I.- SƠ LƯỢC VỀ PHẬT GIÁO VIỆT NAM Hơn
22 thế kỷ, từ thời Hùng Vương đến nay, Phật giáo luôn đồng hành cùng
dân tộc thịnh suy theo sự thăng trầm của đất nước. Từ thuở bình minh
Phật giáo VN tu theo các pháp Thiền Ấn Độ, từ thế kỷ thứ 6 trở đi, tu
theo các pháp Thiền Trung Hoa; chư Tổ VN nhiều vị tu hành chứng đắc, đạo
cao đức trọng, có vị đã để lại nhục thân như các thiền sư: Từ Đạo Chân,
Từ Đạo Minh, Chuyết Công, Như Trí,… chẳng kém gì các Tổ người Trung
Hoa. Sau khi ngộ đạo, các Ngài xiển dương các pháp mà mình đã tu, đã
chứng, đã ngộ, chưa có vị Tổ sư nào sáng tạo nên đường lối tu hành, mang
bản sắc văn hóa dân tộc, đặc thù cho Phật giáo Việt Nam. Mãi đến thế kỷ
13, khi Phật hoàng Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con rồi lên núi Yên
Tử tu hành ngộ đạo, Ngài mới dung hợp ba dòng Thiền của Trung Hoa sáng
lập dòng Thiền VN có tên là Thiền Trúc Lâm Yên Tử, mang bản sắc văn hóa
đặc thù của Phật giáo Việt Nam. Đến nay tinh thần Phật giáo đời Trần,
vẫn còn xứng đáng là ngọn đuốc soi đường cho Phật giáo Việt Nam ở thời
đại khoa học kỹ thuật viễn thông toàn cầu, xứng đáng là niềm tự hào của
dân tộc sánh vai cùng Phật giáo thế giới. Vì nó đi đúng với tinh thần
giáo lý của đạo Phật, không mang màu sắc tín ngưỡng của tôn giáo, “Phật
tại tâm” “Tâm lặng mà biết đó là chơn Phật” (lời dạy của Quốc sư Trúc
Lâm còn gọi là Đạo Viên nói với vua Trần Thái Tông). Đời nhà Trần đã
biết Phật ở tại tâm, tâm lặng mà thường biết đó là tâm Phật. Phật và chư
Tổ tu hành ngộ đạo đều nói “tức tâm tức Phật”, vậy mà ngày nay mình là
con cháu trong nhà, Tổ mình đã dạy rõ ràng mà chẳng biết, chẳng nghe
“vác Phật đi cầu Phật bên ngoài” thật đáng thương! Vì bị mê hoặc mà quên
mất Phật tại tâm, nên Tổ nhắc “kho báu nhà mình chẳng đoái hoài đi tìm
kho báu nhà người” cũng vì vọng ngoại, bị nô dịch tôn giáo gần cả nghìn
năm nên chẳng biết, chẳng tỉnh, thật đáng thương và đáng buồn. Đạo Phật
là đạo giác ngộ, giải phóng con người thoát khỏi nô lệ thần linh, Phật
đã dạy “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Người tu theo
đạo Phật là người chuyển hóa cái tâm phàm phu đầy “vọng tưởng đảo điên”
suốt ngày bị thất tình lục dục dẫn lôi, buông bỏ mọi vọng niệm đưa tâm
về trạng thái an tịnh thường biết rõ ràng. Tâm đó là tâm Phật. Tu mà
không chịu buông bỏ vọng niệm, chuyển hóa nội tâm chỉ lo cúng kính cầu
xin Phật, Bồ Tát, tu như thế thì đến bao giờ tâm được an lạc, giác ngộ
giải thoát. Tổ Trúc Lâm đã nói: Vậy mới hay! Bụt ở “cong” nhà, Chẳng phải tìm xa, Nhân khuây bản nên ta tìm Bụt Đến “cốc” mới hay “chỉ” Bụt là ta
( Phú Cư Trần Lạc Đạo – Hội thứ năm)Phật
hoàng Trần Nhân Tông sau khi ngộ đạo Ngài đi khắp nơi trong nước dẹp bỏ
những “dâm từ”, và dạy dân tu Thập Thiện. Thiền phái Trúc Lâm tuy chủ
trương tu Thiền, nhưng các Ngài vẫn giảng dạy Kinh, Luật, Luận cho Tăng
Ni Phật tử. Chùa Vĩnh Nghiêm, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc giang xưa kia là
Trung tâm hành đạo của Thiền phái Trúc Lâm, là trường Đại học Phật giáo
đầu tiên của nước Đại Việt, là nơi Tam Tổ Trúc Lâm đều về đây giảng dạy
cho hơn 1500 Tăng Ni. Hiện nay lưu giữ 3050 mộc bản in kinh. Những mộc
bản này vừa qua tại kỳ họp thứ 5, Ủy Ban Ký Ức Thế giới khu vực Châu Á
Thái Bình Dương đã công nhận mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm là di sản ký ức thế giới khu vực Châu Á Thái Bình Dương năm 2012. Theo
