Tuy nhiên sau đó
vào năm 1979, Đặng Tiểu Bình đã thực hiện một chính sách cải tổ kinh tế
và hiện đại hoá, mở cửa với thế giới - một chính sách đưa đến sự tăng
trưởng kinh tế nhanh chóng, giúp Trung Quốc trở thành một năng lực kinh
tế mạnh mẽ của thế giới và sau đó gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
vào năm 2001. Trong suốt thời kỳ cải cách thị trường đó, Phật giáo đã có
sự hồi sinh rõ rệt. Theo ước tính, cuối năm 2003, có hơn 13,000 chùa
viện đã được đưa vào sinh hoạt trở lại. Hội Phật giáo Trung Quốc ước
tính rằng hiện có khoảng 180,000 tăng ni ở Trung Quốc. Trong số này,
120,000 thuộc các tổ chức Phật giáo Tây Tạng và hầu hết đều ở Tây Tạng,
cũng như những khu vực thuộc Tây Tạng ở Tỉnh Tứ Xuyên và Thanh Hải.
Trung Quốc cũng có khoảng 8,000 tăng sĩ theo Phật giáo Theravada, hầu
hết sống ở miền Nam tỉnh Vân Nam. Phần lớn trong số 50,000 ngôi chùa là
thuộc Phật giáo Đại thừa, rãi khắp Trung Quốc. Trong số 34 trường Phật
học thì có đến 26 trường thuộc truyền thống Phật giáo Đại thừa Trung
Quốc, sáu trường thuộc các tổ chức Tây Tạng, và hai trường thuộc truyền
thống Theravada. Chính sách vô thần không khoan nhượng tôn giáo dường
như đang dần được nới lỏng, và các Phật tử đang đón nhận một thời kỳ
phục hoạt và hồi sinh.
Trong
khi hoàn cảnh chính trị mà những Phật tử Trung Quốc hứng chịu đã được
nới lỏng đáng kể trong 20 năm qua, các hội Phật giáo Trung Quốc hiện giờ
đang đối mặt với những thách thức khốc liệt do cải cách thị trường,
hiện đại hoá và mở cửa kinh tế gây ra. Từ một cái nhìn từ bên ngoài,
dường như rằng các chùa viện bây giờ đang đóng chức năng như “những cổ
máy làm tiền”, và cạnh tranh trong những lĩnh vực kinh tế quốc doanh và
tư nhân nhằm tìm lấy lợi tức cần thiết để tiếp tục sự vận hành của
chúng. Từ cái nhìn bên trong Phật giáo, cho thấy rằng nhiều tăng ni đã
dành quá nhiều thời gian và năng lực vào việc kiếm tiền, và dành quá ít
thời gian, hoặc không có thời gian để tu học và giảng dạy Phật pháp.
Theo Triệu Phác Sơ (赵朴初), cựu chủ tịch Hội Phật giáo Trung Quốc:
“Một
số người không kiên định với tôn giáo của họ, xem nhẹ giới luật và tu
tập. Những người này đang săn đuổi tiền tài và danh vọng, sống một đời
sống xa hoa và đồi bại. Nếu điều này tiếp tục không được ngăn chặn, nó
chắc chắn làm nguy hại đến tiền đồ Phật giáo.”
Trong
suốt thời kỳ Cách mạng Văn hoá, các tăng ni đã kiên tâm bảo vệ tôn giáo
của mình, chống lại sự đàn áp thô bạo của chính quyền. Ấy vậy nhưng,
ông Triệu cho rằng, động cơ kiếm tiền hiện nay có khả năng gây ra sự suy
đồi và tổn hại mà nó sẽ kéo dài nhiều thế hệ.
Căn
cứ vào chuỗi sự kiện được mô tả ở trên, Phật giáo Trung Quốc hiện đang
đối mặt với bốn câu hỏi then chốt: (1) Phật giáo Trung Quốc đang đi về
đâu? (2) Các tăng ni có thể đề kháng lại sự suy đồi do chủ nghĩa vật
chất gây ra bằng cách nào? (3) Các tăng ni có thể bảo vệ sự thuần khiết
và thiêng liêng của Phật giáo và duy trì các truyền thống của mình bằng
cách nào? và (4) Các tăng ni có thể truyền bá giáo pháp của đức Phật và
làm lợi ích xã hội bằng cách nào? Bài viết này giải thích bối cảnh và
chức năng kinh tế thị trường ở Trung Quốc, và sự tác động của nó vào
Phật giáo Trung Quốc. Bài viết cũng khảo sát hướng phát triển của Phật
giáo ở Trung Quốc và những giải pháp thực tế mà các Phật tử hiện đang
thảo luận.
Thực trạng kinh tế của các chùa viện ở Trung Quốc
Theo
truyền thống, các chùa viện (ở Trung Quốc) có thu nhập từ bốn nguồn
chính: (1) cho thuê đất; (2) cho thuê nhà và các bất động sản mà các tự
viện sở hữu; (3) những thu nhập từ việc đáp ứng các nghi lễ tôn giáo và
từ các lễ hội, cũng như thuyết pháp và những phục vụ tôn giáo khác; và
(4) cúng dường từ tín đồ. Thời trước, nguồn thu nhập chính của nhiều tổ
chức Phật giáo không phải từ những địa điểm du lịch bề thế (hoành
tráng), mà từ đất đai của họ. Nhưng như Holmes Welch giải thích, bắt đầu
từ thời điểm của những người chống tôn giáo đầu tiên vào năm 1922, cho
thấy đã gia tăng khó khăn cho các chùa viện để thu tiền từ việc cho thuê
mướn, khi những người thuê không muốn hoặc không thể trả. Ông kết luận
rằng tình trạng kinh tế của hầu hết các chùa viện trong nửa đầu thế kỷ
20 đã bị suy thoái một cách đáng kể khi những luật lệ của nhà Thanh mà
chúng ủng hộ những chủ đất dần dần thiên về ủng hộ những người thuê
mướn, dưới những cải cách của thời kỳ Cộng hoà. Điều này buộc các chùa
viện tìm đến các đoàn thể cư sĩ Phật giáo để tìm nguồn thu thay thế.
