Chuyến Lên Yên Tử
Đã lâu, mỗi khi về thăm quê nhà, tôi thường ngỏ ý với bạn bè muốn đi
thăm chùa Hương và leo núi Yên Tử, nơi cội nguồn của giòng Thiền Trúc
Lâm Việt Nam. Cứ mỗi lần như thế,bạn bè ở Huế cũng như người quen ở Hà Nội đều gạt phăng bảo rằng khó
lắm, đường đi hiểm trở và phải có thì giờ, phải mất hai ngày trời mới
leo lên tới chùa Đồng trên đỉnh Yên Tử. Không đi được đâu, đừng ham. Và
kẻ ở xa như tôi, khi thấy nét hốt hoảng của mọi người về nỗi ngăn sông
cách núi như thế, cũng đâm ra ngần ngại, lo cho thân mình, và ngoan
ngoãn bỏ ý định lên Yên Tử.
Mùa Đông vừa rồi, nhân về Hà Nội do lời mời của Viện Goethe, tôi tự
nhủ lần này phải leo lên được núi Yên Tử mới cam lòng và nhất định không
nghe ai can ngăn việc đường đi hiểm trở mà nãn chí. Tính thì giờ, tôi
chỉ có một ngày để leo núi. Cũng được thôi, một ngày tính theo một ngày,
không sao cả!
Cuộc đi! Cũng chẳng khó chi cho mấy!
"Nhân lòng ta vướng chấp khôn thông" ...
"Miễn cốc một lòng;
Thì rồi mọi hoặc".
(Trần Nhân Tông - Cư Trần Lạc Đạo Phú, Lê Mạnh Thát -Trần Nhân Tông, tt. 403, 413).
Một vài giờ đôn đáo xuôi ngược hẹn giờ, hẹn xe, hẹn người cùng đồng
hành cuộc đi và cuộc đi đã được thu xếp. Suốt cả đêm vừa thấp thỏm chờ
sáng lên đường, vừa thú vị vì cuộc đi sắp được thực hiện, trong đầu tôi
âm vang câu châm ngôn đắc chí đã học từ hồi lớp Năm trong sách Quốc Văn
Giáo Khoa Thư "đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì
lòng người ngại núi e sông" một câu thường dùng như một loại cẩm nang
thuộc lòng, dù đúng cho muôn đời và đúng trong trường hợp của chuyến đi
Yên Tử này, nhưng hôm nay nghebóng bẩy trơn lu như một sáo ngữ nhàm,
chán tai quá, tôi lắc đầu, xua đuổi âm vang của câu ấy ra khỏi trí óc.
Chỉ biết ngày mai sẽ lên đường đi Yên Tử ...một ước ao đã nuôi dưỡng từ
mấy năm sắp thành sự thật, một ước ao thật ra rất tầm thường, rất nhỏ
bé, không phải loại dời núi lấp sông, nhưng một ước ao dù cho nhỏ bé,
cũng có quyền đòi thành sự thật...
Không ngủ được, tôi mở cuốn Toàn Tập Trần Nhân Tông
mới nhận được của Thầy Lê Mạnh Thát tặng và bắt gặp một cách nói khác,
cũng cùng một chân lý nhưng mộc mạc hơn, Việt Nam hơn và lạ lùng hơn:
"Nhân lòng ta vướng chấp khôn thông" và "Miễn cốc một lòng; Thì rồi mọi
hoặc." Cách đặt câu của bài phú Cư Trần Lạc Đạo hình như còn
gai góc, khó khăn, có nhiều câu lần đầu tiên được viết bằng tiếng Nôm
trong lịch sử văn học Việt Nam. Đây là bài văn của một vị vua quyết tâm
dùng tiếng Việt làm chủ ngữ của văn học. Bài phú đọc lên có chỗ nghe còn
thô thiển vấp váp, nhưng chính những lần vấp ngã đó lại khiến ta phải
dừng lại để thâm nhập vào trong chiều sâu của chữ nghĩa và "lắng lòng
mình" để chiêm nghiệm "lòng người".