các tài liệu còn sót lại cho biết, đời Trần phát hành kinh sách Phật
giáo rất nhiều, đặc biệt có bản bằng chữ Nôm. Nhưng rất tiếc tất cả kinh
sách đó và sử liệu về Phật giáo VN đã bị nhà Minh khi sang cai trị nước
ta (TK.XV), gom góp, vét sạch đem về Kim Lăng, áp dụng chính sách hà
khắc, hủy diệt văn hóa, để đồng hóa dân tộc ta. Qua
sử liệu chúng ta được biết: Phật giáo đời Trần đã đem lại sự thái bình,
sự an cư lạc nghiệp cho nhân dân, sự cường thịnh cho đất nước, tinh
thần tự lực, tự cường và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Rất tiếc các
nhà Nho thời bấy giờ chỉ biết cái học Tống Nho là độc tôn, không thấy
được giá trị của đạo Phật và nền văn hóa truyền thống độc lập, tự lực,
tự cường, của dân tộc, đã đưa đất nước trở lại nô dịch nền văn hóa Trung
Quốc, không nghĩ đến “văn hóa còn đất nước còn, văn hóa mất thì mất
nước”. Đến nay, còn nhiều người vẫn chưa tỉnh, chưa nhận ra cái họa nô
dịch văn hóa và chính sách thâm độc hủy diệt văn hóa của ngoại bang để
đồng hóa dân tộc ta, nên hướng ngoại, không ý thức được việc giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc là bảo vệ nền độc lập quốc gia, và không nhận thức
được chính sách xâm lăng của ngoại bang bằng con đường đồng hóa văn hóa,
tôn giáo và lễ nghi…, nên vẫn thờ ơ trước sự nô dịch văn hóa, lễ nghi
qua các thời khóa công phu trong chùa. Chúng tôi mong rằng đọc đoạn sử
liệu đã ghi trong Đại Việt Sử ký Toàn Thư sau đây những ai yêu quê hương
và dân tộc sẽ đề cao cảnh giác về âm mưu thâm độc để thôn tính VN của
ngoại bang qua con đường văn hóa, tôn giáo, từ đó có ý thức và hành động
về việc bảo tồn bản sắc văn hóa Phật giáo VN. Đại Việt Sử ký Toàn thư cho biết “Từ
thế kỷ thứ 13, Trung Hoa không mấy bằng lòng khi thấy Đại Việt phát
triển một nền văn hóa độc lập. Năm 1261, vua Nguyên là Hốt Tất Liệt đã
sai Lễ bộ lang trung là Mạnh Giáp và viên ngoại lang là Lý Văn Tuấn mang
thư sang nước ta dụ triều đình Đại Việt nên theo văn hóa Trung Quốc,
đừng thay đổi phong tục lễ nhạc và phẩm phục” Các Nho sinh được tuyển
chọn vào phụng sự quốc gia thường có khuynh hướng Bắc hóa, muốn thay đổi
pháp độ cho giống Trung Quốc. Phép thi cử, phép đặt làm quan lại, Tết
nhất, v..v dưới ảnh hưởng của các Nho thần, dần dần bị ảnh hưởng của
Trung Quốc. Vua Minh Tông không chịu nghe lời của bọn Phạm Sư Mạnh và Lê
Bá Quát mà thay đổi pháp độ. Sau khi thấy pháp độ đã bị Bắc hóa, vua
Nghệ Tông rất muốn trở lại truyền thống và pháp độ của các vị vua đầu.
Vua nói “Triều trước dựng nước, tự có pháp độ, không theo chế độ nhà
Tống, là vì Nam Bắc đều làm chủ nước mình, không cần bắt chước theo
nhau. Vào khoảng năm Đại Trị (niên hiệu của vua Dụ Tông), kẻ học trò mặt
trắng được dùng, không hiểu ý sâu xa của sự lập pháp, đem phép cũ của
tổ tông thay đổi theo phong tục của phương Bắc cả, như về y phục, nhạc
chương, không kể hết.” Và vua ra lệnh đổi pháp độ lại giống như đời vua
Minh Tông. (Đại Học Sử Ký Toàn Thư, quyển 2, trang 233, NXBVHTT-2003) Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim- trang 213, NXB Văn Hóa thông Tin – năm 2001, đã ghi: “Đến
tháng 8 năm Giáp Ngọ (1414), bọn Trượng Phụ và Mộc Thạnh về Tàu, đem
theo những đàn bà con gái về rất nhiều. Bọn Hoàng Phúc ở lại sửa sang
các việc trong nước để khiến cho người An Nam đồng hóa với người Tàu.