Trong
suốt thời kỳ cải cách ruộng đất của đảng Cộng sản vào những năm thập
niên 50 thế kỷ trước, đất đai do các chùa viện sở hữu đã bị nhà nhước
chiếm dụng. Đầu thập niên 80, khi nhà nước bắt đầu hoàn trả lại tài sản
cho các tổ chức Phật giáo, trong thực tế có rất ít đất đai trước đó được
hoàn trả. Trong hầu hết các trường hợp, chỉ những nhà cửa và những khu
đất mà những ngôi nhà đó toạ lạc được hoàn trả. Điều này có nghĩa rằng
những cơ hội hiện nay để các chùa viện thu nhận lợi tức từ những tài sản
thực của họ là rất giới hạn. Thêm nữa, do vì sự tác động một thời gian
dài của những chính sách vô thần, những sinh hoạt Phật giáo tại gia đã
suy yếu, và rất ít người công khai thừa nhận họ là Phật tử. Do đó, thu
nhập từ những công việc như đáp ứng nghi lễ và thuyết pháp cũng bị giới
hạn. Vấn đề thứ ba là giới tăng sĩ ở Trung Quốc bị cấm ra đường khất
thực, không giống như trường hợp ở các quốc gia Phật giáo Tích Lan và
Thái Lan. Tin vui là ngày nay các Phật tử được quản lý những khu nhà và
được phép thực hiện các dịch vụ; tin buồn là họ hầu như không có tiền để
triển khai những thứ họ có. Do đó ưu tiên cấp bất đối với hầu hết các
chùa viện là tìm mọi cách tạo nguồn thu nhập. Các chùa viện như vậy đang
cố gắng tự lập về mặt kinh tế và để giảm thiểu sự phụ thuộc vào sự kiểm
soát của nhà nước. Vấn đề là thực hiện điều đó bằng cách nào trong khi
đồng thời duy trì được đặc tính riêng của Phật giáo.
Vào
dịp kỷ niệm lần thứ 30 của Hội Phật Giáo Trung Quốc, Triệu Phác Sơ, cựu
chủ tịch của Hội, chủ trương rằng các tự viện nên duy trì một sự cân
bằng giữa “thực hành thiền và sản xuất nông nghiệp” để đẩy mạnh sự tự
lập kinh tế. Ông đã định nghĩa việc thực hành thiền một cách bao quát,
bao gồm nghiên cứu Phật học, tu học và giảng dạy; và hoạt động nông
nghiệp là bất cứ hoạt đông sản xuất hay phục vụ nào mà nó làm lợi ích
cho xã hội. Sau Cách mạng Văn hoá, điều đó đã chứng minh là một phương
cách hữu hiệu đối với các chùa viện để khôi phục lại theo hệ thống kinh
tế mới. Các chùa viện như vậy đã phát triển hệ thống kinh tế của chính
nó, được xem như là “kinh tế chùa viện.”
Hiện
tại, hầu hết các chùa viện tọa lạc ở những thành phố lớn và những địa
điểm du lịch chính chúng trở thành những trung tâm dành cho các hoạt
động du lịch. Có nhiều ngôi chùa như vậy, chẳng hạn như chùa Pháp Nguyên
(法源寺) ở Bắc Kinh, có lợi thế của một ngàn năm lịch sử; những chùa khác
như chùa Bao Công (包公寺) ở Tứ Xuyên và Cung điện Potala ở Tây Tạng, sở
hữu những bộ sưu tập đồ sộ về những vật thể lịch sử quý giá. Còn có
những địa điểm khác, chẳng hạn như những ngôi chùa toạ lạc trên Núi Nga
My (峨嵋山), hưởng được phong cảnh tuyệt vời mà nó lôi cuốn hàng triệu
khách du lịch mỗi năm. Bên cạnh đó còn có nhưng ngôi chùa tổ khác mà
chúng đã đóng một vài trò quan trọng trong lịch sử Phật giáo – ví dụ như
chùa Tê/Thê Hà (栖霞寺) ở Nam Kinh, mà nó là ngôi tổ đường của Tam Luận
tông. Tất cả những chùa viện này đều nổi tiếng thế giới và cuốn hút một
lượng du khách đáng kể, cũng là những địa điểm tôn giáo quan trọng.
Nhiều chùa viện tự chúng mở cửa đón du khách như là những địa điểm du
lịch Phật giáo để tạo nên nguồn thu nhập và để hỗ trợ phát triển kinh tế
địa phương.
