điểm.
Là Phật tử, chúng ta nhận thức rõ sai lầm thuộc về bản chất của người phàm kẻ tục. Do đó, lúc nào tính cách của người phàm kẻ tục vẫn còn hiện hữu thì sự sai lầm vẫn diễn ra. Chúng ta có thể lấy mình làm thước đo rằng, có những lúc bản thân chúng ta cũng rơi vào những sai lầm, có thể nhẹ hơn, vi tế hơn nhưng chưa hẳn chúng ta là con người toàn diện. Ý thức tính tương đối của bản thân, chúng ta dễ dàng thông cảm cho những bất toàn hay khiếm khuyết của tha nhân, để không cường điệu và nhân rộng sự khác biệt giữa hai bên, từ đó dễ dàng hàn gắn hoặc song hành trong một sự tương đối nhằm thiết lập hạnh phúc.
Một vài tình huống căng thẳng xảy ra giữa hai vợ chồng trên quy luật vô thường. Chẳng hạn, một trong hai người mới mua vật nào đó rất đắt giá. Ấy thế mà người kia vì bất cẩn làm rơi vỡ. Người trân quý sở hữu vật chất này vì tiếc rẻ, bực tức và đau khổ có thể trút đổ cơn giận lên người thương của mình. Đối với tình huống này, chúng ta có thể thực tập quan niệm vô ngã sở hữu rằng mình chưa từng có vật sở hữu đó để dễ dàng tha thứ cho sự bất cẩn, thậm chí là cố ý của người thân, và để sự bất đồng nho nhỏ vì vô thường không làm sứt mẻ tình yêu ở mức độ nghiêm trọng hơn.
Hoặc những tình huống khác, chẳng hạn một trong hai người sơ ý làm mất tài sản chung được dành dụm bằng mồ hôi nước mắt. Ai quá quan trọng yếu tố tài chính trong đời sống hạnh phúc gia đình sẽ bắt đầu đay nghiến khó chịu. Mâu thuẫn nho nhỏ như thế có thể dẫn đến tình trạng bi đát. Lúc đó chúng ta nên thực tập phương pháp quán vô ngã sở hữu bằng cách nghĩ rằng “của đi thay người”. Tự an ủi bằng câu dân gian như thế mặc dù nó không phản ánh đúng bản chất nhân quả nhưng ít ra nó có năng lực giải phóng sự sân hận bực tức do chúng ta quá chú trọng đời sống vật chất.
Mở rộng tấm lòng
Kỷ năng này yêu cầu ta lấy tấm lòng rộng lượng làm thước đo. Trước nhất, đo hành vi của bản thân, sau đó đo lường người thương, nhưng không phải để xét nét, bắt bẻ, trách móc mà để có cơ sở cảm thông cá tính của người đó. Quan niệm này giúp chúng ta thực tập và ngày càng lớn mạnh lòng hỷ xả, khoan dung. Đừng tạo cho bản thân thói quen quan sát bạn đời bằng kính lúp. Để ý để tứ quá nhiều làm cho người kia cảm giác mình bị xoi mói, mất tự do cá nhân. Mặc dù được nhân danh tình yêu hay bằng sự chăm sóc thì cảm giác khốn đốn, không thoải mái sẽ làm cho người thương nảy sinh tâm lý bất cần, như vậy, sự quan tâm của chúng ta gặp phản ứng phụ ảnh hưởng tiêu cực đến tuổi thọ mối quan hệ nói chung. Cho nên, chúng ta cần có thái độ rộng lượng, đừng quá để ý. Đôi lúc tự xem mình như người mù, người điếc để không bị vướng vào mắt, chướng vào tai, từ đó thái độ hỷ xả bao dung sẽ làm cho tình yêu được phát triển một cách tích cực và tự nhiên.
Trong một số tình huống, sự so bì tính toán trở thành chướng ngại lực cho sự phát triển tình yêu. Đặt nặng cái tôi chính là nguyên nhân của thái độ so bì tính toán. Người đó có thể nghĩ rằng tình yêu dành cho mình phải là sự chăm sóc, đem đến điều kiện hưởng thụ vật chất tối đa. Việc tính từng cân, từng lạng sẽ làm cho cả hai bên không còn thương yêu nhau như thưở ban đầu.
Một anh thanh niên Việt kiều kết hôn với vợ nông thôn Việt Nam. Sau thời gian ngắn quen biết và nhiều hứa hẹn trợ cấp đời sống kinh tế từ anh thanh niên, hôn lễ diễn ra và họ định cư ở nước ngoài. Một năm chung sống, người vợ bị sụp đổ thần tượng hoàn toàn khi biết chồng mình là một người thất nghiệp. Thời gian về Việt Nam, anh chồng đã sẵn sàng bỏ ra một số tiền trợ cấp gia đình cô nhằm gây ấn tượng rằng anh là người giàu có và hào hiệp. Không ngờ qua sống chung với nhau, mơ ước về một nơi nương tựa vững chắc đã bị sụp đổ hoàn toàn.
