Nhiều người và súc vật tử nạn. Nhưng trong mọi bất hạnh, điều buồn
nhất là trong vùng không còn đủ số hoa cần thiết để tẩm liệm người chết
và trang hoàng tươm tất nơi yên tĩnh cuối cùng cho kẻ xấu số.
Dĩ nhiên ngay từ đầu người ta đã lo lắng mọi chuyện khác. Sau khi tin
ghê sợ được loan ra, lập tức đã có các sứ giả phân ưu vội vàng đến
viếng khắp vùng láng giềng, chuyển những lời thăm hỏi thân ái đến mọi
người. Từ các lầu chuông đã nghe văng vẳng tiếng những người diễn ca hát
câu thơ bi thiết làm não lòng người, câu thơ dâng lên nữ thần từ bi
theo tục lệ từ xưa và người nghe không thể cầm lòng bi lụy. Ngay sau đó
các chuyến tàu chở người ủy lạo và phát tâm nghĩa hiệp từ các thành phố
cũng như các vùng quê tấp nập đến, những lời mời mọc và yêu cầu thân
tình đổ dồn đến những kẻ bất hạnh mất hết nhà cửa, ưu ái mời họ đến tá
túc với bà con, bạn bè, hay người chưa quen. Từ mọi nẻo, thức ăn và áo
quần, ngựa xe, các dụng cụ, đá, gỗ và nhiều nhiều thứ khác đều được đưa
đến trợ giúp. Và trong lúc những người già, đàn bà và trẻ con được
những bàn tay cứu trợ an ủi, ân cần dìu đi nơi khác, trong lúc một số
người lo rửa ráy, băng bó cẩn thận những người bị thương, tìm kiếm những
người chết dưới đống gạch vụn, những người khác đã bắt tay vào việc dọn
dẹp những mái nhà bị sụp đỗ, chống đỡ các bức tường xiêu vẹo với sà
ngang và chuẩn bị các thứ cần thiết để xây nhanh nhà mới. Mặc dù thoáng
hãi hùng đến từ nỗi bất hạnh kia vẫn còn giăng mắc trong không gian, từ
những người chết còn thoát ra lời nhắc nhở để tang và mật niệm kính
cẩn, trên mọi nét mặt và trong giọng nói của mọi người đã thấy rõ nét
sẵn lòng hoan hỉ cũng như vẻ long trọng đầy tế nhị; bởi lẽ sự đồng tình
cùng nhau miệt mài làm việc và sự tin chắc phải làm những điều cần thiết
như thế, đẹp đẽ và đáng tri ân như thế đã làm cho niềm phấn chấn chảy
tràn trong mọi trái tim. Ban đầu, mọi sự có đôi chút e dè và câm lặng,
nhưng liền sau đó đã nghe vẳng lên tiếng nói vui tươi, một điệu hát nhẹ
đệm theo công việc cọng đồng, và như ta có thể tưởng tượng được, trong
tất cả những điệu được hát, dẫn đầu là hai câu thơ ngụ ngôn cổ truyền:
”hạnh phúc thay, giúp được người trong cơn túng quẫn; như khu vườn hạn
hán đang uống cơn mưa đầu tiên, phải chăng trái tim bạn cũng đang uống
các nghĩa cử và đền đáp bằng những đóa hoa tri ân?” Hay câu thơ khác:
”Niềm vui thánh thiện tuôn trào từ nỗi chung sức chung lòng hành động.”
Tiếc
thay, lúc bấy giờ, chỉ còn một điều khiếm khuyết duy nhất đáng ta thán
là làng đang thiếu những bông hoa để tẩm liệm người chết. Thật ra người
ta cũng đã dùng hoa và cành lá còn sót lại trong các khu vườn bị tàn phá
đem trang hoàng những người chết được tìm thấy trước tiên. Rồi sau đó
bắt đầu đi thu nhặt những tất cả bông hoa có thể có được từ các nơi láng
giềng. Nhưng rủi ro làm sao, đây mới là nỗi bất hạnh đặc biệt, chính 3
làng vừa bị tàn phá lại có những khu vườn lớn nhất và đẹp nhất trồng các
loài hoa theo từng mùa. Mỗi năm dân chúng thường nô nức đến các làng
hoa này để ngắm hoa thủy tiên và hoa khai xuân (Krokus), không nơi đâu
sánh bằng những làng này với đủ loại hoa nhiều đến thưởng thức không
xuể, cũng như không đâu có nhiều loại hoa được chăm sóc và nhuộm màu
tuyệt diệu như thế, thế mà giờ đây tất cả đều bị tàn phá và hư hại. Mọi
người đều bối rối không biết làm sao thực hành giới điều của tục lễ dành
cho người chết, từ xưa tục lệ ở đây đòi mỗi một người chết hay mỗi con
thú chết phải được trang hoàng bằng bông hoa theo từng mùa một cách huy
hoàng và hễ cái chết càng đột ngột và bi thảm chừng nào thì đám tang lại
càng phải phong phú mỹ lệ với hoa hơn lên chừng ấy.
Vị trưởng lão lớn tuổi nhất của tỉnh, người trong số người cứu trợ
đầu tiên, đã đánh xe đến ngay chỗ tai nạn, tới nơi lập tức ông bị vây
phủ ào ạt với những câu hỏi, những yêu cầu và than vãn đến nỗi ông ta
khó mà giữ được sự bình tĩnh và vui tươi. Nhưng tim ông vẫn giữ được
bình thản, mắt của ông vẫn nhân hậu và thân thiết, giọng của ông vẫn
trong sáng và lịch sự, đôi môi dưới bộ râu bạc không bỏ quên một giây
nào nụ cười yên lặng và thiện hảo, nụ cười cho thấy ông đáng là nhà hiền
triết và vị quân sư.
”Các bạn của tôi”, ông nói, ”nỗi bất hạnh đã đến với chúng ta, nhưng
tôi nghĩ, nỗi bất hạnh này là sự thử thách mà các vị thần muốn thẩm xét
chúng ta. Chúng ta có thể xây dựng lại ngay tất cả những gì ở đây bị hủy
diệt và trao lại cho người anh em của chúng ta, tôi cám ơn thần thánh
cho tôi trong tuổi hạc khá cao này còn có thể chứng kiến được cảnh tất
cả các bạn đã đến đây và đã bỏ dở mọi việc nhà, đến giúp các người anh
em của chúng ta như thế này. Nhưng giờ đây chúng ta lấy đâu ra được
những bông hoa, để có thể trang hoàng tất cả các người chết thật đẹp đẽ
và đường hoàng cho buổi lễ hóa thân của họ? Bởi vì bao lâu chúng ta còn ở
đây và còn sống, chúng ta không nỡ lòng nào để xảy ra sự cố có người,
dù chỉ là một người duy nhất trong những kẻ hành hương mệt mỏi này được
chôn cất mà không có vòng hoa phúng điếu đúng đắn. Có lẽ đây cũng là ý
kiến của các bạn.”