Tuy
nhiên, song song với việc gia tăng lượng khách du lịch, các ngôi chùa
đã bắt đầu lệ thuộc vào các dịch vụ kinh tế mà chúng được gọi là “những
hoạt động công nghệ thứ ba”. Những hoạt động này bao gồm mở các nhà hàng
chay, xây dựng các toà nhà trưng bày, cửa hàng lưu niệm, trà quán, quầy
thực phẩm, tiệm chụp hình, và thậm chí khách sạn. Kết quả là, thu nhập
của các chùa viện đã gia tăng đều đặn mỗi năm từ khi những chính sách về
tự do kinh tế và tôn giáo được thực thi. Ví dụ, vào năm 1985, chùa Tây
Viên (西園寺) ở Tô Châu đã kiếm được hơn một triệu Nhân dân tệ từ những
hoạt động kinh tế của nó, mà nó bao gồm nhà hàng chay, các quầy bán
nhang đèn, và một cửa hàng lưu niệm. Xin dẫn một trường hợp khác, tổng
thu nhập của tu viện trên Cửu Hoa Sơn (九華山) ở tỉnh An Huy tăng từ dưới
100 ngàn Nhân dân tệ vào năm 1979 lên đến gần 10 triệu Nhân dân tệ vào
năm 1992 (Thông tin từ Hội Phật giáo Trung Quốc, 2003).
Các
chùa viện ở những khu vực xa xôi cũng tham gia vào công việc kiếm tiền.
Điều được gọi là những hoạt động “công nghệ thứ ba” của họ bao gồm
trồng cây và trồng rừng, in ấn và bán kinh sách, làm vườn, thành lập
những phòng khám chữa bệnh, những cửa hàng tạp hoá, điều hành dịch vụ
vận tải cùng các loại dịch vụ khác. Lấy ví dụ chùa Trung Hoa (中华寺) ở
Tỉnh Phúc Kiến, mà nó là một ngôi chùa nhỏ với khoảng 50 vị tăng. Khởi
đầu vào năm 1981, nó cho thuê ba ngàn mẫu đất cho việc trồng trọt, trong
số đó 9 mẫu dành trồng ngũ cốc, 120 mẫu dành cho trồng cây, 6 mẫu trồng
trà, và số còn lại trồng cây ăn trái. Đến năm 1985 nó thu vào một nguồn
lợi tức bao gồm 7,500 kg ngũ cốc, 300 kg trà, và 15,000 kg trái cây.
Sau đó nó mở rộng thêm những hoạt động khác, bao gồm một phân xưởng may
mặc, cửa hiệu, phòng khám chữa bệnh và một nhà máy gạch. Trong vòng một
vài năm, chùa đã đạt được một doanh thu lớn. Nhờ đó nó xây được một Pháp
đường (法堂) lớn, một bãi đậu xe, một phòng đọc kinh và các tăng phòng,
mà tất cả đều được trang bị hệ thống điện nước đầy đủ (Thông tin từ Hội
Phật giáo Trung Quốc, 1993).
Sự
phát triển kinh tế nhanh chống này đã giúp cho các chùa viện không chỉ
trở nên tự lập về mặt kinh tế, mà cũng khởi đầu cho những đề án phúc lợi
xã hội ở một phạm vi rộng lớn. Ví dụ, các chùa viện ở tỉnh Quảng Đông
đã chi hơn 118 triệu Nhân dân tệ cho hoạt động phúc lợi xã hội giữa các
năm 1993-2002. Nổi bật trong số các chùa viện, chùa Nam Phổ Đà (南普陀寺)
ở Hạ Môn đã đóng góp một khoản tiền đồ sộ 17,426,315 Nhân dân tệ cho
những người nghèo khó giữa các năm 1994-2002 (Thông tin từ Hội Phật giáo
Trung Quốc, 1993).
Sự
phát đạt và tương đối độc lập kinh tế của các tự viện đã đóng góp nhiều
cho sự phát triển của họ trên một phần tư thế kỷ qua. Tự lập kinh tế đã
cải tiến đời sống tăng lữ, giúp trùng tu các chùa viện và đóng góp phúc
lợi chung cho xã hội Trung Quốc. Tuy nhiên, việc trở nên giàu có cũng
mang theo nó những nguy cơ mà chúng thách thức chính sự tồn vong của
Phật giáo Trung Quốc.
Tác động của Kinh tế thị trường vào Phật giáo
Những
vấn đề liên quan đến sự tác động của kinh tế thị trường vào Phật giáo
có thể được chia thành hai loại. Loại thứ nhất có thể được gọi một cách
khái quát là những vấn đề ngoại tại mà chúng phát sinh khi những viên
chức nhà nước - đặc biệt là những quan chức địa phương có chức vụ thấp –
xâm phạm vào các quyền lợi của chùa. Các chùa viện giàu có trở thành
nạn nhân, điều thường xuyên xảy ra, và nó tạo nên một vấn đề khá nghiêm
trọng ở một vài khu vực. Về loại vấn đề thứ hai, nó liên quan đến những
bất đồng nội tại mà chúng phát sinh khi nhà nước trả lại tài sản cho các
chùa theo chính sách tự do tôn giáo vào năm 1979.
Lấy
ví dụ trường hợp của chùa Tướng Quốc (相国寺) ở Khai Phong, tỉnh Hà Nam,
một trong mười ngôi chùa nổi tiếng nhất, mà được biết từ lâu như là
“tuyệt vời nhất dưới bầu trời.” Chùa được xây dựng lần đầu vào năm 555
(TL), và đạt đến đỉnh điểm thịnh vượng của nó vào đời Bắc Tống
(960-1126). Ngôi chùa bao gồm một khu đất rộng vào khoảng 34 mẩu, với 64
thiền đường và nhà bố-tát. Nó đã có mối liên giao với Nhật Bản từ rất
sớm. Sau Cách mạng Văn hoá, Kim Diễm (金焰1892-1991),
chủ tịch Hội Phật giáo Tỉnh Hà Nam, đã khẩn khoản yêu cầu những cơ quan
công quyền liên quan hãy giao nó lại cho Phật giáo. Tuy nhiên những nỗ
lực của ông đã bất thành. Vào năm 1991, ông qua đời ở tuổi 99 trong căn
nhà của một nông dân nghèo.