Lập ra đền miếu, bắt người mình cúng tế theo tục bên Tàu, rồi từ cách ăn
mặc cho chí sự học hành, việc gì cũng bắt theo như người Tàu cả. Còn
cái gì là di tích của nước mình như là sách vở thì thu nhặt đem về Tàu
hết sạch. Lại đặt ra thuế lệ, bổ thêm sưu dịch để lấy tiền của, làm cho
dân ta thời bấy giờ phải nhiều điều khổ nhục.” Qua đoạn sử liệu
trên, một lần nữa chúng ta thấy chính sách hủy diệt văn hóa để đồng hóa
dân ta của người Trung Quốc vô cùng thâm độc. Ngày nay tuy VN thoát khỏi
sự đồng hóa, nhưng nhìn lại kho tàng văn hóa của tổ tiên, chúng ta
“muốn phát khóc”, và hậu quả, tàn dư của chính sách đầu độc văn hóa này
đã làm ngu dân bằng những tục lệ mê tín dị đoan mà họ đã gieo rắc trong
dân ta như: tục đốt vàng mã, đốt hình nhân thế mạng, xin xăm bói quẻ,
coi ngày giờ, cúng sao giải hạn,.. Các việc làm này kinh sách nhà Phật
không có ghi. Cũng vì những việc làm mê tín này mà lớp trẻ, những người
trí thức đã không đến với đạo Phật. Trách nhiệm này thuộc về ai? Chúng
ta phải làm sao? II.- NGƯỜI CHỦ TRƯƠNG KHÔI PHỤC TINH THẦN PHẬT GIÁO ĐỜI TRẦN- Hòa
thượng Thiền sư (HT.TS) Thích Thanh Từ, sau khi lên núi Lớn ở Vũng Tàu
cất “Pháp Lạc Thất” tu Thiền, ngộ đạo (1969), thấy được giá trị của Phật
giáo đời Trần, nên Ngài chủ trương “Khôi phục Phật giáo đời Trần”.
Trong bài “Tại sao tôi chủ trương khôi phục Phật giáo đời Trần”? Ngài
viết “Chúng tôi tự đặt cho mình trọng trách phải gánh vác việc này.
Vì vậy qua nhiều năm ưu tư tôi khẳng định lấy Phật giáo đời Trần làm cái
mốc để xây dựng Phật giáo Việt Nam. Đã quyết định tất phải có lý do.”
(sách Ba Vấn đề trọng đại trong đời tu của tôi, trang 53, NXB Tôn giáo-
2009). Tiếp theo là phần trình bày 5 lý do để Hòa thượng chủ trương khôi phục Phật giáo đời Trần: 1- “Nâng cao giá trị của Phật giáo Việt Nam”. 2- “Không chỉ riêng người xuất gia mà cư sĩ cũng ngộ đạo”. 3-
Chủ trương Thiền Trúc Lâm Yên Tử . Câu “phản quan tự kỷ, bổn phận sự
bất tùng tha đắc” nhìn xuyên suốt từ đời tu của đức Phật qua giáo lý,
đến các pháp Thiền. 4- “Tinh thần bao dung Thiền đời Trần (bao dung nội điển, Tam giáo đồng nguyên) 5- “Phật giáo đời Trần thực tế tích cực”
Thiền
phái Trúc Lâm sau một thời gian dài chìm ẩn, ngót một trăm năm không có
người tu, không có một người biết đến, kể từ khi HT.TS Thích Thanh Từ
thắp sáng lại ngọn đèn Thiền, thổi một luồng gió mới cho PGVN, chính
pháp Trúc Lâm được khôi phục từ đấy, đến nay trong và ngoài nước đã có
hơn 47 Thiền viện, hằng nghìn Tăng Ni tu theo Thiền phái Trúc Lâm. Qua
kinh sách, băng đĩa do Ngài viết, giảng dịch, cho Tăng Ni và Phật tử
Thiền phái Trúc Lâm học về Phật giáo đời Trần, đã tạo được ảnh hưởng sâu
rộng đến nhiều tầng lớp nhân dân. Từ đó Tăng Ni, các giáo sư tiến sĩ,
các nhà văn hóa, các nhà nghiên cứu, các nhà trí thức, nhà báo biết đến,
để tâm nghiên cứu, rồi tâm quyết, sau đó tổ chức nhiều cuộc hội thảo về
Trần Nhân Tông về Thiền phái Trúc Lâm để tìm hiểu sâu rộng về đường
lối, chủ trương, tư tưởng của Phật hoàng Trần Nhân Tông, để tôn vinh
tinh thần PG đời Trần. Ngày nay đã có hàng vạn Phật tử trong và ngoài
nước đang tu theo, nhiều học giả đang nghiên cứu về Thiền phái Trúc Lâm,
nhiều sinh viên viết luận tốt nghiệp về Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. III.- KHÔI PHỤC TINH THẦN PHẬT GIÁO ĐỜI TRẦN LÀ KHÔI PHỤC NHỮNG GÌ? Nói
đến tinh thần Phật giáo đời Trần là nói đến tinh hoa của PGVN, nói đến
tinh thần tự lực, tự cường, gắn kết với ý thức bảo vệ nền độc lập Quốc
gia, bảo vệ và phát huy truyền thống đạo đức mang bản sắc văn hóa Phật
giáo Việt Nam, và nói đến tinh thần khế lý, khế cơ, tùy duyên hóa độ