”Vâng”, mọi người đều kêu lên. ”đó cũng là ý kiến của chúng tôi”
Vị trưởng lão nói với giọng của người từ phụ: ”Thưa các bạn, bây giờ
tôi muốn nói chúng ta phải làm gì. Chúng ta phải đem tất cả những người
chết lên tận trên đền thờ mùa hạ trong dãy núi, ở đó tuyết chưa tan, bởi
lẽ hôm nay chúng ta không thể mai táng họ được. Như thế thi thể họ được
an toàn và sẽ không bị biến đổi cho đến khi chúng ta tìm được những
bông hoa cúng dường họ. Nhưng bởi vì hiện nay chỉ có MỘT NGƯỜI trong mùa
này có thể giúp chúng ta có được nhiều bông hoa. Người đó là nhà vua
chứ không ai khác. Bởi thế chúng ta phải gửi người của chúng ta đến nhà
vua xin vua giúp sức.”
Và mọi người đều gật đầu biểu đồng tình: ”phải! phải! đến xin vua!”.
Vị trưởng lão tiếp lời: ”Như thế đấy!” và mỗi người đều vui sướng
nhìn thấy nụ cười đẹp đẽ của ông lấp lánh dưới chòm râu. ”nhưng chúng ta
nên gửi người nào đến nhà vua đây? Người ấy phải trẻ trung và cường
tráng, bởi vì đường đến đó xa xôi, và chúng ta phải dành cho anh ta con
ngựa tốt nhất của chúng ta. Nhưng anh ta cũng phải tuấn tú, có lòng tốt
và ánh mắt sáng ngời làm cho trái tim của nhà vua không cưỡng lại nổi.
Anh ta không cần tốn nhiều lời, nhưng đôi mắt phải có thể nói thay lời.
Thật tình có lẽ tốt nhất là gửi một em bé đến, đứa bé đẹp nhất của vùng
chúng ta, nhưng làm thế nào một đứa trẻ có thể đi một chuyến du hành xa
đến thế được. Các bạn phải giúp tôi, các bạn ạ, và nếu có người nào đó
muốn lãnh sứ mạng này, hay nếu có ai quen hoặc biết người nào, tôi yêu
cầu các bạn hãy báo cho điều ấy.”
Vị trưởng lão ngưng lời, nhìn quanh mình với đôi mắt tinh anh của
ông, nhưng chẳng có ai tiến lên và cũng không có tiếng người báo hiệu.
Khi ông ta nhắc lại câu hỏi thêm lần nữa và đến lần thứ ba, lúc ấy có
một chàng trai chen ra khỏi đám đông tiến đến gần ông, một chàng trai
16 tuổi nhưng dáng dấp còn vẻ ấu thơ. Chàng ta đưa mắt nhìn xuống đất,
mặt đỏ bừng khi cất tiếng chào người trưởng lão.
Vị trưởng lão nhìn anh ta chăm chú và trong nháy mắt, ông nhận ra
ngay đây là người sứ giả đích thực. Nhưng ông ta mĩm cười và nói: ”Hay
quá, con muốn làm vị sứ giả cho chúng ta. Nhưng cớ sao trong số nhiều
người như thế này mà con lại là người đứng ra nhận lãnh chuyện này
vậy?.”
Lúc ấy chàng trai ngước mắt nhìn người trưởng thượng và nói: ”Nếu không có người nào khác muốn đi, xin ngài hãy cho tôi đi.”
Trong đám đông có người kêu lên: ”Trưởng lão! Ngài hãy gửi chàng ta
đi, chúng tôi biết chàng ta. Chàng ta xuất thân từ làng này và trận động
đất đã tàn phá vườn hoa của y, ngôi vườn hoa đẹp nhất trong vùng chúng
tôi đấy.”
Vị trưởng lão thân ái nhìn sâu vào mắt chàng trai hỏi: ”Con thương tiếc những bông hoa lắm phải không?”
Chàng tuổi trẻ trả lời với giọng rất nhỏ nhẹ: ”Con rất buồn, nhưng
không phải vì thế mà con đến đây tình nguyện xin đi. Con đã có một người
bạn thân và cũng có một con ngựa yêu trẻ đẹp, cả hai đều chết trong
trận động đất và thi thể còn nằm trong sảnh của chúng ta, cho nên phải
tìm cho đủ số hoa để cả hai được chôn cất.”
Vị trưởng lão đặt hai tay lên đầu chàng trai ban phước lành. Ngay sau
đó người ta chọn con ngựa tốt nhất cho chàng và chàng trai nhanh như
chớp nhảy lên lưng ngựa, vỗ vào cổ ngựa, gật đầu tạm biệt mọi người, phi
nước đại ra khỏi làng, băng qua những cánh đồng hoang tàn, ướt sủng rồi
biến dạng.
Chàng trai mãi miết phóng ngựa suốt cả ngày. Ðể đến kinh đô và vào
gặp nhà vua nhanh hơn, chàng chọn con đường băng qua rặng núi, chạy mãi
đến chiều, khi trời bắt đầu tối đen, chàng cầm cương dẫn ngựa lần theo
một con đường dốc qua cánh rừng và hốc đá.
Một con chim kếch sù màu đen tuyền, trong đời chàng chưa bao giờ thấy
một loài chim như thế, bay trước chàng và chàng đi theo chim cho đến
khi con chim bay đến đậu trên mái của một ngôi đền nhỏ bỏ ngõ. Chàng trẻ
tuổi thả ngựa trong vùng cỏ dại và đi giữa hai hàng cột gỗ vào trong bệ
thờ đơn sơ. Trên bệ thờ bằng đá chàng chỉ thấy dựng một tảng đá kỳ lạ
chưa bao giờ thấy ở quanh vùng, trên tảng đá có khắc một biểu tượng dị
kỳ của một vị thần mà người sứ giả trẻ chưa hề biết: một trái tim và một
con chim rừng đang rỉa trái tim.