Thật quả từ lâu "lòng" mình cứ "vướng" cứ "chấp". Tâm mà vướng thì
chướng ngại sẽ trùng trùng điệp điệp, ta cứ quyết một lòng thì mọi nghi
ngại đều được giải tỏa. Yên Tử chỉ là một điểm nhỏ. Điểm lớn là việc nhà
việc nước.
Một ông vua nước Nam, cách đây đã 800 trăm năm đặt chữ Tâm, chữ Lòng
lên hàng đầu trong từng hành động xây thành dựng nước, bảo vệ bờ cõi,
thao luyện nhân cách Việt Nam. Một ông vua có đủ quyền lực trong tay
nhưng sẵn sàng rủ bỏ quyền quý giàu sang tột đỉnh để làm một vị sư "nệm
cỏ giường Thiền", "giữ giới sạch", "giữ lòng trong". Giấc ngủ chập chờn
đến với tôi cùng những ý tưởng và hình ảnh loanh quanh chữ Tâm, mà thời
đại Trần Nhân Tông đã gọi rất nôm na, rất Việt Nam là "lòng ta" như một
"cách sống, cách nghĩ" lúc Việt Nam bước vào giai đoạn phát huy tự chủ
tự cường sau khi đã dựng nước và giữ nước...
Sông Nhị ngày mai mờ khói nước
Rượu đào tươi mát rửa lòng trong
(Trần Nhân Tông - Họa Thơ Kiều Nguyên Lãng)
Lót Lòng Bằng Bánh Cuốn
Xe đi từ Hà Nội lúc 4 giờ sáng, băng qua sông Nhị còn mờ hơi sương,
đến chân núi lúc 8 giờ, ăn sáng nơi một quán gió có nồi bún riêu bốc hơi
ngào ngạt, bún riêu và bánh cuốn nóng, trong một sớm mai mùa Đông se
lạnh ở một làng quê miền Bắc cách Hà thành 100 cây số, có một chút chi
đầy cá tính Việt Nam - Việt Nam hơn Hà Nội hay Sài Gòn ồn ào náo nhiệt -
trong cung cách của cô bán bánh cuốn, đôi tay thoăn thoát cuốn bánh,
không nhìn khách là ai, thỉnh thoảng ngước đôi mắt đảo nhanh, đôi má
hồng vì hơi nước của nồi hấp bánh tỏa ra, nhưng cô biết ai là người ăn
bún ai là người ăn bánh, còn chi thú vị hơn? Ăn trong một không khí "ít
lời" vì người bán chỉ múc và cuốn, người cùng ăn yên lặng nghiền ngẫm
món ăn. Ở nơi một thị trấn nhỏ bé và tĩnh mịch như thế này, sự đơn giản
như một trầm lắng hiển nhiên, làm cho tâm mỗi người như chìm xuống để đi
vào chiều sâu không gian và thời gian của cuộc sống từ khi cuộc sống
còn sơ khai.
Tiếng xe bò lọc cọc vang trên đường nhựa, trên đường qua lại đôi
người với nón lá và mũ vải, màu áo ka-ki bạc thếch hòa với màu cây lá
xung quanh tuyền một màu xanh xám đạm bạc vì được phủ một lớp bụi than
đen.
Phong cảnh buổi sáng nơi miền quan tái hoang sơ như trong một bức
tranh cổ. Tôi cúi mặt nhìn dĩa bánh cuốn, những chiếc bánh trắng tinh
láng mượt mà, cho ta biết là bột vừa dẻo, óng ánh màu nước mắm ửng hồng,
"bánh cuốn như hồng ngọc" là đây! Dung dị, nhưng đầy ý vị, đơn sơ nhưng
đậm đà hương vị lúa gạo Việt Nam, cho nên quí giá như Hồng Ngọc.
Viên ngọc của Việt Nam tôi đó! người sứ giả phương Bắc kia!