chúng sinh. Phật giáo đời Trần đã gắn đạo vào đời (Phật pháp bất ly thế
gian giác) và đồng hành cùng dân tộc, cùng thời đại để hoằng dương Phật
pháp. Nếu Phật giáo VN mê tín, dị đoan, lạc hậu thì làm sao độ được ông
vua, ông Trạng nguyên, nhiều sĩ phu, nhiều tầng lớp xã hội từ bà hoàng
cho đến thứ dân đi tu. Ngày nay các nhà trí thức, chính trị gia, các
sinh viên, để tâm nghiên cứu và các cháu thanh thiếu niên tìm đến để học
Thiền. Phật giáo đời Trần có đầy đủ các yếu tố trên, nên các Thiền viện
ngày càng phát triển và được quần chúng nhân dân tìm đến tu học. IV.- LÀM THẾ NÀO ĐỂ KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN TINH THẦN PHẬT GIÁO ĐỜI TRẦN ? Phật
giáo đời Trần tuy Thiền tông là chủ đạo, nhưng bên cạnh vẫn còn có Tịnh
độ tông và Mật tông. Trong thời gian đất nước bị chiến tranh, lòng dân
ly tán, chư Tổ khéo vận dụng pháp môn Tịnh độ để an dân là khế thời, khế
cơ. Vì làm sao an tâm ngồi Thiền khi người thân đang cầm súng ngoài mặt
trận, hay trong nhà tù. Khi nghe tiếng súng trận nổ giòn đâu đó thì
thắp hương lễ Phật, cầu trời, cầu Cửu huyền Thất Tổ hãy gia hộ cho
chồng, con, anh em đang ngoài chiến trận. Đang đêm nghe tiếng bom, đạn
pháo kích nổ gần nhà, trong thôn xóm thì lập tức chui vào hầm trú vừa
run sợ, vừa niệm Phật, niệm Bồ tát Quan Thế Âm liên tục để cầu xin các
Ngài gia hộ cho tai qua nạn khỏi. Trong hoàn cảnh đất nước chiến tranh
khốc liệt khắp mọi miền như vậy, pháp môn Tinh độ là thù thắng, hợp với
tinh thần khế lý, khế cơ của đạo Phật. Nay nước nhà độc lập cần có trí
tuệ để phát huy tinh thần tự lực, tự cường để xây dựng đất nước, bảo vệ
nền độc lập, nên chủ trương khôi phục tinh thần Phật giáo đời Trần là
đúng đắn và cần thiết. Trong bối cảnh PGVN hiện nay, khôi phục tinh thần
PG đời Trần là khôi phục cả 3 tông phái: Thiền tông- Tịnh độ và Mật
tông, chứ không phải chỉ khôi phục Thiền phái Trúc Lâm. Hiện
nay Thiền tông thì đã có HT.TS Thích Thanh Từ và các đệ tử của Ngài
khôi phục, còn Tịnh Độ, và Mật tông đang chờ chư Tôn đức nào đủ duyên
chủ trương khôi phục. Muốn
khôi phục và phát triển thì phải có cơ sở, ít nhất mỗi tỉnh, thành phố
phải có một chùa, một tự viện, hay một Thiền viện để hành đạo. Hiện nay
các chùa, các tự viện, các niệm Phật đường ở các nơi đa phần tu theo
Tịnh độ tông, một số ít tu theo Mật tông, nên Tịnh độ tông khôi phục thì
sẽ thuận duyên hơn Thiền tông vì đã có sẵn cơ sở, chỉ cần xoay cái nhìn
hướng tâm nguyện cầu tha lực bên ngoài (theo sự Tịnh độ) trở về quan
niệm “Tự Tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ” (theo lý Tịnh độ) là khôi phục và
xiển dương tinh thần Tịnh độ đời Trần, Sơ Tổ Trúc Lâm đã dẫn đường chỉ
lối rõ ràng rồi, chỉ cần khéo vận dụng, xiển dương là sẽ thành công như
Thiền phái Trúc Lâm. 1-Tịnh độ tông đời nhà Trần chủ trương như thế nào? HT.TS Thích Thanh Từ cho biết “Đời Trần tuy lấy Thiền Tông làm chủ đạo truyền bá, song cũng có Tịnh Độ đồng thời hoạt động. Tịnh độ có sự Tịnh Độ và lý tịnh độ. Về sự Tịnh độ thì
phải tin có cõi Cực lạc ở Tây phương, Đức Phật A Di Đà là giáo chủ cõi
này. Nếu người chí thành niệm Phật và tha thiết cầu sanh về cõi Cực Lạc
khi lâm chung được Phật Di Đà đón về Cực Lạc (đây là Tịnh độ của Trung Quốc, xuất hiện vào giữa thế kỷ thứ 4 do Tổ sư Huệ Viễn truyền bá). Về lý Tịnh độ là “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ”hay “tâm tịnh độ tịnh”Tức là tâm mình thanh tịnh là tịnh độ, tánh mình sáng suốt là Phật Di Đà. Tổ Trúc Lâm nói: “Tịnh độ là lòng trong sạch, Chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương Di Đà là tánh sáng soi, Mựa phải nhọc tìm về Cực lạc.