Khi
những phái đoàn Phật giáo Nhật Bản mong muốn viếng thăm Chùa Đại Tướng
Quốc vào năm 1988, một viên chức địa phương gửi một điện thư nói rằng,
“Các vị được hoan nghênh thăm viếng Chùa Tướng Quốc như là những người
tham quan thông thường, mà không phải là những Phật tử hành hương, vì
các hoạt động tôn giáo không được phép ở đó (Thông tin từ hội Phật giáo
Trung Quốc, 1988). Điều này tạo nên một ấn tượng xấu đối với nước ngoài,
mà nó gây áp lực đối với những người nắm quyền. Sau đó, Triệu Phác Sơ,
cựu chủ tịch của Hội Phật Giáo Trung Quốc, khẩn khoản yêu cầu Giang
Trạch Dân, bấy giờ là chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, hãy trả
nó lại vì sự phát triển của chùa Đại Tướng Quốc. Cuối cùng nó đã được
trả lại cho Tăng đoàn vào năm 1992 (Thông tin của Hội Phật giáo Trung
Quốc, 1992). Lý do của việc trì hoàn hẳn liên quan đến số tiền khổng lồ
mà việc bán vé vào cửa đem lại. Đó là chính xác tại sao nhiều ngôi cổ
tự, một số hơn một ngàn năm tuổi, bị biến thành những địa điểm du lịch
hấp dẫn. Nhiều chùa viện ở Bắc Kinh nằm trong số này, chẳng hạn như chùa
Giới Đài (戒台寺), chùa Ngọa Phật (臥佛寺) và chùa Bích Viên (碧園寺). Một số
chùa vẫn chưa được trao trả lại cho các Phật tử, bất chấp sự thật rằng
số lượng Phật tử ở Trung Quốc đang gia tăng nhanh chóng và các địa điểm
dành cho các hoạt động Phật sự là rất ít và xa.
Tình
huống nan giải khác xảy ra với một vài ngôi chùa mà chúng đã được trả
lại cho các tổ chức Phật giáo. Trong những trường hợp này, một số chùa
chiền vẫn còn được xem như là những địa điểm du lịch hấp dẫn và là những
cỗ máy làm tiền. Một số cá nhân dường như đang điều hành chùa chiền
chính yếu vì mục đích kinh tế, gây nên những khó khăn cho các Phật tử
thăm viếng vì nhu cầu tâm linh thực sự. Xin đưa ra một ví dụ từ kinh
nghiệm của chính bản thân tôi. Vào tháng 6-1993, tôi viếng thăm một ngôi
chùa tổ của Phật giáo Thiền, chùa Thiếu Lâm (少林寺), ở trên Núi Tung. Tại
chân Núi Tung, ở một quầy vé, người ta yêu cầu tôi mua vé vào cửa. Tôi
giải thích rằng tôi là một tăng sĩ, nhưng điều đó không thành công. Một
người đàn ông trông rất nóng nảy đã nói, “Ông phải trả tiền để vào cổng,
không cần biết ông là ai. Đó là quy định.” Tôi xem điều này là một sự
sỉ nhục khi một vị tăng phải mua vé để quay trở về ngôi chùa tổ của
mình!
Một
trường hợp khác là Chùa Phổ đà (普陀寺) ở Tỉnh Chiết Giang, mà nó toạ lạc
trên một ngọn núi nổi tiếng khác của Trung Quốc. Danh tiếng của nó bắt
nguồn từ Phật giáo, và nó thực sự là một danh lam nổi tiếng khắp thế
giới. Tuy nhiên, hầu hết thu nhập có được do việc bán vé vào cửa đều
tuôn hết vào túi các quan chức chính quyền, những người quản lý khu vực
danh lam. Những điều tương tự như vậy đang xảy ra nhiều nơi khác ở Trung
Quốc.
Từ
cái nhìn Phật giáo, chúng ta có thể nói rằng sự phát triển kinh tế
thiên lệch trong nhiều chùa viện đã khiến chúng đánh mất đi những đặc
tính Phật giáo của chúng. Theo tôi biết, các du khách nhận thấy rằng cho
dù chùa viện được phát triển nhanh chóng, ở đó lại thiếu đi nét đặc
biệt. Các chùa viện nói chung thường mở các nhà hàng chay, nhà nghỉ, cửa
hàng lưu niệm, và tiệm ăn uống giải khát. Một vài thậm chí còn mở nhà
máy và điều hành công ty. Sự tác động lâu dài là, kinh tế thị trường
đang làm tổn hại nghiêm trọng bản chất tôn giáo của các chùa viện. Mỗi
khi các chùa viện trở thành các cơ sở kinh doanh ở quy mô lớn, thì rất
khó cho họ rút ra khỏi (những hoạt động kinh doanh đó). Và mỗi khi các
chùa viện trở thành những nơi chốn chính yếu dành cho du lịch, nguy cơ
là năng lực của các tăng ni chính yếu phục vụ cho việc tiếp đón khách du
lịch, không còn thời gian dành cho tăng đoàn hay để tu tập.