Trong một thoáng tôi như thấy lại quang cảnh lịch sử của ngày xưa.
Cũng nơi miền quan tái này, cách đây không xa mấy nơi chốn biên cương,
rộn ràng ngựa xe tiễn sứ giả Bắc triều, bụi tung mờ đàng trước, nơi một
doanh trại nào đó, tiệc tiễn đưa sứ giả diễn ra, với "Đầy mâm bánh cuốn
như hồng ngọc" và một lời nhắn nhủ ý nhị "Phong tục từ xưa của nước Nam"
của vua Trần Nhân Tông. Lấy một món dân giả ra mà đãi quốc khách, bản
lĩnh tự chủ của vị vua này thực vững chãi có một không hai!
Xong múa giá chi thử áo xuân
Hôm nay huống gặp tiết Cỏ xanh
Đầy mâm bánh cuốn như hồng ngọc
Phong tục từ xưa của nước Nam.
(Thác chi vũ bãi thí xuân sam
Huống trĩ kim tiêu tam nguyệt tam
Hồng ngọc đôi bàn xuân thái bĩnh
Tùng lai phong tục cựu An Nam)
(Trần Nhân Tông - Tiễn Sứ Giả Trương Lập Đạo, Lê Mạnh Thát - sđd, tr. 296)
Mời người trước kia là địch thủ nay là sứ giả hòa bình nếm món bánh
cuốn của trời Nam, để biết ăn chơi không chỉ là cao lương mỹ vị, mà là
sự tinh tế tài hoa của người biết nấu và người biết ăn, phong tục của
nước Nam!
Tự chủ với một nền văn hóa Việt Nam, mà món ăn là một nét khởi đầu
của đạo làm người Việt - "Nhu dã ẩm thực chi đạo dã", sau khi đã ổn định
trời đất bằng chiến thắng quân Nguyên dành lại độc lập cho đất nước thì
không thể không có giáo dục và nuôi dưỡng, hai yếu tố chủ yếu của văn
hóa, tạo nên bản sắc văn hóa - nếu không nói là bản sắc văn hóa dân tộc,
những danh từ mà tôi bỗng e dè khi dùng tới trong cuộc hành trình này.
Tôi đã thưởng thức món bánh cuốn dưới chân núi Yên Tử không với một
niềm hoài cảm mà với một sự chiêm nghiệm thích thú đã gặp được "khẩu vị"
của một đấng anh hùng nước Nam, và cũng là vị sáng lập một thế đứng tư
tưởng Việt Nam ngẩng mặt đối diện với phương Bắc, mà từng bước từng bước
tôi đang sắp sửa đi trên một quãng đường mà Người đã để lại. Núi Yên Tử
đã ở trong tầm mắt tôi!
"Mình ngồi thành thị
Nết dụng sơn lâm"
Buổi sáng hôm ấy trời trong, mặt trời rải nắng ấm vừa phải trênđường
đi. Một ngày lý tưởng để leo núi, chân tôi như reo lên với sỏi đá trên
con đường ngoằn ngoèo hun hút tới trời cao.
Yên Tử trong mùa Đông rét mướt thường vắng khách vãng lai, vả chăng
Yên Tử vẫn còn là một nơi héo lánh khó đi, nên Yên Tử chưa bị nhiễm độc
như Chùa Hương bởi những hàng quán rối rít hai bên đường. Quang cảnh
vắng vẻ, yên tỉnh, thích hợp cho một cuộc đi như một kiểu hành hương,
hành thiền. Đường lên núi rợp bóng cây, lau lách, tre sậy và các thứ cây
miền nhiệt đới um tùm hai bên đường, đường núi dốc đá quanh co, có nơi
bằng phẳng nhưng cũng lắm chỗ gập ghềnh. Mới dẫm lên những cấp đá đầu
tiên bắt đầu con dốc đã thấy như mình lìa xa cõi tục, bỏ lại bụi trần và
chút dư âm náo nhiệt của thành phố đọng lại nơi mấy tiếng còi xe dưới
chân núi, nhường cho tiếng chim líu lo trong những lùm cây táng rộng phủ
rợp cả đường đi ... Khí núi cùng với mùi hoa lá lạnh mát bay phả vào
mặt làm cho người đi thấy lòng dịu hẳn, những bước đi trên con đường dốc
thoạt chốc bớt nặng nề.