(Phú Cư Trần Lạc Đạo – Hội thứ hai)Thiền
tông nhận lý Tịnh độ, không thừa nhận sự Tịnh độ. Thiền sư Vô Ngôn
Thông nghe Tổ Bá Trượng nói: “tâm địa nhược không, tuệ nhật tự
chiếu”liền ngộ đạo. Đất tâm nếu không, là tâm tịnh độ tịnh. Tuệ
nhật tự chiếu, là tự tánh Di Đà. Vì A Di Đà dịch nghĩa là Vô lượng
quang, nhà Thiền gọi là Tuệ nhật tự chiếu. Đứng về lý Tịnh độ cùng thiền
tông cứu cánh không hai. Vẫn
biết Phật pháp là tùy duyên, tùy căn cơ chúng sinh (tùy bệnh cho thuốc)
và tất cả các pháp đều bình đẳng pháp, không có pháp nào cao, pháp nào
thấp. Những ai có duyên với pháp môn nào thì tu học theo pháp môn đó,
nếu đời trước mình tu Tịnh độ thì đời này mình thấy hợp với pháp tu Tịnh
độ. Nay mình vẫn tu Tịnh Độ nhưng với tinh thần PG đời Trần để khế hợp
với thời đại khoa học, với tuổi trẻ hôm nay, qua đó giữ gìn sắc văn hóa
dân tộc, tôn vinh PGVN sánh ngang tầm thế giới, vừa hợp với lời Phật dạy
“ngoại tâm cầu Phật danh vi ngoại đạo”, một hướng đi mới đưa đất nước
thoát khỏi chính sách nô dịch văn hóa, tôn giáo của ngoại bang đã có từ
ngàn xưa. Tinh thần Tịnh độ
đời Trần, người tu nỗ lực tinh tấn chuyển hóa nội tâm, từ cái tâm “phàm
phu” đầy vọng tưởng đảo điên, phiền não,… buông xả đưa nó trở về trạng
thái an tịnh, thì ngay nơi tâm đó là cõi Tịnh độ, là Tây phương Cực lạc,
là Niết bàn. Khi tâm thanh tịnh, sáng suốt, thường biết rõ ràng, thì
tâm đó đồng tâm Phật, ngay đó mình là Phật rồi thì tìm Phật A Di Đà để
làm gì? Về Tây phương gặp Phật A Di Đà mà không chịu chuyển hóa nội tâm
thì cũng khổ, cũng không thành Phật được, chi bằng ngay đây buông xả,
tinh tấn chuyển hóa thì hết khổ, không phải nhọc nhằn tìm về Tây phương.
Vì mãi lo tìm cầu bên ngoài, lo tu cho bản thân thoát khỏi cõi đời này,
mà thờ ơ với cuộc sống gia đình và xã hội hiện tại, thì làm sao báo đáp
tứ trọng ân… Đạo Phật là đạo giải phóng con người thoát khỏi nô lệ thần
linh, cho dù vị thần linh đó là Trời, Phật hay thánh thần. Phật là đấng
giác ngộ hoàn toàn, Ngài thấy không một vị thần linh nào có quyền năng
ban phước hay giáng họa cho ai cả nên Ngài đã nói “Ta không ban phước
giáng họa cho ai cả, chính các ngươi lãnh lấy cái quả do mình gieo nhân”
và Phật đã dạy “ai tin ta mà không hiểu ta là phỉ báng ta”. Để tìm về
chân hạnh phúc và sự giác ngộ giải thoát Ngài đã dạy“các ngươi hãy tự
đốt đuốc lên mà đi, đốt lên với chính pháp”. Do vậy Phật tử nương lời
Phật dạy mà tu, sẽ không rơi vào mê tín. Phật tử cúng dường Tam bảo hay bố thí cho kẻ nghèo là làm điều thiện, gieo nhân lành nên được quả lành.