Ngày
càng nhiều người nước ngoài viếng thăm Trung Quốc mà nó là một kết quả
của những cải cách nội địa gần đây và sự mở cửa tăng dần của đất nước
với thế giới bên ngoài. Bên cạnh, nhiều người Trung Quốc bây giờ có đủ
sức để đi du lịch bởi vì tiêu chuẩn sống ở Trung Quốc đã được cải thiện
một cách đáng kể. Nhiều người bây giờ dành thời gian trong suốt kỳ nghỉ
của họ để viếng thăm các ngôi chùa và tổ đường ở những ngọn núi nổi
tiếng. Ví dụ, Ngũ Đài Sơn (五台山), một ngọn núi Phật giáo nổi tiếng, đã
hấp dẫn nhiều du khách và người hành hương từ Trung Quốc và quốc tế.
Lượng du khách từ Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan (viếng thăm Ngũ Đài Sơn)
tăng từ 1,200 vào năm 1985 lên đến 1,600 vào năm 1986, và 1,900 vào năm
1987; lượng du khách nội địa cũng tăng theo tỉ lệ tương tự, từ 200,000
vào 1985 đến 240,000 vào 1986, và 330,000 vào 1987. Thời điểm vào năm
1987, có 160 vị tăng được đưa đến chùa. Sau khi dành hết thời gian và
năng lực để tiếp đón khách du lịch, họ không còn chút thời gian nào để
tu học.
Phương Lập Thiên (方立天) Đã nhận xét:
Thứ
nhất, mỗi khi các tăng ni đã tham gia vào những hoạt động kinh tế, điều
này sẽ đưa đến những thay đổi khách quan lối sống của họ. Thứ hai,
những khoá tu học Phật pháp đã suy giảm ở mức độ lớn và thường xuyên. Ví
dụ, ở các chùa Tây Tạng, ở đó từng có hơn 30 sinh hoạt tu học mỗi năm,
và mỗi lần kéo dài vào khoảng 7 ngày, thì bây giờ những sinh hoạt tu học
đã bị giảm xuống còn vào khoảng hai hoặc ba lần mỗi năm, mỗi lần kéo
dài 5 ngày. Cải tổ kinh tế ở Trung Quốc cũng tạo nên một tình huống
tương tự đối với các Phật tử tại gia. Bận rộn với sản xuất kinh tế và
thương mại, các Phật tử tại gia không còn thời gian tham gia vào những
sinh hoạt Phật giáo và rồi niềm tin vào đạo trở nên rất mỏng.
Vấn
đề nghiêm trọng nhất chắc phải liên quan đến các tăng ni mà mục đích
xuất gia của họ là thực hiện cúng đám để kiếm tiền. Ở một vài nơi, người
ta gửi con cái vào chùa vì mục đích duy nhất là để học nghi lễ như một
thứ kỷ năng để kiếm tiền. Những cuộc điều tra không chính thức cho biết,
một số tăng sĩ trẻ xem việc nghiên cứu Phật học là hoang phí thời gian,
trong khi xem việc học nghi lễ để cúng đám là thực tiễn!. Điều này góp
phần thêm cho vấn đề thiếu nhân lực đang tồn tại ở trong Phật giáo.
Việc
quá nhấn mạnh vào phát triển kinh tế của các chùa viện đã tạo nên một
sự tác động to lớn vào Phật giáo Trung Quốc. Một mặt, nó đã cải tiến
được cơ sở hạ tầng và thu nhập cho các tự viện, cũng như gia tăng vị trí
xã hội và giá trị của Tăng đoàn. Nhưng mặt khác, nó gây nên một sự suy
thoái ở trong chính Phật giáo bởi vì đã đưa chùa viện ra xa những thực
hành Phật giáo, và hướng chúng đến công việc kinh doanh kiếm tiền thế
tục. Đây là một thách thức nghiêm trọng mà các Phật tử Trung Quốc hiện
nay đang đối mặt.
Cải cách nghiên cứu Phật học ở Trung Quốc
Về
phương diện lịch sử, ở Trung Quốc, Đạo Phật cho thấy đã có sự khác nhau
trong nội dung và pháp môn tu học vào những thời kỳ lịch sử khác nhau.
Đức Phật được nói là đã đạt được giác ngộ dưới cội Bồ đề với việc nhân
ra “Niết-bàn diệu tâm” mà nó phi sắc tướng. Do đó, giáo pháp đức Phật
siêu việt những giới hạn suy nghĩ, ngôn từ, sắc tướng và sự miêu tả thế
tục: nó không thể nắm bắt được bằng ngữ ngôn, hay dễ dàng truyền trao
đến những người mà tâm thức còn đầy dẫy những tham, sân, si và những
tham muốn tiêu cực. Đức Phật bắt đầu giảng dạy giáo pháp sau khi có lời
thỉnh cầu mong giáo pháp được truyền bá để giải thoát khổ đau của chúng
sanh, và như vậy mục đích chính của giáo pháp là để giải thoát con người
khỏi vòng sanh, lão, tử và khổ. Do đó, đặc tính quan trọng của giáo
pháp đức Phật là sự nhấn mạnh vào việc phân tích thế giới hiện tượng và
những phương pháp thực hành cho việc đoạn trừ khổ đau, thay vì chỉ
nghiên cứu triết học trừu tượng. Mục đích là để giúp chúng ta nhận thức
được bản chất thật của khổ, sự cần thiết và tính khả thi của việc giải
thoát ra khỏi khổ đau ấy. Do đó, chúng ta có thể nói rằng người Phật tử
nên được hướng đến những ứng dụng thực tiễn, chứ không phải là những lý
thuyết suông.