Chàng cung kính đảnh lễ vị thần và đặt trên bệ thờ vật hiến dâng: một
đóa hoa hình chuông màu xanh mà chàng đã hái ở chân núi và dấu trong
áo của mình. Sau đó chàng đặt mình xuống trong một góc đền, bởi vì chàng
đã mệt nhoài và cần phải ngủ.
Nhưng chàng không tìm được giấc ngủ thường lệ đến ngay mỗi tối bên
giường ngủ. Ðóa hoa chuông trên tảng đá hay chính tảng đá đen hay cái gì
khác đang ngào ngạt tỏa ra một hương thơm lạ lùng, sâu và xoáy đau.
Trong sảnh đường tối om, cái biểu tượng kỳ dị của vị thần lóng lánh một
cách ma quái. Trên mái đền con chim đứng lù lù, thỉnh thoảng đập sàn sạt
đôi cánh khổng lồ của nó như bão táp rung chuyển rào rào cây cối chung
quanh.
Thế nên đến nửa đêm, chàng trai nhổm dậy, đi ra khỏi đền và ngước nhìn con chim. Con chim đập đôi cánh, nhìn người trai trẻ.
”Tại sao chú mày không ngủ hở?” con chim hỏi.
Chàng trai trả lời: ”Tôi không biết”, ”Có lẽ tại vì tôi đang buồn khổ.”
”Chú mày buồn khổ nỗi gì?”
”Bạn tôi và con ngựa yêu của tôi bị tử nạn.”
”Chết lại xấu đến thế cơ à?” con chim hỏi lại có vẻ mỉa mai.
”Ồ không, chim lớn ạ, chết không phải là xấu, chết chỉ là một cuộc
tạm biệt, nhưng tôi không buồn vì điều ấy.Duy chỉ tệ hại là vì chúng tôi
không thể chôn cất bạn tôi và con ngựa đẹp của tôi được vì chúng tôi
không còn hoa nữa.”
”Còn có những điều tệ hại hơn điều ấy nữa, chú ạ”. Con chim nói và bực bội đập đôi cánh sào sạt.
”Không chim ạ, chắc chắn không có điều gì tệ hơn điều đó đâu. Kẻ nào
được chôn cất mà không có hoa dâng cúng, kẻ đó sẽ bị ngăn chận không
được tái sinh theo ước muốn của lòng mình. Còn kẻ nào chôn cất người
chết của mình mà không làm lễ hoa cho người chết, kẻ đó sẽ thấy bóng
dáng của người chết trong giấc mộng. Chim có thấy không, chính tôi không
ngủ được nữa, bởi vì những người chết của tôi đang còn nằm kia không
có hoa.”
Con chim ngáy lên khọt khẹt với cái mỏ cong của nó.
”Này này chú nhỏ ơi, nếu chú không có kinh nghiệm gì khác hơn điều ấy
thì thật chú chưa biết gì về đau khổ cả. Chú chưa bao giờ nghe nói về
những xấu xa thậm tệ trên đời sao? Về hận thù, về giết người, về ghen
tương?”
Khi nghe những lời này thốt ra từ con chim, chàng trai đã tưởng mình
đang nằm mơ. Nhưng rồi chàng sực nhớ và nói một cách khiêm tốn: ”Ðúng
thế, này chim ơi, tôi nhớ ra rồi; trong các lịch sử cổ và trong các
chuyện thần tiên có viết về điều ấy. Nhưng điều ấy thật ra nằm ngoài sự
thật, hay có lẽ thuộc về thời xa xưa trên trái đất, khi chưa có hoa trên
trần thế và không có các vị thần thiện hảo. Ai mà còn nghĩ đến chuyện
ấy nhỉ!”
Con chim cười khẻ với giọng sắc cạnh. Rồi nó vươn mình cao lên hẳn và nói với chàng trai:
”Và bây giời chú mày muốn đi đến nhà vua và ta phải chỉ đường đến đó cho chú mày phải không?”
Chàng trai kêu lên mừng rỡ:
”Ồ, chim đã biết điều ấy rồi sao, vâng, nếu chim muốn, thì tôi yêu cầu chim dẫn đường cho tôi đi.”
Không một tiếng động con chim bay sà xuống đứng trên mặt đất, giang
rộng đôi cánh của nó nhẹ ru và ra lệnh chàng trai hãy để con ngựa lại
đó rồi cùng với nó đi đến nhà vua.
Chàng sứ giả của nhà vua bèn ngồi lên lưng chim và cỡi chim bay đi.
”Hãy nhắm mắt lại!” con chim ra lệnh và chàng trai tuân lời. Họ bay
qua bóng đêm của bầu trời, êm ru và mềm mại như đường bay vịt trời, chỉ
có gió lạnh phần phật thổi qua tai của chàng sứ giả. Và họ bay, bay mãi
suốt cả đêm trường.
Vào buổi sớm mai, nghe gió bên tai lặng lờ, chim và người dừng lại,
con chim kêu lên: ”Hãy mở mắt ra!” Chàng trai trẻ mở choàng mắt. Lúc ấy
chàng thấy mình đang đứng nơi ven bờ một khu rừng và dưới chân chàng,
trong tia sáng ban mai đầu tiên, một đồng bằng đang lấp lánh đàng xa,
ánh sáng chói lóa cả mắt chàng.
”Ở đây trong khu rừng này chú mày sẽ tìm thấy lại ta” con chim kêu
lên. Nó vụt phóng mình lên cao như một mũi tên và chẳng bao lâu mất hút
trong khoảng cao xanh.
Chàng trai càng lúc càng cảm thấy lạ lùng kỳ dị khi rời khu rừng đi
lần vào trong đồng bằng thênh thang. Quanh chàng tất cả đều đổi thay và
biến đổi đến nỗi chàng không biết mình đang tĩnh hay đang mơ. Những cánh
đồng cỏ và cây cối trông giống như ở quê nhà, mặt trời chiếu sáng, và
gió đùa trong đám cỏ đang nở hoa, nhưng chẳng thấy cả người lẫn thú vật
đâu cả mà cũng nỏ thấy nhà cửa vườn tược, ở đây có vẻ như vừa có một
cuộc động đất xảy ra tợ như ở quê nhà của chàng trai trẻ; bởi vì những
đống gạch vụn của các dinh thự, những cành cây gãy và những cây bị đánh
ngã, những hàng rào bị tàn phá và những dụng cụ nhà nghề thất lạc đang
nằm vương vãi đó đây trên mặt đất. Thình lình chàng thấy đàng kia, ngay
chính giữa cánh đồng, một người chết, không được tẩm liệm và thây đang ở
trong thời kỳ thối rữa. Trước cảnh tượng ấy, chàng trai cảm thấy kinh
hoàng mãnh liệt, một thoáng buồn nôn trào trong cổ họng, bởi vì chưa bao
giờ chàng đã chứng kiến một cảnh tượng như thế. Mặt của người chết
không được đắp lấy một mảnh khăn nào, hình như đã bị lũ chim và sự thối
rữa tàn phá đi một nửa. Chàng trai vừa ngoảnh mặt không dám nhìn vừa
mang những lá xanh và một vài bông hoa đến phủ lên mặt của người chết.