Chính phước lành đó có năng lực chuyển hóa nghiệp, cứu chúng ta thoát
khỏi tai ương, nghiệp chướng chớ nào phải do Trời ban, Phật độ hay vị
thần linh nào cứu giúp. Các Phật tử vì không hiểu lẽ thật này nên dễ bị
người lừa gạt, bày lễ cúng để lấy tiền. Chúng ta tự độ, tự ban phước cho
mình, bằng việc làm thánh thiện. Đa phần Phật tử đi chùa hiểu sai ý
nghĩa của sự cúng dường, nên đến chùa chỉ lo lễ lạy, cúng để cầu xin,
nên rơi vào mê tín, không hiểu lễ Phật là để tỏ lòng tôn kính, tạ ơn người đã khai sáng con đường giác ngộ, giải thoát, cứu khổ cho chúng sinh. Khi lễ Phật với tâm như vậy là chính tín, lễ Phật với cầu xin là chưa giác ngộ về Phật pháp. Đạo
Phật là đạo của trí tuệ “Duy tuệ thị nghiệp”. Phật dạy “ở đâu có trí
tuệ là ở đó có hạnh phúc, ở đâu không có trí tuệ là ở đó có đau khổ. Đau
khổ chỉ đến với người ngu chứ không đến với người trí”. Chư Tôn đức
lãnh đạo Giáo Hội PGVN, đa phần tu theo Tịnh độ, nếu các Ngài có chủ
trương kế hoạch khôi phục tinh thần Tịnh độ đời Trần là duyên lành lớn
cho đất nước, cho PGVN. ĐưaTịnh độ VN ở thế kỷ 21 trở về tinh thần Tịnh
độ đời Trần là một cuộc cách mạng Phật giáo vĩ đại, sẽ được lịch sử PGVN
tôn vinh, đã thổi một luồng sinh khí bản sắc Văn hóa PG dân tộc, khế
hợp với chính pháp, với thời đại khoa học kỹ thuật. Từ đó góp phần xây
dựng nền đức lý cho toàn dân, đem lại an ninh trật tự cho xã hội. 2-Mật Tông Trên Tinh Thần Phật giáo đời Trần. Trước
khi tìm hiểu Mật tông thời Trần, chúng ta nên tìm hiểu sơ lược về Mật
tông ở Tây Tạng, để soi rọi lại Mật tông VN. Ở Tây Tạng có 5 Mật tông
chính đó là: 1/
Nyingmapa (phái Ninh Mã, phái Hồng Giáo): được khai sáng do Ngài
Padmasambhava (Đại sĩ Liên Hoa Sanh) là người đem Mật tông từ Ấn độ vào
Tây tạng vào thế kỷ thứ 7 sau TL. 2/
Kadampa (Ca Đương): Do Ngài Atisa vào giữa thế kỷ thứ 9 sau TL, Ngài
dịch rất nhiều kinh Mật tông từ chữ Phạn sang chữ Tây tạng. 3/
Kagyudpa (Cát Cứ hay phái Bạch giáo): Do Marpa Chokyi Lodoe Khai sáng
vào đầu thế kỷ thứ 10 sau TL, đệ tử nối pháp là Milarepa. 4/ Sakyapa (Phái Tát Ca hay phái Đa Sắc): được khai sáng do Ngài Khon Konchok Gyelpo vào đầu thế kỷ 11 sau TL 5/ Gelupa: do Ngài Je Tsongkhapa khai sáng vào đầu thế kỷ 15 sau TL cho đến nay vẫn còn truyền thừa.
Trong
5 tông phái trên chỉ có tông phái Gelupa là các vị xuất gia, 3 tông
phái còn lại Nyingmapa, Kagyupa, Sakyapa thì đa số là các vị cư sĩ nên
xem thường giới luật và thường có vợ con. Phái Nyingmapa chủ trương chỉ
chuyên trì mật chú, dùng Mật thừa Vô thượng Du Già làm pháp cứu cánh,
thì tự nhiên sẽ hiện trí huệ thanh tịnh, khế hợp “lý không” mà giải
thoát. Phái Sakyapa thường dùng phương thức truyền thừa cho vợ con nên
gần thế tục. Tại Tây Tạng ngoài phái Kadampa chỉ chuyên sự giáo hóa, còn
các phái khác thường cấu kết với “hào tộc”, giao thiệp với chính trị,
phát sinh sự lạm dụng thế lực. Phái Sakyapa đã từng nắm chính quyền của
Tây Tạng. Sự quan hệ giữa chính trị và phái Sakyapa rất thâm sâu. Phái
này lấy vợ con làm người kế thừa tự. (Tham khảo Thuvienhoasen.org) Mỗi
tông phái đều có phương pháp tu hành khác nhau theo các kinh Mật tông
khác nhau nhưng tất cả các tông phái đều cùng thực hành 4 bậc Mật tông
đó là: 1/ Lễ Bái Mật Tông, 2/ Nghi Lễ Mật Tông, 3/ Thiền Quán Mật Tông, 4/ Tối Thượng Mật Tông. Hành
giả tu theo Mật tông trước hết phải biết rõ về Lễ bái và Nghi thức của
Mật tông, -tức là phải biết đầy đủ các pháp lạy Sám hối, trì tụng,
phương pháp tu Quán Tưởng Đức Phật Bổn Tôn, biết rõ các Chân ngôn, các
Thủ Ấn, phương pháp tạo hình Mạn Đà La, các nghi thức làm lễ Quán Đảnh,
lễ Cúng dường và các nghi thức khác của Mật tông. Ở Việt Nam nói đến Mật
tông là nói đến Lễ bái và Nghi thức Mật tông, nếu không biết chắt lọc
trên tinh thần giáo lý nhà Phật, bản sắc dân tộc dễ đưa đến mê tín. Giáo lý Mật tông có hai phần Hiển giáo và Mật giáo: - Hiển giáo bao gồm các Kinh, Luật, Luận của Tiểu thừa và Đại thừa. -
Mật giáo là giáo lý chỉ có trong các kinh Mật Tông. Đại tạng Tây Tạng
chứ không có trong Đại Tạng chữ Hán, vì các vị phiên dịch kinh tạng từ
chữ Phạn sang chữ Hán khi xưa không có tu hành theo Mật tông và ngài
Huyền Trang mang về cũng rất ít so với bộ kinh Mật tông hiện có bằng
tiếng Tây Tạng. Mật giáo bao gồm các kinh nói về các phương pháp tu của
Mật tông như: pp Thiền quán Tưởng Đức Bổn Tôn, pp Chuyển Hóa Thân Thành
Thân Bổn Tôn, pp tạo đồ hình Mạn Đà La, pp tự Thọ Quán Đảnh, pp Chuyển
Di Thần Thức, pp Cung Thỉnh Chư Bổn Tôn, pp Câu Triệu và Hàng Phục Thiên
Long Quỉ Thần,…có những vị đạt đến khả năng: bay lên hư không, thiền
tọa ở nhiệt độ dưới 0 độ, cứu người chết sống lại, tái sinh,… Mật
tông được làm hai nhánh Tả phái và hữu phái. Riêng Mật tông tả phái
phát triển nhiều quan điểm, trong đó đáng lưu ý là phái này súng bái các
Sakti, nữ thần về tính dục ( theo Edward Conze). Sau
đây là đoạn văn nói về Mật tông thời Lý Trần ghi trong Việt Nam Phật
giáo Sử Luận của tác giả Nguyễn Lang,( quyển II, trang 54, NXB Cty Văn
hóa Tổng Hợp Q.11, tháng 4/94). “Ta cũng biết rằng Mật giáo nếu không khéo duy trì có thể biến dạng trở thành phù thủy, mê tín, dị đoan.