Một khi tình yêu xuất phát từ khuynh hướng cung cấp cho những nhu cầu kinh tế, thì tình yêu đó sẽ cất cánh bay cao khi tài sản vật chất không còn. Cho nên sẽ là một sai lầm nếu chúng ta quá quan trọng vấn đề kinh tế trong tình yêu, vì tình không thể được mua bằng tiền. Tiền có thể mua các dịch vụ chăm sóc ở karaoke, quán bia ôm, hay lầu xanh nhưng không thể mua được trái tim yêu thương chân thành của người còn lại. Đến với nhau bằng bán tình hay mua tình thì sự đổ vỡ của nó là một thách đố hết sức nặng nề mà chúng ta không thể không quan tâm. Để thực tập hạnh hỷ xả khoan dung nếu một trong hai người có cá tính mà mức chu toàn về phương diện nhân phẩm thấp hơn người còn lại, thì chúng ta phải làm quen và thích ứng, để tạo ra tiến trình sống hoà bình. Chúng ta có thể cười xòa, không quan trọng hoá. Cần biết rõ, mỗi người đều có giới hạn về biệt nghiệp và bị ảnh hưởng cộng nghiệp của gia đình trong môi trường giáo dục, phong tục tập quán, tôn giáo suốt mấy chục năm qua. Bản thân chúng ta cũng có những giới hạn tương tự, thì việc yêu cầu người kia là một bản hoàn thiện về phương diện nào đó là một sai lầm. Hãy quan niệm về duyên khởi, tức là tương đối hóa sự tuyệt đối trong cuộc đời thì chúng ta sẽ không còn có những mong chờ hy vọng quá lớn, để khi chung sống không bị thất vọng quá nhiều.
Sống như vậy không có nghĩa là tiêu cực, an phận thủ thường, chấp nhận vận mệnh, mà là tạo cơ hội và phương tiện để giải phóng những ức chế và nỗi đau phát sinh từ cảm xúc tâm lý. Thay vào đó, chúng ta tìm những nguyên nhân, thay vì trách móc, chúng ta tìm những cơ sở để cảm thông và xác định rõ rằng việc cảm thông này tạo ra tính an ủi giúp người kia trở về bằng những nỗ lực động viên có phương pháp. Làm được như thế là chúng ta đang ứng xử như người thực tập bồ tát hạnh. Chăm sóc người vợ hay người chồng để họ ngày càng tốt đẹp hơn, đó là hành động đem lại hạnh phúc không phải chỉ cho cả hai mà cho cả con cháu.
Biết họ hàng hai bên
Mâu thuẫn va chạm trong gia đình không chỉ diễn ra giữa vợ và chồng mà đôi khi diễn ra giữa mẹ chồng nàng dâu hoặc mẹ vợ con rể. Người nữ thường có quan niệm khi đã kết hôn, hầu như tất cả tình thương, tình thân ruột thịt bên mình không còn mặn nồng mà đổ dồn cho chồng và những đứa con. Còn người chồng lại có khuynh hướng tâm lý không đổ dồn tất cả tình cảm cho vợ con bởi vì bên cạnh vợ con, anh ta còn có nhu cầu xã hội, tình bạn, công việc, danh vọng, chức tước... Hệ quy chiếu của tình yêu giữa nam và nữ khác biệt khá lớn. Nếu ứng xử thiếu khôn ngoan trong tình huống này sẽ dẫn đến mâu thuẫn nghiêm trọng.
Cũng có nhiều người vợ đặt nặng mối quan hệ tình thân phía mình, yêu cầu người chồng phải chu cấp và hỗ trợ kinh tế. Sau một thời gian trợ cấp, người chồng cảm giác nặng gánh trên vai. Cái mâu thuẫn nho nhỏ trong tình cảm dưới sức ép kinh tế và tài chính sẽ tạo ra bức xúc tâm lý rất lớn. Do vậy cả hai cần ý thức có một biên giới để tương nhượng lẫn nhau ở một mức độ phạm vi mà cả hai cần phải tôn trọng. Có nghĩa, đã là vợ chồng thì phải hiếu kính với cha mẹ ruột của hai bên, chứ không thể chỉ hiếu kính cha mẹ của riêng mình. Xử sự không khéo, gây mâu thuẫn với gia đình ruột thịt phía người bạn đời, vô tình sẽ đẩy người bạn đời của mình rơi vào tình thế khó xử khi phải chọn lựa giữa tình yêu và chữ hiếu. Ý thức được điều đó, chúng ta nên có một giới hạn nhất định.