Một mùi hôi ghê tởm khôn tả làm cho tim thắt lại lan tỏa nồng nặc và
dai dẳng trên khắp đồng bằng. Trong cỏ lại thấy một thây chết bị đám quạ
vây quanh, một con ngựa không đầu, xương cốt của người hay vật, và mọi
thứ đều bị bỏ rơi nằm đó phơi dưới mặt trời, không ai nghĩ đến buổi lễ
hoa hay tẫm liệm.
Chàng trai thảng thốt nghĩ, e một tai họa không thể lường được đã
giết chết tất cả mọi loài và mỗi một người trong xứ này. Thây chết nhiều
đến nỗi chàng ta phải ngưng không đi bẻ hoa cho họ và phủ mặt nữa. Run
sợ chàng tiếp tục đi với đôi mắt nửa nhắm nửa mở. Từ mọi phía mùi thây
rửa và mùi máu tanh xông lên và từ hàng nghìn chỗ gạch đá đỗ nát và nhà
quàng xác người, ngọn sóng càng lúc càng ồ ạt của cảnh khốn cùng và đau
khổ không tả xiết tràn ngập khắp nơi. Người sứ giả tưởng như mình đang
lạc vào một cơn mộng dữ và cảm nhận trong đó lời khuyến cáo của các
thiên thần, bởi vì những người chết của chàng còn chưa có cuộc lễ hoa và
chưa được chôn cất. Lúc ấy chàng sực nhớ đến điều mà con chim tối hôm
nay đã nói trên mái đền thờ, và chàng tưởng như nghe lại giọng nói sắc
sảo của con chim vang lên: ”Có nhiều thứ còn tệ hại xấu xa hơn nữa.”
Bấy giờ chàng nhận ra được rằng con chim đã mang chàng đến một hành
tinh khác, rằng tất cả những gì mà mắt chàng đang thấy ở đây đều là sự
thật và chân lý cả. Chàng nhớ lại cảm giác của mình trong thời trẻ thơ
mỗi khi nghe kể những chuyện cổ tích rùng rợn trong thời xa xưa. Chính
cái cảm giác ấy giờ đây chàng đang có: một thứ kinh hãi rợn tóc gáy
nhưng đồng thời đằng sau nỗi kinh hãi ấy nghe trong tim có một tia an ủi
vui mừng thầm lặng, biết rằng tất cả những điều kinh dị xảy ra trong
chuyện cổ may sao đã trôi qua từ lâu và đã xa lắc xa lơ. Hôm nay ở đây
mọi thứ đều như một chuyện cổ tích quái đản, cái thế giới hoàn toàn lạ
lùng đầy kinh hoàng với thây chết và đại bàng rỉa thây ma này hình như
lệ thuộc vào những qui luật khó hiểu, chẳng có nghĩa mà cũng không có
nhân, những qui luật điên cuồng, theo đó điều ác, điều điên dại, điều
xấu xí xảy ra thay cho điều thiện mỹ.
Trong lúc ấy chàng chợt thấy có một người còn sống đang đi trên cánh
đồng bên kia, một người nông dân hay một kẻ làm thuê, chàng bèn chạy lại
và gọi kẻ nọ. Nhưng khi chàng lại gần nhìn rõ người ấy, chàng giật mình
kinh hãi, tim chàng choáng ngợp nỗi thương hại, bởi vì người nông dân
ấy trông xấu xí đến hoảng sợ, hầu như hắn ta không còn là phải là con
người đứng dưới mặt trời nữa. Hắn trông giống như một kẻ đã có thói quen
chỉ nghĩ đến riêng mình, một người đã có tập quán cho rằng mọi nơi chỉ
có điều giả dối, điều xấu xí và xấu xa xảy ra, như một người luôn luôn
chỉ sống trong những giấc mơ đầy sợ hãi. Trong mắt và trên toàn gương
mặt cũng như cả thân xác của kẻ ấy chẳng có chút gì vui tươi hay thiện
hảo, chẳng có chút gì của sự tri ân và tin cẩn, mỗi đức hạnh đơn giản
nhất và hiển nhiên nhất đều khiếm diện nơi con người bất hạnh ấy.
Nhưng chàng trai thu hết mọi can đảm, đến gần người nọ với dáng điệu
thân thiện, lân cảm, chàng chào người ấy một cách thân hữu và mĩm cười
bắt chuyện với anh ta. Kẻ xấu xí đứng trơ như phỗng, nhìn ngơ ngác ngạc
nhiên với đôi mắt mở lớn đục ngầu. Giọng nói của hắn thô kệch và không
có âm nhạc như tiếng rống của một thứ sinh vật hạ cấp; tuy nhiên hắn
không thể cưỡng lại vẻ vui tươi và tin cậy khiêm tốn trong ánh mắt của
chàng trai. Và khi hắn ta nhìn sửng chàng trai một lúc, bỗng nhiên trên
gương mặt thô tháp và nhăn nheo nở ra một nụ cười hay một nét miệng
nhoẻn ra – khá xấu xí, nhưng lại hiền hòa và ngạc nhiên, như nụ cười nhỏ
bé đầu tiên của một linh hồn tái sinh vừa trở về từ vùng sâu nhất của
trái đất.
”Chú muốn hỏi tôi điều gì?” người ấy hỏi chàng trai trẻ.
Theo tục lệ của quê hương mình chàng trai đáp: ”Bạn ơi, tôi cám ơn
bạn và tôi xin bạn cho tôi biết tôi có thể làm gì cho bạn được?”
Khi người nông dân lặng yên, vẻ ngỡ ngàng rồi cười bối rối, chàng sứ
giả hỏi tiếp: ”Bạn ơi, bạn hãy nói cho tôi hay điều gì đã xảy ra ở đây
mà khủng khiếp và kinh hoàng thế kia”, vừa nói chàng vừa chỉ quanh mình.