Cuối đời nhà Lý đạo Phật đã hầu bị biến dạng của Mật giáo làm cho lu mờ
sắc thái. May thay các vị lãnh đạo nhà Trần đã thanh lọc được Phật giáo
và lấy ra hết những hình thái mê tín dị đoan. Phật học của Trần Thái
Tông, Tuệ Trung, Đại Đăng,và Thánh Tông rất thuần túy Thiền học, không
bị mờ ám bởi những hình thức biến dạng của Mật giáo. Đến đời Pháp Loa và
Huyền Quang dưới ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa và tây Tạng, Mật
giáo lại được khôi phục. Cùng với thời đại nhiễu nhương. Mật giáo mau
chóng được biến chất và phủ lên trên sinh hoạt của bình dân một lớp màn
mê tín và dị đoan. Sự phê phán Phật giáo của các Nho gia một phần được căn cứ trên những hình thái sinh hoạt rườm rà ấy của các Phật tử.” Qua
đoạn văn trên đã cho chúng ta biết đầu đời Nhà Lý và nhà Trần thời cực
thịnh của Thiền tông VN thì Mật tông gần như mất dấu, đến thời đất nước
bị nhiễu nhương suy yếu thời Mật tông xuất hiện sử dụng bùa chú, âm binh
để giáo hóa, tiếp độ chúng sinh, nên dễ rơi vào thần quyền mê tín, quên
đi cứu kính giải thoát của đạo Phật. Trong
Mật tông, việc tu tập không thể tự tiến hành theo sách vở mà phải có
một đạo sư đã giác ngộ gọi là “guru” để chỉ dẫn học hành ( “guru” là
người thấu triệt toàn bộ một việc gì). Xét Mật tông Việt Nam không có
đại tạng kinh Tây Tạng, không có vị “guru” hướng dẫn, nên dễ bị biến
dạng thành mê tín với lễ nghi, bùa chú… Trên
tinh thần Phật giáo đời Trần. nếu Mật tông dùng “tam mật tương ưng” để
được nhất tâm và thân tâm an tịnh, nhờ đó tuệ giác phát sinh, đưa đến
giác ngộ giải thoát đúng chính pháp không rơi vào mê tín. Nhưng nếu
không nghiên cứu kỹ, chắc lọc tinh hoa của Mật tông Tây tạng, trên tinh
thần giáo lý đạo Phật, với lý nhân quả, đơn giản nghi lễ phẩm vật cúng
dường theo tinh thần Phật giáo VN (chỉ dùng hương đăng hoa quả), thay
cho phần đốt lương thực, dầu, bơ…, vì chư vị thiện thần đâu có đòi lễ
vật và cõi vô hình hưởng lễ vật từ tâm tưởng của chúng ta, nên chúng ta
mới dùng thần chú biến thực biến thủy để cung ứng đầy đủ cho các vị. Hãy
suy nghĩ thận trọng, nếu không khéo thì chúng ta vừa dạy Phật tử thoát
khỏi tục lệ đốt giấy tiền vàng mã, nay lại rơi vào mê tín đốt lúa gạo,
đổ, ngô, dầu bơ bánh trái… Trên tinh thần nhân quả của đạo Phật, Phật
đâu có dạy đốt lương thực để cầu phước báo. Đem lúa gạo, lương thực cứu
đói người nghèo khổ khiến họ thoát khổ, đó mới là tạo phước điền. Lương
thực là thực phẩm nuôi sống con người, không cứu đói mà đem đi đốt là có
tội hay có phước? Nếu chùa nào mỗi lần cúng cũng đốt lương thực, cũng
chôn lương thực, vô tình mang tội hủy hoại lương thực, làm khan hiếm
lương thực, khiến quần chúng nhân dân tín đò thêm nghèo khổ. Vì mê tín
nên các bộ tộc ngày xưa thường hay giết trâu bò, đôi khi tế sống con
người để cầu thần linh phù hộ, việc làm này các Phật tử ai cũng biết là
mê tín không phù hợp với giáo lý nhà Phật, nên ngày nay không còn các
tục lệ đó các vị thần linh cũng hoan hỉ. Nếu các Ngài không hoan hỉ thọ
nhận thì có đáng cho chúng ta tôn thờ, dâng cúng không? Các bài giảng
của Đức Đạt Lai Lạt Ma không thấy có mê tín, đúng chính pháp nên Ngài
được mọi người tôn trọng. Mục
đích của trì chú hay tụng kinh niệm Phật là để tam nghiệp được thanh
tịnh, là phương pháp tu để “tịnh hóa thân tâm”. Nếu trì chú, niệm Phật,
tụng kinh với tâm cầu phước báo, cầu thần linh gia hộ,…với “nhân” như
vậy thì làm sao được “quả” giải thoát. Đạo Phật là đạo dạy tu trên nhân
quả, các pháp tu của Phật đều hướng đến “tịnh hóa thân tâm” vì “tâm an
thì trí sáng”, nhờ đó tuệ giác phát sinh, đưa đến giác ngộ giải thoát.
