HUYỀN TRÂN ngày trở về


HUYỀN TRÂN ngày trở về | DƯƠNG PHƯỚC THU Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo 9
09/04/2018 14:43 (GMT+7)
Số lượt xem: 1710
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Cuộc tình duyên Chiêm-Việt tuy ngắn  ngủi, nhưng để lại cho hậu thế một nỗi  buồn man mác… Đầu tháng Chạp  năm Đinh Mùi (1307), thái hậu Chiêm Thành  Paramesvari, tức công chúa Đại Việt Trần Huyền  Trân, cùng đoàn tuỳ tùng tả hữu và bốn vị Tăng sĩ  từ Thăng Long được cử sang viếng vua Chiêm  Thành vừa mất,


Huyen Tran ngay tro ve  đã rời thành Đồ Bàn, ra cửa Thị Nại  lập trai đàn để cầu siêu độ cho vua chồng Chế  Mân. Rồi từ đấy, công chúa theo đoàn thuyền do  quan Thượng thư tả bộc xạ Trần Khắc Chung chỉ  huy, lặng lẽ rẽ sóng vượt trùng khơi trở lại quê cha  đất tổ. Ngày 18 tháng 5 năm Mậu Thân (1308),  công chúa về tới kinh thành Thăng Long.

Công chúa vào ở tại biệt cung bên cạnh chùa  Tư Phúc trong Đại nội. Sau 3 ngày nghỉ lấy sức,  công chúa quyết định xin phép vua anh cho mình  lên núi Yên Tử vấn an vua cha Trần Nhân Tông –  người anh hùng hai lần lãnh đạo nhân dân đánh  thắng đế quốc Nguyên-Mông xâm lược, thanh  thản cởi bỏ chiếc hoàng bào, tự nguyện khoác lên  mình chiếc cà sa, người khai sáng dòng thiền Trúc  Lâm Yên Tử, có hiệu là Trúc Lâm Đại sĩ, ẩn tu trên  đỉnh mây gió tuyết sương vùng Đông Bắc Đại Việt.

Trước khi Huyền Trân lên núi Yên Tử, Đại sĩ đã  cho các thị giả xuống núi, chỉ giữ lại chú tiểu Pháp  Đăng và thầy Bảo Sát bên mình. Theo sự hướng  dẫn của chú tiểu Pháp Đăng, Huyền Trân lên núi và  đã gặp vua cha tại am Ngoạ Vân trong niềm hoan  hỷ khôn xiết. Từ am Ngoạ Vân, Đại sĩ cùng con gái  và chú tiểu Pháp Đăng ngược dốc lên am Tử Tiêu.  Tại đây, Đại sĩ sai chú Pháp Đăng ở lại quét dọn,  còn ngài dẫn lối đưa công chúa lên tận đỉnh ngọn  Tử Tiêu cao vút như chạm tới cổng trời xanh bạt  ngàn mây khói; truyền rằng nơi đây các tiên ông  thường xuống đánh cờ, ngắm miền hạ giới.

Tại một phiến đá phẳng và khá rộng, Huyền  Trân ngồi đối diện với vua cha trong thế toạ thiền.  Đại sĩ nhìn con gái hồi lâu như muốn san sẻ bớt  gánh nặng ưu tư và nghiệp duyên của con, rồi ân  cần hỏi thăm hoàng tử Chế Đa Gia và nỗi lòng dân  chúng Chiêm Thành kể từ khi vua Chế Mân qua  đời. Công chúa kính cẩn thưa hết với vua cha.

Ở lại Yên Tử, công chúa được Đại sĩ dẫn đi thăm  thú nhiều am động, được Người giảng giải cho  những điều triết luận cao siêu trong kinh điển  Phật giáo, nhờ đó mà nội tâm công chúa được khai  Mở. Cũng tại đây, công chúa được gặp sư huynh  Bảo Sát, người đứng đầu hàng đệ tử của Trúc Lâm  Đại sĩ, mà trước khi sang Chiêm Thành, công chúa  đã một lần diện kiến. Công chúa mong sớm được  xuất gia, thọ giới Bồ tát. Đại sĩ vui vẻ chấp thuận.