Người nông dân khó nhọc muốn hiểu chàng trai nói gì và khi chàng ta
nhắc lại câu hỏi, hắn bèn nói: ”Chú chưa bao giờ thấy điều ấy sao? Ðó là
chiến tranh. Ðó là bãi chiến trường.” Hắn đưa tay chỉ một đống gạch vụn
đen ngòm và kêu lên: ”Nơi đó là nhà của tôi”, và khi chàng trai lạ nhìn
vào đôi mắt vẩn đục của hắn với sự thông cảm nồng nhiệt, hắn hạ thấp
mắt và nhìn xuống đất.
Chàng trai hỏi tiếp: ”Các người không có vua hay sao?”, khi người
nông dân nói có, chàng ta lại hỏi: ”Ông ta ở đâu vậy?”. Người nọ đưa tay
chỉ về phía bên kia, ở đàng xa tít thấy mờ mờ một căn cứ doanh trại
nhỏ. Lúc ấy chàng sứ giả bèn đưa tay để lên trán người kia chào tạm biệt
rồi đi tiếp về hướng ấy. Còn người nọ thì đưa hai tay lên rờ trán mình,
lắc lắc cái đầu nặng nề của y một cách lo lắng và đứng đó trố mắt dõi
theo chàng trai lạ.
Chàng trai mãi miết đi và đi, băng qua tro tàn và khủng khiếp, cho
đến khi tiến gần sát doanh trại. Khắp doanh trại có nhiều đàn ông vũ
trang đứng canh gác và đi đi lại lại, không ai để ý nhìn chàng trai,
chàng chen giữa những người đàn ông, đi qua các lều trại cho đến khi tìm
thấy một căn lều to nhất và đẹp nhất, đó là căn lều của ông vua. Chàng
bèn bước vào.
Trong lều ông vua đang ngồi trên một chỗ ngủ tạm, thấp, đơn sơ, tấm
áo choàng nằm bên cạnh, sau lưng ông một tên hầu ngồi chồm hổm trong
bóng tối mờ mờ, hắn đã ngủ khèo lúc nào. Ông vua ngồi cúi người đắm mình
trong suy tư. Mặt của ông đẹp và buồn, một mớ tóc bạc phất phơ trên
vầng trán nhuốm màu nâu sạm, thanh gươm nằm trước mặt trên nền đất.
Chàng trai trẻ lặng lẽ cung kính cúi mình chào hệt như khi chàng chào
vị vua của nước chàng. Với hai cánh tay tréo nhau để trên ngực chàng
đứng yên chờ đợi cho đến khi vị vua nhìn thấy chàng.
”Ngươi là ai?”, vị vua nghiêm nghị hỏi và nhíu đôi lông mày lại với
nhau, nhưng tia nhìn của ông dừng lại nơi nét mặt trinh nguyên và tươi
sáng của người mới đến, và chàng trai nhìn ông với vẽ tín cẩn và thân ái
chân thành đến nỗi giọng của vị vua bỗng trở nên mềm dịu.
”Ta đã gặp nhà ngươi một lần rồi” vị vua vừa nói vừa ngẫm nghĩ, ”hay
là nhà ngươi trông giống một người nào đó mà ta đã gặp trong thời thơ ấu
của ta”
Người sứ giả nói: ”Thưa hạ thần là một kẻ xa lạ”
”Thế thì đó là một giấc mơ rồi”, ông vua nói giọng nhỏ nhẹ mơ hồ,
”nhà ngươi nhắc ta nhớ đến mẫu thân của ta. Này hãy nói cho ta nghe. Hãy
kể cho ta nghe.”
Người thiếu niên bắt đầu: ”Một con chim đã đưa con đến đây. Trong xứ
con vừa có một trận động đất, lúc ấy chúng con muốn chôn cất các người
chết, nhưng chúng con không có hoa.”
”Không có hoa hả?” vị vua bảo.
”Thưa không, không còn một đóa hoa nào nữa. Và có phải thế không,
thưa ngài, thật là tệ hại nếu khi người ta phải tẩm liệm một người chết
mà không thể dâng cúng cho người ấy một lễ rước hoa; bởi vì người ấy nên
được bước vào cuộc hóa thân của mình trong lộng lẫy và hân hoan.”
Ðột nhiên chàng trai sực nhớ, ngoài kia còn biết bao người chết chưa
được tẩm liệm nằm la liệt trên cánh đồng khủng phiếp, chàng dừng lại, và
ông vua nhìn chàng, gật đầu và thở dài khó nhọc.
” Con định đi đến nhà vua của chúng con để xin ngài thật nhiều hoa”,
người sứ giả nói tiếp, ”nhưng khi con ở trong cái đền trên núi thì có
một con chim bay đến và bảo rằng nó muốn mang con đến nhà vua và nó đã
đưa con qua nhiều tầng khí quyển đến ngài. Ồ, thưa nhà vua thân mến, đó
là một cái đền thờ vị thần vô danh, trên mái đền có con chim đậu và vị
thần ấy đã để một biểu tượng kỳ lạ vô song trên tảng đá thờ: một trái
tim và một con dã điểu đang rỉa trái tim. Trong đêm ấy con đã trò chuyện
với con chim khổng lồ kia, và mãi đến bây giờ con mới hiểu được những
lời của nó, bởi vì nó nói rằng, trên thế gian còn có những khổ đau và
tàn ác nhiều hơn con biết. Và bây giờ con ở đây, băng qua cánh đồng lớn
đến đây và đã thấy trong giờ phút này vô số khổ đau và bất hạnh, ôi,
nhiều nhiều hơn cả những điều khủng khiếp nằm trong các chuyện cổ tích.
Thế rồi con đến trình ngài, ô, thưa hoàng thượng, con xin hỏi ngài, con
có thể phục vụ được gì cho ngài không?.”
Vị vua, nãy giờ chăm chú ngồi nghe, tìm cách mĩm một nụ cười, nhưng
gương mặt đẹp đẽ của ông quá nghiêm trang và quá buồn bã đắng cay đến
nỗi ông không còn mĩm cười được nữa.
”Cám ơn con”, ông bảo, ”con không phục vụ cho ta được một tí gì cả. Con làm cho ta nhớ đến mẹ của ta, ta cám ơn con điều ấy.”
Chàng trai buồn rầu vì ông vua không thể mĩm cười được nữa. Chàng nói với vị vua:
”Ngài buồn bã quá. Có phải do lỗi của chiến tranh không?”