Một đôi vợ chồng nọ, trước khi đến với nhau, cô vợ đã trải qua một đời chồng Đài Loan nhưng không có con vì người chồng lớn tuổi. Ông chồng Đài Loan thương yêu và chu cấp cho cô rất nhiều tiền vốn, mở cơ sở kinh doanh, mua nhà riêng cho cô. Sau khoảng ba năm, khi cô vợ đứng vững trên thương trường bắt đầu có cảm giác rằng mối tình mà mình đặt trọn trái tim không phải là tình yêu thật sự mà đó chỉ là mối tình kinh tế hóa.
Ngoài ra, người chồng Đài Loan cũng đã có vợ con ở nước sở tại. Mỗi năm, ông sang Việt Nam một vài tháng, cô vợ Việt Nam phải sống cô đơn bóng chiếc trong mười tháng còn lại. Cuộc sống cô đơn phát sinh nhu cầu có người bên cạnh. Không ngờ, anh chàng mà cô để lòng thương yêu lại là kẻ thất nghiệp. Vì năng lực và sức chịu đựng nghịch cảnh ở người chồng quá kém, nên bao năm chung sống mà người chồng vẫn thất nghiệp.
Sau đó cha mẹ chồng lại bệnh, người vợ lại rước cha mẹ chồng về ở chung với mình và mẹ ruột của mình. Người mẹ ruột cô lúc nào cũng quan niệm gia đình con rể như là những bệnh nhân. Sự có mặt của họ làm cho bà cảm giác rằng ngôi nhà của con gái bà là bệnh viện. Bà cảm thấy ngột ngạt, khó chịu, gây ảnh hưởng và sức ép tâm lý lớn đối với đứa con ruột của mình. Người vợ vì thương chồng nên thương luôn cả cha mẹ chồng nhưng tình thương hiếu kính với mẹ ruột cũng không thể để mất. Cho nên, mâu thuẫn đó tạo sự giằng xé trong tâm.
Trong những tình huống vừa nêu, người ứng xử cần hết sức khéo léo, nhập gia tùy tục. Tùy tục là thuận theo nền văn hoá và thói quen người bạn đời, nhưng cũng không vì thế mà làm mất đi văn hoá của gia tộc mà mình đã được sinh ra và lớn lên. Thay đổi thái độ, bớt đi quan niệm cái tôi quá lớn để làm hòa giữa hai bên. Đừng nảy sinh ý tưởng thay đổi gia đình bên vợ hoặc bên chồng, mà thay vào đó, chúng ta hãy thay đổi quan điểm và cách sống của mình để thích ứng. Cũng đừng quá xét nét sẽ làm người thân cảm thấy ngột ngạt. Nước trong veo thường không có cá, người xét nét nhiều sẽ không thể nào có tình thân huống hồ tình thương. Ứng xử cần phải tế nhị. Nếu không đủ điều kiện cho vợ chồng độc lập ở riêng, thì sự sống chung buộc chúng ta phải thay đổi quan điểm và thái độ. Bằng không, cứ mỗi ngày trôi qua, sức ép tâm lý ngày càng gia tăng.
Một đôi vợ chồng trẻ khác đến với nhau bằng tình yêu thật sự nhưng cha mẹ chồng không thừa nhận nàng dâu. Người con trai không muốn mất tình yêu cũng không muốn mất tình cảm cha mẹ ruột nên đã lặng lẽ đính hôn. Sức ép trong đời sống gia đình ngày càng gia tăng bởi vì trước kia anh con trai đưa về năm mươi phần trăm tiền lương cho cha mẹ ruột, nhưng bây giờ anh chỉ chu cấp ba mươi phần trăm. Cha mẹ anh tra hỏi nhiều cách nhưng anh vẫn cố giấu việc mình đã lấy vợ ở riêng. Anh luôn viện lý do đi công tác xa để ở cùng với vợ. Dần dà, cha mẹ phát hiện đứa con trai của mình đã đính hôn với người mà mình không chấp nhận. Tâm lý tức giận khiến cha mẹ anh ra phường xã yêu cầu làm thủ tục từ con.
Tình huống này tuy hiếm gặp, nhưng chúng ta thấy nỗi khổ niềm đau của người con trai này rất khó giải quyết. Chúng tôi đã khuyên anh giữ bản lĩnh và sức chịu đựng để cha mẹ mình dần dà chấp nhận con dâu. Bởi vì ít ra vợ anh cũng không phải là kẻ không chu toàn về đời sống đạo đức mà chỉ vì một thành kiến hay ác cảm giữa mẹ chồng nàng dâu trong lần gặp gỡ đầu tiên.