Yên Tử có một không gian thanh thản thâm u nhưng không huyền hoặc như
Động Hương Tích. Cũng "Bầu trời cảnh Bụt" cũng "suối Giải Oan" nhưng
không "mê cung" như Hương Tích mà lại nhuốm chút thần tiên sảng khoái,
như nhà sư Huyền Quang (1254 - 1334) đã tả :
Buông niềm trần tục, náu tới Vân Yên,
Chim thụy dõi tiếng ca chim thụy;
Gió tiên đưa đòi bước thần tiên
Bầu đủng đỉnh giang hòa thế giới
Hài thong thả dạo khắp sơn xuyên...
Trời thiền thiên góp thu thửa lạ, lạ hơn ba mươi sáu thiền thiên,
Thấy đây, đất tựa vàng liền, cảnh bằng ngọc đúc ...
Cảnh tốt hoa lành, đồ tựa vẽ tranh.
Chỉn ấy trời thiên mẽ khéo
nhèn chi vua bụt tu hành ...
Ta nay:
Ngồi đỉnh Vân Tiêu,
Cưỡi chơi Cánh Diều.
(Huyền Quang - Phú Vịnh chùa Vân Yên - Nguyễn Huệ Chi edit. -Thơ Văn Lý-Trần quyển Hạ, tr.711).
Từng bước từng bước, tôi biết mình đang dẫm chân lên những dấu vết
sơn lâm lịch sử. Yên Tử còn "lạ hơn ba mươi sáu thiền thiên", có lẽ bởi
Yên Tử không chỉ là nơi "náu ẩn" như Huyền Quang nói, mà là thánh địa
của "nết dụng sơn lâm' như Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông đã hoạch
định.
Thăng Long và Yên Tử, một bên là "mình ngồi" một bên là "nết dụng",
một bên là "xác" một bên là "hồn", Thăng Long mà không có Yên Tử thì
Thăng Long rốt cùng chỉ là nơi buôn danh bán tước, một chốn thị phi
tranh tài tranh sức, nhân nghĩa thực dụng để chìm đắm trong bể khổ.
Thăng Long với lầu vàng điện ngọc bao lần dâu bể mất còn, bao lần đá nát
vàng phai trong lịch sử, nhưng Yên Tử thì chẳng có chi vật chất để mà
"sinh trụ dị diệt" nên Yên Tử vẫn "trơ gan cùng tuế nguyệt", vẫn là "nết
dụng sơn lâm", vẫn là cứ địa của một nền tư tưởng, đạo đức Việt Nam,
"thể tính" "an nhàn" Việt Nam, làm điểm tựa vững chải cho những ý nghĩa
hiện sinh của người Việt. Hiện hữu ở thị thành chỉ là sống tương đối,
dụng tâm ở sơn lâm là sống căn cơ rốt ráo. Thị thành không có sơn lâm
thì sẽ mất ý nghĩa và điểm tựa tinh thần. Trần Nhân Tông đã không lên
Yên Tử để trốn đời. Trần Nhân Tông lên Yên Tử để làm "tròn" phận đời của
một người Việt Nam.