Vị vua bảo: ”Phải”
Chàng trai không thể nhịn được, đành tỏ ra vô phép đối với con người
đầy nỗi âu lo nhưng - như chàng cảm nhận -, rất cao qúi trước mặt mình
và đặt một câu hỏi đường đột:
”Nhưng xin ngài hãy nói cho con biết, và con yêu cầu ngài giải thích
tại sao các người lại gây chiến tranh trên hành tinh của các người? Ai
là người có lỗi? Ngài có một lỗi nào trong đó không?”
Vị vua nhìn sững người sứ giả, ông ta có vẻ không bằng lòng với sự
đường đột hỗn xượt của câu chất vấn. Tuy nhiên ông tự thấy yếu đuối,
không thể đối chọi thật lâu bằngcái nhìn đen tối của ông với cái nhìn
sáng rỡ và vô tư của chàng trai.
Vị vua bảo:
”Nhà ngươi còn là một đứa trẻ, và những chuyện kia là những điều mà
nhà người không thể hiểu được. Chiến tranh không là lỗi của ai cả, nó tự
đến như bão táp và sấm chớp, và tất cả chúng ta, những người phải chiến
đấu chiến tranh, không phải là kẻ gây nên nó, mà là nạn nhân của nó.”
”Như thế thì các người chết rất dễ dàng phỏng?” Chàng trai hỏi, ”ở xứ
chúng tôi, người ta cũng không sợ cái chết lắm đâu, và phần đông ra đi
một cách tự nguyện và nhiều người ra đi một cách vui vẻ vào sự hóa thân
đổi kiếp: nhưng không bao giờ có thể có một người nào dám cả gan giết
một người khác. Trên hành tinh của quí ngài xem ra khác hẳn.”
Vị vua lắc đầu.
”Bên chúng ta không phải hiếm chuyện giết người”, ông bảo, ”nhưng
chúng ta xem giết người là tội ác trầm trọng. Chỉ duy trong chiến tranh
thì được phép giết người, bởi vì trong chiến tranh không ai giết người
vì thù ghét hay ganh tương theo quyền lợi riêng cho mình cả, mà tất cả
làm điều đó vì cọng đồng đòi hỏi họ phải giết người. Nhưng sẽ là một sai
lầm, nếu nhà ngươi tưởng họ chết dễ dàng. Nếu nhà ngươi nhìn kỹ những
gương mặt các người chết của chúng ta, nhà người có thể thấy điều đó. Họ
chết khó nhọc, họ chết khó khăn và miễn cưỡng.”
Chàng trai trẻ lắng nghe những lời ấy và ngạc nhiên về nỗi buồn bã và
khó khăn của cuộc sống mà những người trên hành tinh này đang sống.
Chàng còn muốn đặt thêm nhiều câu hỏi nữa, nhưng lại tiên cảm rõ rệt là
sẽ không bao giờ hiểu được hết mọi dính líu chằng chịt giữa những điều
đen tối và dễ dợ ấy, vâng, chàng cũng cảm thấy trong tâm không có đủ ý
chí để hiểu chúng. Hoặc là những sinh linh đáng ta thán này thuộc về một
tầng trật tự thấp kém, không có những vị thần sáng suốt và bị các ma
quỉ điều khiển hay là trên hành tinh này có một rủi ro riêng, một lỗi
lầm và sai lầm đang chế ngự. Chàng thấy ngượng ngùng và tàn nhẫn, nếu
tiếp tục chất vấn, bắt buộc ông vua phải trả lời và thú nhận, mà mỗi câu
trả lời hay mỗi thú nhận chỉ có thể là đắng cay và hạ nhục mà thôi.
Những con người này đã sống u minh trong sự sợ hãi cái chết, nhưng lại
đi đến chuyện đánh chết nhau hàng loạt như thế, trên mặt những con người
này để lộ rõ tính thô thiển không xứng đáng như nét mặt của người nông
dân, hay hằn lên của nỗi tang tóc buồn bã sâu xa và khủng khiếp như nét
mặt của ông vua. Họ làm cho chàng thấy thương hại nhưng họ cũng là
những thực thể lạ lùng, hầu như buồn cười, buồn cười và điên khùng một
cách mâu thuẫn, họ vừa đáng thương vừa đáng hổ thẹn.
Nhưng có một câu hỏi chàng không thể bỏ qua. Nếu những sinh linh
khốn khổ này là những kẻ bị bỏ lại, những đứa con đến trể của một hành
tinh chậm trể, vô hoà bình, nếu cuộc sống của những con người này diễn
ra như một chứng bệnh động kinh và chấm dứt bằng những cú đấm chết người
tuyệt vọng, nếu họ bỏ những người chết phơi thây trên bãi chiến, vâng
có lẽ nếu họ ăn luôn người chết - bởi vì trong các chuyện cổ tích quái
đản của thời xưa cũng có nói về điều ấy – nhưng dù sao đi nữa họ cũng
phải có một linh cảm về tương lai, một giấc mơ về các vị thần, một điều
gì đó như một hạt mầm của linh hồn nằm sẵn trong con người của họ chứ.
Nếu không thì cả thế gian hoàn toàn không đẹp đẽ này chỉ là một sự sai
lầm và chẳng có ý nghĩa gì cả.
”Thưa nhà vua, xin ngài thứ lỗi”, chàng nói với giọng vuốt ve, ”hãy
thứ lỗi cho tôi, nếu tôi còn đặt một câu hỏi nữa trước khi tôi lại rời
khỏi mảnh đất kỳ lạ này”
”Hãy hỏi đi”, vị vua mời mọc, ông cảm thấy hay hay lạ lạ với chàng
trai không quen này; bởi vì trong nhiều điều, hắn có vẻ là một bộ óc
tinh tế, chín chắn và thông hiểu sâu xa, nhưng trong những điều khác,
hắn lại giống như một đứa trẻ mà người ta phải nâng niu và không nên
nghiêm khắc quá đỗi.