Nếu bậc cha mẹ ứng xử bằng lăng kính quá khứ thì đôi khi có thói quen lấy bản thân mình và đời sống hạnh phúc hôn nhân của mình làm hệ quy chiếu, áp đặt con dâu phải là một bản sao của chính mình trong quá khứ. Càng muốn con trai mình hạnh phúc nhiều chừng nào thì yêu cầu và tiêu chí đặt cho người dâu càng tăng tỷ lệ thuận theo chừng đó. Làm như thế là gây sức ép lớn cho con trai mình. Bậc cha mẹ cần nhận diện rõ cuộc sống chung lâu dài chỉ diễn ra với vợ chồng của con cái mà không ảnh hưởng gì đến mình. Nếu vì thương yêu quá mức mà không tạo điều kiện tự lập cho con cái, vô hình chung chúng ta cứ tưởng mang đến niềm vui nhưng kỳ thực lại gây không khí ngột ngạt cho hạnh phúc tình yêu của chúng.
Thái độ tôn trọng, tấm lòng chân thành của người con để có được trái tim cởi mở, nhận thức thoáng rộng từ gia đình ruột và họ hàng phía người bạn đời sẽ làm giảm tình trạng xung đột, hoặc đổ vỡ ở mức độ nghiêm trọng. Sự xung đột đó có thể được khoanh vùng ở mức độ tương đối.
Kỹ năng này là nghệ thuật xử lý trong tình huống không còn sự lựa chọn nào khác là phải sống chung với gia đình nhà chồng hay nhà vợ. Đôi lúc chúng ta cũng không nên quan trọng hóa những chỉ trích, ứng xử thậm chí sỉ vả, mắng nhiếc, chửi bới; ức chế tâm lý đó mới được vượt qua, vì tình thương yêu giữa vợ và chồng mới chính là yếu tố quan trọng. Chúng ta ở đời với vợ hoặc chồng chứ không phải cha mẹ chồng hay cha mẹ vợ. Mâu thuẫn đó chỉ mang tính tương đối về thời gian từ vài năm cho đến vài chục năm khi cha mẹ còn sống. Ứng xử như thế chúng ta không những không gây sức ép mà còn có thể khéo léo khôn ngoan tìm cách giải quyết các vấn nạn phát sinh trong quan hệ tình yêu giữa vợ và chồng.
Tóm lại, bốn kỹ năng trên có giá trị hỗ trợ trị liệu tâm lý và xử lý tình huống một cách có nghệ thuật. Bài kinh 109, thuộc Kinh Trung Bộ, cũng nêu ra khái niệm “tiệp tuệ” và “lợi tuệ” rất cần thiết để áp dụng. “Tiệp tuệ” và “lợi tuệ” là hai năng lực xử trí thích hợp với tình huống sáng suốt trong ứng xử, nhạy bén trong cách thức giải quyết vấn đề để những điều diễn ra ngoài ý muốn không làm cho nỗi khổ niềm đau trỗi dậy. Người có khả năng tiệp tuệ sẽ rất khôn ngoan biến nghịch cảnh trở thành thuận duyên, xem tất cả những trở ngại như lửa thử vàng, tâm tính trưởng thành ngày nhiều hơn. Không có năng lực tiệp tuệ thì trong nghịch cảnh, chúng ta dễ than trời trách đất, đổ lỗi cho số phận, cường điệu hóa khổ đau.
Trong khi đó lợi tuệ là phản ứng nhanh chóng không hề kéo theo bất kỳ phản ứng tác dụng phụ nào giữa ta và những người đối tác trực tiếp. Ứng xử khôn ngoan giúp tạo sợi dây hòa thuận giữa bên vợ hoặc bên chồng, đó là yếu tố trong nền văn hóa phương Đông đặc biệt là Việt nam khó có thể tránh khỏi. Xã hội phương Tây khi đến tuổi thành niên, người ta đã có cơ hội sống biệt lập, cho nên sự giao lưu tiếp xúc bên vợ hoặc bên chồng chỉ dừng lại ở nghĩa cử giao tế vào những ngày sinh nhật hoặc lễ tết. Do đó mâu thuẫn này không phải là một thách đố lớn. Chúng ta thích ứng bằng cách làm quen và không để ý tới những gì tạo nỗi khổ niềm đau cho cả hai. Được như thế thì giá trị hạnh phúc gia đình sẽ đảm bảo và kéo dài ở mức độ tương đối. Bằng không, tình yêu đó sẽ chóng phai nhòa và bản chất của hạnh phúc qua đó cũng bị mất ý nghĩa.
Muốn có hạnh phúc lâu dài, chúng ta phải sống có nghệ thuật. Không phải chỉ có tình yêu giữa hai trái tim là đủ, không phải đời sống vật chất sung túc là có thể kéo dài được hạnh phúc trong hôn nhân. Không phải chỉ quan hệ giao tế với nhau là có thể trưởng thành được hạnh phúc. Mà chúng ta cần trang bị những kỹ năng giao lưu, thể hiện, giải quyết để duy trì nó đẹp như thời gian ban đầu đến với nhau.