Qua phần lịch sử ở trên chúng ta thấy các vua nhà Trần rất sáng suốt khi
bác bỏ đề nghị của các nhà Nho muốn bắt chước Tống Nho thay đổi lễ
nghi, pháp phục. Mỗi nước có lễ nhạc riêng, phép riêng, người ta biết
bảo vệ phát huy cái của người ta, sao mình không biết khéo vận dụng sáng
tạo đưa nghi lễ của mình vào nghi thức. Vừa qua chúng tôi thấy trong
các buổi lễ cúng của Mật tông, cũng thổi tù và, thổi khèn,…âm giai tiết
tấu giống hệt Tây tạng, như thế có nô dịch văn hóa không? Có bảo tồn
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc không? Nếu Mật tông Việt Nam có những
nét đặc thù của văn hóa VN, thì sẽ hòa nhập vào cộng đồng PGVN, sẽ được
mọi người trân trọng, nếu chỉ biết bắt chước lễ nghi của người mà không
chắc lọc thì sẽ khó phat triển. Trong vấn đề giao lưu văn hóa chúng ta
có quyền tiếp thu văn hóa của người để làm giàu cho kho tàng văn hóa của
mình nhưng phải chắc lọc trên tinh thần đạo pháp và dân tộc. V.- PHẦN KẾT : Bài
này được viết cho buổi Hội thảo về “BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA
CỦA MỘC BẢN CHÙA VĨNH NGHIÊM –BẮC GIANG, ngày 22/6/2012, vì có một số
báo, đài xin đăng, nên chúng tôi có chỉnh sửa và bổ sung thêm phần Mật
Tông Tây tạng. Trên đây là ý nghĩ cá nhân muốn đóng góp với Ban Tổ chức
Hội thảo, những người có tâm huyết muốn khôi phục lại “tinh thần Phật
giáo đời Trần”. Vẫn biết Phật pháp vô biên, chúng sinh có 84.000 phiền
não, thì Phật có 84.000 pháp môn để trị tâm bệnh cho chúng sinh. Phật
pháp thì hòa đồng không có ranh giới phân chia Phật giáo nước này với
nước khác, hay tông phái này tông phái kia… Tất cả đều cùng chung một vị
là giải thoát. Tuy nhiên khi du nhập vào nước nào với tinh thần khế lý,
khế cơ, Phật giáo hòa nhập vào phong tục tập quán của nước đó để hoằng
truyền Phật pháp, giáo hóa chúng sinh. Từ đó tạo thành đặc thù bản sắc
văn hóa PG riêng của mỗi nước, nên có PG Tây Tạng, PG Trung Hoa, PG Nhật
Bản, PG Thái Lan, còn PGVN như thế nào? Chẳng lẽ không có… do vậy bài
viết này dựa vào sử liệu và hành trình của chư vị Tổ sư Việt Nam mà mạo
muội nhận xét, nêu ý kiến và đề nghị. Nếu ai thấy khế hợp, thì tự mình
cất bước đăng trình. Nếu thấy không đồng quan điểm thì bài viết này chỉ
có có giá trị là một bông hoa nhỏ trong vườn hoa muôn sắc của PGVN. Theo
thiển ý của cá nhân vườn hoa PGVN thì phải có hương có sắc PGVN, đó là
tinh hoa Phật giáo đời Trần. Do vì vụng về, yếu kém, tư duy còn thiển
cận, cũng vì nhiệt tình với Tổ quốc Viêt Nam, nếu có điều gì xúc phạm
kính xin chư Tôn đức niệm tình tha thứ. Nam Mô Hoan Hỉ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát!
MINH ĐẠO |