”Thưa vị vua xa lạ”, đây là lời của người sứ giả, ” ngài đã làm cho
con buồn bã. Ngài hãy xem, từ một xứ khác con đến đây. Thế mà con chim
khổng lồ trên mái đền đã có lý: nơi xứ của ngài có vô số nỗi khốn cùng
đến nỗi con chưa bao giờ có thể nghĩ hết được. Cuộc sống các ngài tựa
như một giấc mộng về lo âu sợ hãi, và con không biết các ngài được các
vị thần hay ma quỉ trị vì. Thưa nhà vua, ngài hãy xem, ở xứ con có một
truyện thần thoại, và trước kia con đã cho đó là chuyện hão huyền và
khói mây, chuyện kể rằng xưa kia ở xứ chúng tôi những điều như thế đều
phổ biến, những điều như chiến tranh, giết người và tuyệt vọng. Nhưng từ
lâu tất cả những chữ ghê rợn này chúng tôi không còn biết đến nữa,
chúng tôi chỉ đọc được trong các sách cổ tích xưa và thấy chúng khủng
khiếp nhưng cũng khá buồn cười. Hôm nay con đã học và thấy rõ tất cả
những điều này là sự thực, là thực tế, con nhìn thấy được ngài và những
người của ngài làm điều ấy và đang đau khổ. Nhưng xin ngài hãy nói cho
con hay: các ngài có cảm thấy trong tâm hồn một linh cảm nào cho rằng
các ngài không làm điều đúng không? Các ngài không có một hoài vọng về
những vị thần trong sáng và vui tươi, về những kẻ lãnh đạo và điều khiển
đầy hiểu biết và chan chúa lạc quan hay sao? Phải chăng trong giấc ngủ,
các ngài không bao giờ nằm mơ về một cuộc sống khác hơn và đẹp đẽ hơn, ở
đó không có ai muốn điều mà mọi người không muốn, ở đó lý trí và trật
tự chế ngự, ở đó con người gặp gỡ nhau với không gì khác hơn là niềm vui
sướng và nhường nhịn nhau? Các người không bao giờ có được ý nghĩ rằng
thế giới nên là một khối toàn thể ? Và kính trọng cái toàn thể bằng linh
ứng cũng như phục vụ cái toàn thể bằng tình yêu sẽ đem hạnh phúc và an
lành hay sao? Các ngài không biết gì về điều mà xứ chúng tôi gọi là âm
nhạc và thờ phụng thần linh và hạnh phúc ân huệ hay sao?”
Trong lúc nghe những lời này vị vua gục dầu xuống. Khi ông ngẩng đầu
lên, gương mặt của ông đã biến đổi, như được viền sáng bằng một ánh mờ
của nét cười, trong lúc đôi mắt ông đẫm đầy nước mắt.
Vị vua bảo:
”Chú bé đẹp đẽ kia, ta không biết thật sự ngươi là một đứa bé hay một
nhà hiền triết hay có lẽ là một thần linh. Nhưng ta có thể trả lời cho
ngươi rằng chúng ta đều biết tất cả các điều mà nhà ngươi vừa nói và
mang chúng trong linh hồn. Chúng ta linh cảm được hạnh phúc, tự do, thần
thánh. Chúng ta cũng có truyền thuyết của một nhà hiền triết thời tiền
sử, người đã nhận ra được tính nhất thể của thế giới như một tương quan
hòa hợp giữa các khoảng đất trời. Thế đã đủ cho nhà ngươi chưa? Hãy xem,
có thể nhà người là một kẻ phúc ân đến từ thế giới bên kia, hay nhà
ngươi có lẽ chính là thượng đế đi nữa, thì trong tim của ngươi không có
một hạnh phúc nào, một thế lực nào, một ý chí nào, mà linh cảm và phản
ảnh hay bóng dáng của nó lại không sống trong tim của chúng ta.”
Rồi đột nhiên ông ta đứng hẳn lên, và chàng trai hoàn toàn bất ngờ,
bởi vì trong khoảnh khắc gương mặt ông vua, như vừa hụp lặn trong niềm
vui, hiện ra sáng rỡ và trinh bạch như tia nắng bai mai.
Ông hướng về chàng trai dõng dạc:
”Thôi đi đi, hãy đi, để mặc chúng ta chiến đấu và giết nhau! Ngươi đã
làm ta mềm lòng. Ngươi đã nhắc ta nhớ đến thân mẫu của ta. Ðủ, đủ rồi,
chú bé yêu quí và xinh đẹp kia. Hãy đi đi và trốn cho mau trước khi trận
đánh mới bắt đầu! Ta sẽ nhớ đến ngươi, khi máu chảy và thành phố bốc
lửa và ta sẽ nhớ rằng thế giới là một toàn thể, mà sự điên cuồng, thịnh
nộ và dã man của chúng ta không phân rẽ được chúng ta ra khỏi cái toàn
thể ấy. Chào vĩnh biệt, và hãy chào hành tinh của nhà ngươi hộ ta, và vị
thần linh nọ mà biểu tượng là trái tim với con dã điểu đang rỉa rói! Ta
biết trái tim ấy và con chim kia rõ lắm. Và này người bạn tuấn tú từ
phương xa kia, hãy ghi nhớ: nếu khi nào ngươi nghĩ đến người bạn của
ngươi, đến ông vua khốn khổ đang ở trong trận chiến, nhà ngươi không nên
nhớ đến cái người đã ngồi trên đệm và đắm mình trong buồn bã tang
thương, mà hãy nhớ đến kẻ đã mĩm cười với nước mắt lưng tròng và máu bết
trên đôi tay.”
Nói xong, không đánh thức người hầu dậy, ông vua tự tay vén tấm màn
cửa lều tiễn chàng trai lạ ra khỏi lều. Trong tâm trạng mới, chàng trai
băng qua đồng bằng theo hướng cũ lần đi. Hướng về chân trời, trong ánh
nắng chiều, chàng thấy một thành phố lớn đứng trong lửa đỏ, chàng leo
qua người chết và tử thi tan rã của ngựa, đi mãi miết cho đến khi trời
tối hẳn, chàng đến được bìa rừng núi cũ.
Ở đó con chim lớn vừa hạ cánh từ trên mây, nó mang chàng trai lên
trên đôi cánh và họ bay trở về suốt cả đêm, êm ru không tiếng và mềm như
lối bay của vịt trời.