Tuy
nhiên, tình trạng lịch sử Phật giáo ở Trung Quốc đã tạo dấu ấn bằng
việc chuyển dịch kinh điển và thiết lập tông phái tập trung vào những
dòng truyền của các tổ sư, những người chuyên vào một vài bộ kinh nào đó
và những học thuyết mà họ đã truyền trao…
Giáo
thuyết và những pháp môn tu tập của các bộ phái do các vị thầy và tổ sư
khác nhau giảng dạy đều được đặt cơ sở trên những gì đức Phật đã dạy,
đáp ứng nhu cầu của những hạng người khác nhau vào những thời điểm lịch
sử khác nhau. Đó là căn nguyên của sự sai khác nơi những giáo thuyết
được thực hành trong suốt những thời kỳ lịch sử cụ thể. Một bộ phái có
những diễn đạt riêng của nó, khớp với những nhu cầu của thời đại; và mỗi
bộ phái dần dần trở thành một truyền thống. Tuy nhiên, bất cứ bộ phái
nào tuyên bố rằng mình là chân lý tuyệt đối, là phổ quát và vĩnh cữu,
thì đang xuyên tạc cái nhìn đầu tiên của đức Phật: rằng giáo lý phải
linh động và khế hợp với những nhu cầu và những căn cơ khác nhau.
Những
Phật tử Trung Quốc hiện thời đang sống trong bóng tối của những tranh
luận. Nhiệm vụ của họ là chọn lựa trong số di sản đồ sộ của các trường
phái khác nhau của Phật giáo Trung Quốc, những gì là thích hợp để đổi
mới Phật giáo và thích ứng nó với bước tiến nhanh chóng của sự phát
triển xã hội. Đó là một nhiệm vụ phức tạp và quan trọng. Phật giáo đáp
ứng được nhu cầu xã hội chỉ khi nó xác định được vị trí của nó bằng việc
thích ứng sức mạnh của nó với những hoạt động hàng ngày trong cuộc
sống. Phật giáo không thể tồn tại và phát triển nếu nó không được xã hội
thừa nhận và kính trọng. Phật giáo cần được áp dụng vào trong tất cả
mọi lĩnh vực xã hội, để giải thoát cá nhân và cuộc đời. Vậy thì các Phật
tử đang dấn thân thế nào trong bối cảnh tôn giáo Trung Quốc hiện nay?
Ở
Trung Quốc ngày nay, điều dễ thấy là chủ nghĩa vật chất đang lên ngôi
và đời sống tâm linh thì cạn mỏng. Ở các trung tâm thành phố, các khu
mua sắm là vua. Và như các nhà sách Trung Quốc chứng nhận, người ta bây
giờ đang tìm kiếm một chiều hướng tâm linh cho đời sống. Tác gia danh
tiếng John Naisbitt nói nơi quyển sách Megatrends (1982) bán chạy của
ông rằng sự phát triển tâm linh thì không chỉ là một công việc thức thời
của Thời đại mới; nó là một sự giáo dục mà xã hội ngày nay cần đến để
làm thăng bằng tình trạng chông chênh mà người ta nhận lãnh như là một
kết quả của sự phát triển quá mức về công nghệ cao và kỹ thuật tự động.
Các cuốn sách do những tác giả Tây phương viết về những đề tài phát
triển tâm linh và sự tỉnh thức bây giờ là những cuốn sách bán chạy ở thị
trường Trung Quốc.
Điều
này không chỉ là một khuynh hướng ở nơi văn hoá quần chúng; nó cũng là
một khuynh hướng đang được thừa nhận trong giới Phật giáo. Thông qua
việc chuyển dịch những quyển sách nổi tiếng của những tác giả Tây
phương, người Trung Quốc bây giờ đang tái khám phá những khía cạnh của
giáo lý Phật giáo truyền thống, chẳng hạn như chánh niệm, quán niệm hơi
thở, từ bi và trí tuệ. Thêm nữa, những đại học lớn và những trung tâm y
học ở châu Âu và Bắc Mỹ đang tích cực nghiên cứu về thiền, tâm lý liệu
pháp và sinh học thần kinh của Phật giáo. Trớ trêu thay là phải thông
qua việc ứng dụng thiền Phật giáo của Tây phương mà người Trung Quốc
ngày nay mới chịu chấp nhận lịch sử tôn giáo của chính họ (!). Điều này
đã phục hồi lại việc nhấn mạnh vào Phật giáo thực hành, một Phật giáo
nhập thế mà nó tìm cách áp dụng Phật giáo vào đời sống hàng ngày và giải
quyết những vấn đề thực tại của người Trung Quốc ngày nay.
Việc
nhấn mạnh vào công ích xã hội và lợi ích tinh thần hiện đang được chính
quyền Trung Quốc ủng hộ. Cựu chủ tịch Giang Trạch Dân đã chủ trương
việc sử dụng đạo đức như là một phương tiện chính trị. Và đạo đức Phật
giáo với một lịch sử dài lâu của nó, có thể góp phần chữa trị những căn
bệnh xã hội và chăm sóc một đời sống hạnh phúc, lành mạnh. Nhiệm vụ dành
cho các tăng ni hiện nay là phát triển một phương thức đạo đức mới để
phục vụ thế giới hiện đại, giải quyết những vấn nạn xã hội mà chúng xuất
hiện do sự phát triển kinh tế nhanh chóng gây ra. Các Phật tử xem tài
sản như thế nào? Người ta có thể cân bằng lợi ích kinh tế và sự phát
triển tâm linh bằng cách nào? Quan điểm của Phật giáo về chiến tranh và
hoà bình là gì vào thời điểm đầy bạo loạn và khủng bố hiện nay? Tóm lại,
các Phật tử cần tìm cách đổi mới giáo lý của tôn giáo họ để phục vụ con
người.