Hiển nhiên, nhà Trần là giai đoạn lịch sử vàng son nhất của Việt
Nam. Nếu không có "nết dụng sơn lâm" của Yên Tử thì Trần Cảnh đã không
thể đứng vững trên mặt đạo lý như một vị vua cho quần thần mến phục. Có
thể nói Yên Tử đã cứu Trần Cảnh ra khỏi phong ba bão táp loạn luân của
Trần Thủ Độ và Yên Tử từ đó là cơ sở đạo đức thiết lập niềm tin cho một
bản sắc Việt Nam:
Mình ngồi thành thị
Nết dụng sơn lâm
Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính
Nửa ngày rồi tự tại thân tâm
Tham ái nguồn dừng
chẳng còn nhớ châu yêu ngọc qúi
Thị phi tiếng lặng
được đầu nghe yến thốt oanh ngâm...
"Thân như hơi thở vào ra mũi
Thế tựa gió luồn mây núi xa..."
(Trần Nhân Tông - Cư Trần Lạc Đạo Phú)
Bên cạnh tôi tiếng thở phì phò của hai anh chị bạn cùng đi đã nghe
rõ, chúng tôi đang đi vào đoạn dốc núi đẹp nhất của Yên Tử với những cây
tùng già gần 700 năm, thân cao vòi vọi và rể tùng đan như rắn quấn trên
đường đi.
Leo núi có lẽ là cách hay nhất để quán hơi thở và quán thân xác, và
từ đó ý thức rõ rệt chúng ta có thân tâm, mà trong cuộc sống hàng ngày
chúng ta xem chỉ như cái máy ăn, nói, nghĩ, làm, xử dụng chúng một cách
phung phí và bạo động. Mỗi bước chân chậm rãi trên từng bậc thang đá,
không hấp tấp hối hả - điều tối kị trong phép leo núi, là mỗi bước nghe
thân thể chuyển động, biết ngũ tạng lục phủ lành hay bệnh ở phần nào,
chú tâm vào bước đi, xả bỏ mọi ham muốn đi mau cho tới đỉnh. Mỗi ham
muốn là một trở ngại có thể làm cho ta nghẹt thở. Mỗi nôn nóng là một
mụn nhọt làm ung độc ngũ tạng làm cho thân thể rã rời không tiếp tục đi
được nữa, muốn tới đích phải đi từng bước vững chắc, ở đó ngũ quan và
thức hay thân và tâm là một, là bước đi, là sự sống trong toàn thể.
Biết bao nhiêu lần Trần Nhân Tông đã đi lên núi này? đã hành thiền?
đã phi hành phi thân?, và những vị tướng thời Trần khi chống quân Nguyên
đã dụng khổ công, tập luyện võ nghệ trong "nết dụng sơn lâm" này? Leo
núi- và leo núi Yên Tử, 1080 mét cách mặt biển - là dụng nội công, thực
hành công phu sớm chiều để chiêm nghiệm cuộc sống:
Thân như hơi thở vào ra mũi
Thế tựa gió luồn mây núi xa
Đổ quyên rền rĩ trăng ngày sáng
Đừng để tầm thường xuân luống qua.
(Trần Nhân Tông - Thân Như)
Đi lên núi mới biết mỗi bước đi không"tầm thường", phải đi bằng tâm
và thân, nếu lơ đểnh là trượt chân xuống hố, và đích sẽ không bao giờ
tới được. Mỗi hơi thở bỗng trở nên quí hóa, không thở được là không đi
được và phải rất chuyên, tinh tấn, đi không nên dừng lại la cà là mất
sức, là để "mùa xuân" của cuộc đời trôi đi một cách phung phí, mỗi hơi
thở là một đoá hoa mùa xuân cho thân và tâm. Những phương pháp quán hơi
thở Satipatthana hay Anapana-sati của Phật dạy, phương pháp thiền quán Dhyana,
mở ra cho ta thấy mùa xuân của cuộc đời trong từng hơi thở, trên từng
bước đi của chúng ta để mà cẩn trọng cuộc đời, một cách hành thâm
ba-la-mật-đa :
Số đời một màn kéo
Tình người đôi mắt ngân
Cung ma chật hẹp lắm
Cõi Phật khôn xiết xuân
(Trần Nhân Tông - Đề chùa Thôn Hương Cổ Châu - Lê Mạnh Thát, sđd, tr. 397)