Khi chàng trai choàng thức dậy từ một giấc ngủ bất an, chàng thấy
mình đang nằm trong ngôi đền nhỏ trong núi, trước đền con ngựa của chàng
đang đứng trong cỏ ướt và hí lên chào ngày mới rạng. Nhưng những gì về
con chim lớn, về chuyến du hành lên trên hành tinh xa lạ, về ông vua và
bãi chiến trường chàng không còn nhớ mảy may. Một bóng đen mơ hồ đọng
lại trong tâm hồn của chàng, một niềm đau nhỏ bé thầm kín tựa như một
mảnh gai nhọn mong manh,- đau như một nỗi thương hại bơ vơ làm đau -,
đến cùng với một ao ước mong manh, chưa thành, thứ ước mơ thường đòi
đoạn hành hạ người trong giấc mộng, cho đến khi cuối cùng ta gặp được
người ao ước, bày tỏ tình yêu thương cho người, chia xẻ niềm vui với
người, mà nụ cười của người ấy chính là nỗi ước ao thầm kín bấy lâu
trong giấc mơ…
Người sứ giả leo lên ngựa, phóng đi suốt ngày trường, cuối cùng đến
được kinh kỳ vào chầu vua. Bấy giờ mới thấy chàng đúng là người sứ giả
mà mọi người chờ đợi ở chàng. Bởi vì nhà vua đã tiếp chàng với lời chào
ban ân huệ qua cử chỉ đưa hai tay chạm vào trán người trẻ tuổi, ngài kêu
lên:
”Ðôi mắt của nhà ngươi đã nói với trái tim của ta, và tim ta trả lời
”vâng”. Yêu cầu của nhà ngươi đã được thỏa mãn ngay trước khi ta nghe
nhà ngươi trình bày.”
Lập tức người sứ giả được vua ban đặc ân cho phép nhận được tất cả
các bông hoa trên khắp đất nước mà chàng cần có. Rồi đoàn tùy tùng, rồi
đoàn sứ giả, rồi đoàn phục vụ lũ lượt kéo theo, nào ngựa nào xe tháp
tùng, và sau vài ngày khi chàng trai trở về thành phố, đến làng của
chàng trên con đường bằng vòng quanh rặng núi, thì mọi người thấy chàng
đem theo nào xe nào thùng nào giỏ nào ngựa nào lừa, và cái nào cũng chất
đầy những bông hoa đẹp nhất của các vườn cây và nhà ươm giống có rất
nhiều trên miền bắc. Hoa đưa đến rất nhiều, đủ để làm vòng hoa quàng
thân người chết và trang hoàng các ngôi mộ, cũng như đủ để trồng một cây
hoa, một khóm cây và một cây ăn quả tưởng niệm cho mỗi người chết theo
tục lệ đòi hỏi ở xứ ấy. Nỗi đau khổ mất bạn và con ngựa yêu đã nguôi
ngoai và lắng dịu dần trong niềm tưởng nhớ thầm lặng và trong sáng, sau
khi chàng đã trang hoàng và chôn cất người và vật cũng như trồng cho họ
hai cây bông, hai khóm cây và hai cây ăn quả.
Hoàn thành xong bổn phận, chàng trai thấy thỏa lòng, bấy giờ hoài
niệm về chuyến đi trong đêm nọ bắt đầu xao động khơi dậy trong tâm.
Chàng xin mọi người thân cho chàng được một ngày đơn độc. Chàng ngồi một
ngày một đêm dưới bóng cây để suy tưởng, diễn ra trong trí nhớ của mình
một cách trung thực và rõ ràng những hình ảnh mà chàng đã thấy ở trên
hành tinh nọ. Một ngày sau đó chàng tìm đến vị trưỏng lão xin được nói
chuyện riêng và kể cho ông ta nghe tất cả.
Vị trưởng lão lắng nghe, ngồi lâu suy nghĩ, rồi hỏi: ”Này chú bạn,
con đã chính mắt thấy tất cả các điều ấy hay đó chỉ là một giấc mơ?”
Chàng trai trả lởi:
”Con không biết. Nhưng con tin có thể đó là một giấc mơ. Tuy nhiên,
xin ngài cho phép con nói thật, hình như đối với con mơ hay thật chả có
một khác biệt nào, nếu câu chuyện ấy xúc tiếp với giác quan của con
trong thực tế. Một bóng đen buồn bã vẫn còn lưu lại trong tâm con, và
ngay giữa hạnh phúc của cuộc đời, ngọn gió lạnh lẽo từ hành tinh kia vẫn
còn bơ phờ thổi đến. Bởi thế con xin hỏi ngài, người con kính ngưỡng,
con nên làm gì?”
Vị trưởng lão bảo:
”Ngày mai, con hãy đi một lần nữa lên rặng núi và chỗ mà con tìm thấy
ngôi đền. Cái biểu tượng của vị thần xem ra kỳ lạ, ta chưa bao giờ nghe
nói về nó cả, và rất có thể đó là một vị thần của hành tinh khác. Hoặc
có lẽ ngôi đền ấy và vị thần của nó đã xưa lắm rồi, xuất xứ từ những tổ
tiên trước nhất của chúng ta hay từ thời xa xưa, lúc mà đối với nhau,
con người còn có vũ khí, kinh hãi và nỗi lo âu tử thần. Con thương mến,
hãy đi đến ngôi đền nọ, và hãy đem hoa, mật và các bài ca dâng lên vị
thần”
Chàng trai trẻ cám ơn và theo lời khuyên của vị trưởng lão. Chàng lấy
một chén đựng thứ mật ngon quí, thứ mật người ta thường đem dâng cho
những khách danh dự trong các buổi lễ ong mật và không quên mang theo
cây đàn cổ nguyệt. Trong núi chàng tìm thấy lại chỗ mà trước đó chàng đã
hái đóa hoa hình chuông màu xanh, tìm thấy lại đường dốc vách đá dẫn
lên cao trong khu rừng, và nơi mà mới đây chàng đã dẫn ngựa lần bước.
Nhưng chàng không thể tìm ra chỗ của ngôi đền và chính ngôi đền, bệ đá
thờ màu đen, những cột lớn bằng gỗ, mái đền và con chim đậu trên mái,
ngày hôm nay và cả ngày hôm sau, không người nào biết được để có thể chỉ
ngôi đền mà chàng tả cho họ.
Bấy giờ chàng trai trở bước ra về, khi đi ngang qua đền thờ tưởng
niệm thần nhân ái, chàng bước vào, dâng chén mật cúng dường, cất tiếng
hát theo điệu đàn và chuyển đạt lên đài tưởng niệm giấc mộng của chàng,
ngôi đền và con chim lớn, người nông dân nghèo khổ và những người chết
trên bãi sa trường và nhất là về ông vua trong căn lều chiến. Sau đó với
tâm hồn nhẹ nhõm, chàng trở về nhà, treo trong phòng ngủ biểu tượng về
sự nhất thể của vũ trụ, ngủ một giấc dài và sâu, xả hết những ấn tượng
đã trải qua trong ngày. Ngày hôm sau chàng bắt đầu giúp những người láng
giềng ra sức khỏa lấp những dấu vết cuối cùng của trận động đất trong
vườn và ruộng đồng, vừa làm vừa ca hát.