Tăng đoàn trong xã hội Trung Quốc
Tình
trạng kinh tế của các cộng đồng tăng sĩ Trung Quốc đã khiến nhiều thành
viên của tăng đoàn dành hết năng lực của họ cho việc phát triển kinh
tế, tạo thu nhập cho các chùa viện. Không có nhiều thời gian cho việc
giảng pháp và thiền định, dẫn đến những chức năng tôn giáo then chốt của
chùa viện đang ở trong nguy cơ trở thành chỉ để làm cảnh. Trong thực
tế, vấn đề về mối liên hệ thích hợp giữa cộng đồng tăng sĩ Phật giáo và
xã hội rộng lớn hơn là không mới; nó đã là chủ đề được bàn luận suốt
theo lịch sử Phật giáo. Đối với Phật giáo Trung Quốc, chức năng đúng của
cộng đồng tăng lữ được tóm tắt bằng câu “cân bằng giữa nông nghiệp và
thiền định,” mà nó xuất phát từ ngài Mã Tổ (媽祖700-788) đời nhà Đường. Mã
Tổ đề xướng quan niệm về việc cân bằng những hoạt động nông nghiệp với
việc thực hành thiền khi ngài cho kiến tạo các tự viện ở trong rừng. Đệ
tử của ngài là Bách Trượng Hoài Hải (百丈懷海720-814) đã bổ sung thêm quan
niệm đó với một câu nói nổi tiếng, “một ngày không làm, một ngày không
ăn” (nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực).
Quan
niệm rằng lao động chân tay – thêm vào việc thực hành thiền định – là
một phương tiện cần thiết cho thân và tâm, do đó là không mới với Phật
giáo trong thời kỳ hiện đại. Tuy nhiên, có thể nói rằng sự thực hành
hiện này về việc “cân bằng nông nghiệp với thiền định” đã chệch ra khỏi
mục đích căn bản là giúp thiết lập một môi trường tốt hơn ở trong các tự
viện mà ở đó chính yếu dùng để giảng dạy Phật pháp. Đáng tiếc, rõ ràng
rằng một vài cộng đồng tăng sĩ ngày nay coi trọng nông nghiệp và lợi tức
hơn là tu tập thiền định. Các chùa viện bây giờ đang tham gia tích cực
vào quy trình thương mại mà nó tiêu biểu cho đời sống kinh tế của người
Trung Quốc hiện nay, một hiện tượng mà nó tương tự với xã hội Bắc Mỹ. Rõ
ràng, sự thương mại hoá này dẫn đến nguy cơ là làm suy yếu khả năng tập
trung vào công việc chính của các tăng sĩ, mà nói theo ngôn ngữ Phật
giáo là giải thoát chúng sanh ra khỏi khổ đau và truyền bá giáo pháp.
Một
kết quả có ý nghĩa của việc phục hưng Phật giáo trong 15 năm qua là sự
gia tăng số lượng tăng sĩ đáng kể, ước tính gần đây nhất là khoảng
180,000 người. Tuy nhiên, sự phát triển Phật giáo vào quần chúng là
không thành công. Có rất ít những tổ chức Phật giáo thế tục và ít người
công khai thừa nhận họ là tín đồ Phật giáo, ngoại trừ ở những vùng - nơi
mà những cộng đồng tộc người thiểu số chiếm ưu thế. Những tổ chức thế
tục hiếm khi tổ chức những buổi thuyết trình và hội thảo về Phật giáo,
hay mời những giảng sư nổi tiếng của Phật giáo nói chuyện, và cũng thiếu
một sự hỗ trợ và cộng tác hỗ tương giữa tăng ni và cư sĩ.
Sự
thực, một lý do tại sao các tăng ni đã bị cuốn vào công việc kinh doanh
là vì họ nhận quá ít sự hỗ trợ từ các Phật tử tại gia. Để rồi, tăng ni
không thể thường xuyên đóng góp được cho đời sống Phật tử tại gia bằng
hình thức giảng dạy và hướng dẫn tu học. Sự thiếu hoà hợp giữa các Phật
tử tại gia và hàng tăng sĩ là một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất
mà Phật giáo Trung Quốc hiện nay đang đối mặt. Trong một vài tự viện,
một thiểu số của cộng đồng đã đi quá xa khi họ có những việc làm vi phạm
pháp luật, điều làm tổn hại thanh danh Phật giáo một cách nghiêm trọng,
và làm hãm lại sự phát triển của Phật giáo. Các Phật tử Trung Quốc hiện
nay phải tìm cách thắt chặt mối liên hệ giữa hàng tại gia và giới xuất
gia, giống như ở Thái Lan và Tích Lan, và đặt ra những điều luật rõ ràng
cho những ai muốn vào chùa xuất gia.