Hơn một tuần vân du Yên Tử, ngày 29 tháng 8  năm Mậu Thân, công chúa xuống núi, trở về kinh  thành, sống trong biệt cung. Hàng ngày dành thời  gian để học Phật pháp và cầu nguyện trước chính  điện chùa Tư Phúc. Huyền Trân thường quán niệm  rằng, có một ngày duyên lành phổ độ, nàng sẽ lên  lại Yên Tử để được xuất gia với Trúc Lâm Đại sị, rồi  tìm về chốn sơn thanh thuỷ tú nào đó ở miền Hải  Dương lập am tu hành. Nhưng lời quán niệm ấy đã  không kịp ứng với công chúa.

Vào một chiều, ngày mồng 3 tháng 11 năm  Mậu Thân, nghĩa là chỉ hơn hai tháng kể từ ngày  Huyền trân bái biệt vua cha trở về kinh thành,  công chúa nhận được tin dữ: Thượng hoàng Trần  Nhân Tông – Trúc Lâm Đại sĩ đã thị tịch vào lúc nửa  đêm ngày mồng 1, tại am Ngoạ Vân. Không nói lên  lời nào, Huyền Trân đóng chặt cửa, giam mình  trong biệt cung suốt một ngày một đêm. Qua  ngày mồng 5, công chúa sang chùa Tư Phúc, quỳ  trước Bảo điện, cứ quỳ như vậy suốt 2 ngày đêm  cho đến khi tháp đựng xá lợi của Đại sĩ được vua  Anh Tông và triều đình rước từ am Ngoạ Vân về  chùa vào ngày mồng 7. Thầy Bảo Sát cũng theo xá  lợi của Đại sĩ về cùng chuyến đi ấy. Trong thời gian  lưu lại chùa Tư Phúc, thầy Bảo Sát đã kể cho Huyền  Trân nghe những giờ phút thiêng liêng cuối cùng  của Đại sĩ và những lời giáo chỉ của Người. Trước  khi thị tịch, Đại sĩ dặn thầy phải trực tiếp thế độ cho  công chúa xuất gia, tìm nơi để công chúa tu học.  Song vì quá bận với trọng trách khắc Đại tạng  kinh, thầy Bảo Sát đã nhờ sư đệ của mình là Thiền  sư Bảo Phác đảm nhiệm việc này. Vậy là Huyền  Trân được xuất gia với Thiền sư Bảo Phác tại núi Vũ  Ninh, lộ Kinh Bắc.

Khi xuất gia tu học dưới sự chỉ dạy của Thiền sư  Bảo Phác tại núi Vũ Ninh, công chúa được ban cho  pháp danh Hương Tràng, thời gian này công chúa  đã nhận Sư cô Hương Nghiêm làm sư muội. Tháng  10 năm Kỷ Dậu (1309), Sư cô Hương Tràng được  Thiền sư Bảo Phác phái về tu ở chùa Hổ Sơn, một  ngôi chùa mới lập ở huyện Thiên Bản, trấn Sơn  Nam. Đi cùng Sư cô Hương Tràng về chùa Hổ Sơn  còn có Sư cô Hương Nghiêm và công chúa Thuỵ  Bảo, chị ruột công chúa An Tư, con gái vua Trần  Thái Tông, theo phả hệ Trần triều thì Huyền Trân  phải gọi bằng bà. Ở chùa Hổ Sơn, ngoài những giờ  tu tập và làm Phật sự ra, Sư cô Hương Tràng còn  mở lớp học đồng ấu dạy trẻ nhà nghèo, và là một  lương y có tiếng. Ni sư viên tịch khi mới ngoài 50  tuổi. Tương truyền rằng, Ni sư thường hiển linh  phò trợ cứu dân, nên dân chúng lập đền thờ, các  triều đại về sau đều có sắc phong bà làm thần.  (Phỏng theo các tài liệu lịch sử) 

https://tapchivanhoaphatgiao.com/nhan-vat/huyen-tran-ngay-tro-ve.html


Âm lịch

Ảnh đẹp