Phật giáo và Quốc tế hoá
Từ
thời điểm truyền bá vào Trung Quốc vào thế kỷ thứ nhất (TL), Phật giáo
đã phát triển thông qua một tiến trình trao đổi quốc tế. Việc chuyển
dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương đã đánh dấu sự khởi đầu của Phật giáo ở
Trung Quốc. Và tiến trình dịch thuật cũng như quốc tế hoá đã giúp truyền
bá Phật giáo đến Hàn Quốc, Nhật Bản và Tây phương. Đời Tuỳ và đời Đường
là thời kỳ vàng son của Phật giáo ở Trung Quốc, một phần nhờ vào những
trao đổi và viếng thăm quốc tế thường xuyên: các học giả Trung Quốc đến
Ấn Độ để nghiên cứu Phật pháp, và các tăng sĩ Nhật Bản đến Trung Quốc
tầm sư học đạo. Trao đổi quốc tế giữa các Phật tử đã đạt đển đỉnh điểm
xán lạn của nó. Tuy nhiên thời kỳ hậu thuộc địa của lịch sử Trung Quốc
thì thật sự ảm đạm. Trong suốt thời kỳ nội chiến giữa những người Cộng
sản và những người theo chủ nghĩa dân tộc, chùa chiền bị chiếm đống, đất
đai bị chiếm dụng, tăng sĩ bị xua đuổi hoặc thậm chí bị hành quyết. Nhà
cải cách vĩ đại Thái Hư Đại Sư (太虛大師1890-1947) đã tìm cách phục hồi lại
Phật giáo Trung Quốc bằng việc tạo nên những hình thức tổ chức mới.
Ngài thiết lập những tổ chức Phật giáo và khuyến khích tăng sĩ ra nước
ngoài học, như họ đã thực hiện hơn một ngàn năm trước. Trong suốt 20 năm
giữa 1921-1941, hơn 30 tăng sĩ Trung Quốc đã được gửi ra nước ngoài
học. Những người này học ở Tây Tạng, Ấn Độ, Tích Lan và đạt được những
thành quả tốt đẹp. Kết quả của việc đào tạo quốc tế này là một thế hệ
giảng sư Phật giáo Trung Quốc đã được duy trì tại thời điểm khi Phật
giáo gặp khó khăn để phát triển ở Trung Quốc.
Ngày
nay, Phật giáo đối mặt với một nhu cầu tương tự đối với việc đào tạo
quốc tế. Còn rất ít những vị thầy tài đức sống sót sau Cách mạng Văn
hoá, và số ít này cũng đã già yếu. Phật giáo Trung Quốc hiện tại trước
sau đối mặt với việc thiếu các bậc thầy có tài có tâm và thiếu các nguồn
giáo dục. Hai kế hoạch hiện đang được đặt ra cho sự thành công của Phật
giáo trong tương lai. Một mặt, những đóng góp đã có qua việc thiết lập
các trường Phật học ở Trung Quốc. Một hệ thống giáo dục Phật giáo bây
giờ đã được thiết lập với các cấp học: sơ cấp, trung cấp và cao cấp. Đến
thời điểm này, hai học viện cao cấp đã được sáng lập, 20 học viên trung
cấp được hình thành. Mặt khác, như trước đây, các Phật tử được khuyến
khích ra nước ngoài học. Điều này được xem là một giải pháp linh động và
khả quan, điều có thể giúp Phật giáo Trung Quốc theo kịp trình độ Phật
học và sự thực hành Phật giáo khắp toàn cầu.
Vào
năm 1982, lãnh đạo Phật giáo Triệu Phác Sơ đã gửi nhiều tăng sĩ sang
nghiên cứu tại Nhật Bản, Tích Lan, Thái Lan, Anh và Miến Điện. Bản thân
tôi cũng là một trong số họ. Tôi đã học ở Tích Lan từ năm 1986 cho đến
1995. Theo kinh nghiệm của tôi, Tích Lan cho thấy là một nơi lý tưởng để
nghiên cứu Phật giáo Theravada. Trước đây khi còn được gọi là Ceylon,
Tích Lan là thuộc địa của Anh gần 300 năm cho đến khi nó độc lập vào năm
1948, và do đó tiếng Anh ở đó rất tốt. Những học giả Trung Quốc thành
thạo tiếng Anh có thể sang học tiếng Pali và nghiên cứu Phật giáo
Theravada ở Tích Lan. Thêm nữa sau độc lập, chính phủ Tích Lan đã sử
dụng giáo lý và những tổ chức Phật giáo chống lại chủ nghĩa thực dân;
như vậy Phật giáo vẫn hoà nhập tốt vào cơ cấu xã hội. Trong suốt thập
niên 50 thế kỷ trước, Phật giáo là một môn học phổ thông dành cho lớp
trẻ, và nhiều tăng sĩ trẻ Tích Lan đã ra nước ngoài du học. Những tăng
sĩ này hiện đang tích cực tham gia vào nghiên cứu Phật học và đang đóng
vai trò then chốt trong việc phát triển Phật giáo. Có hơn 40 tăng sĩ
Trung Quốc hiện đang học tại Tích Lan. Phật giáo Trung Quốc (trong quá
khứ) phát triển không ngoài sự tương tác giữa các tăng sĩ Ấn Độ và văn
hoá Trung Quốc. Có mọi lý do để tin rằng sức mạnh tương lai của Phật
giáo không chỉ nằm nơi ở sự thịnh vượng kinh tế, mà cũng nằm nơi những
liên kết quốc tế, mà nhiều thế kỷ đã là một trong những đặc điểm của một
tôn giáo thực sự của thế giới./.
Pháp sư Tịnh Nhân (凈因法師) - Thích Nguyên Hiệp dịch