Nhưng không, trong tiềm thức của người con dân
Huế, ngôi chùa đã và đang sống âm thầm, mãnh liệt, là nguồn năng lực cho mỗi con
tim khi mỗi người dân Huế trở về với Huế trong cuộc sống thường ngày hay trở về
với Huế trong tâm tưởng của những người con Huế xa nhà. Tôi cũng là một trong
những kẻ bội bạc, đã quên, đã nhớ ngôi chùa, bình thường như đã quên, đã nhớ
chuyện ăn cơm, uống nước. Huế và chùa Linh Mụ đã cho tôi quá nhiều tôi làm sao
quên được. Tôi may mắn được sinh ra và lớn lên dưới bóng tháp của ngôi chùa ngày
ngày êm ả soi mình xuống dòng sông thơ mộng đo. Và đã trưởng thành trong xóm
làng bên ngôi chùa thân yêu này. Tôi ngày ngày ngẩng đầu nhìn bóng tháp, đêm đêm
nghe tiếng chuông vọng lại. Đối với tôi, chùa là nhà, là vườn, là hơi thở, là
những gì thân yêu của tôi. Do vậy chùa Linh Mụ trong tiềm thức của tôi là một
cái gì không thể thiếu và tự nhiên. Nếu nói, tôi đã quên ngôi chùa thì cũng như
tôi đã quên rằng tôi đã hít thở không khí, thì chuyện quên nhớ này cũng đáng
được thứ lỗi lắm thay! Hôm nay, trời lại vào xuân, một luồng gió xuân nhè nhẹ đã
đưa hồn tôi bay bổng, về lại quê xưa, về thăm ngôi chùa thân yêu ngày cũ, chùa
Linh Mụ, nơi có tháp bảy tầng đó. Tôi về để thăm lại chùa của tôi, và nhất là để
tìm thấy lại cho rõ hơn cái tháp của chùa Linh Mụ, cái bóng tháp là bạn, là tình
đã nuôi nấng tôi lớn lên cho tới lúc thành người.
Chùa Linh Mụ có hai đặc điểm, biểu trưng của thơ,
của mộng, của Huế, một là tiếng chuông chùa, hai là bóng tháp. Huế nổi tiếng,
một phần đã nhờ hai đặc điểm này. Có phải vì tiếng chuông ngân nga trong đêm dễ
gây cho lòng người những nguồn xúc cảm chăng. Cũng giống như tiếng chuông chùa
Hàn Sơn đã đi vào lịch sử cũng bởi vì tiếng chuông mầu nhiệm trong thơ của
Trương Kế:
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
Tiếng chuông chùa Linh Mụ cũng vậy, đã có biết
bao nhiêu thơ văn ca tụng. Tôi lấy làm bất bình cho cái tháp chùa vĩ đại của tôi
lắm. Nếu chùa Linh Mụ không có cái tháp bảy tầng này thì chùa Linh Mụ đâu còn
đúng là chùa Linh Mụ phải không? Tôi yêu bóng tháp nghiêng mình soi xuống dòng
sông lờ lững, tôi yêu cái vẻ bí mật của những gì có bên trong lòng tháp. Tôi yêu
những ngày hội hoa đăng, rợp trời bóng cờ, bóng sáng của đèn, của điện kết lên
bên ngoài viền của tháp chùa trong những ngày lễ Phật Đản của những năm xửa xưa
xưa. Thuở còn bé, vào những ngày lễ Phật Đản, chùa thường hay treo cờ, kết đèn
bên tháp, rực rỡ và đẹp đẽ vô cùng. Tôi thường được dẫn lên chùa, nhón chân lên
mới ngồi lên được trên vành rào gạch gần bên cổng chùa, lòng lâng lâng vui sướng
vì được đi dự lễ hội hoa đăng, ngẩng cổ nhìn lên đỉnh tháp nhìn cờ, đèn rực rỡ,
thấy chú điệu lò đầu ra từ chiếc cửa bé xíu trên tầng cao nhất của tháp mà thấy
khiếp đảm giùm cho chú ấy. Bóng tháp lúc ấy đối với tôi cao vời vợi, lại còn cao
hơn khi xoay đầu nhìn ra phía sau lưng, thấy mình ngồi lắc lẻo trên cao, mà phía
dưới là dòng sông. Hú hồn, nỗi sợ hãi ngồi trên cao đó đã là một trong những ký
ức không thể quên của tôi về cái tháp của chùa Linh Mụ. Lớn lên, mối tình đầu
đời nho nhỏ đơn phương cũng có bóng dáng của tháp chùa làm chứng. Không những
với tấm ảnh nay đã hoen màu trong đó có hình người thân yêu, có bóng dáng chiếc
tháp cao vời vợi đó, mà còn có trong tâm thức của tôi hình bóng chiếc tháp cứ
sừng sững trước mắt mỗi khi hoàng hôn xuống, đạp xe đạp lẩn thẩn ...qua ngõ
nhà em... để đêm đêm ngửi mùi hương, mùi hoa sứ nhà nàng. Tháp chùa đã làm
chứng cho mối tình đầu đời của tôi dù không thành, mà thành sao được, tình đơn
phương mà! Tôi bất bình lắm cho cái tháp thân yêu của tôi vì các văn nhân thi sĩ
cứ thi đua nhau ca tụng mãi tiếng chuông mầu nhiệm. Thì ai cũng biết tiếng
chuông chùa mầu nhiệm nhiều rồi, còn bóng tháp thân yêu của tôi thì sao? Cũng
may, câu ca dao nói về Huế mình chỉ nhắc tới cái tháp mà không... ngó ngàng gì
tới tiếng chuông chùa làm cho tôi vơi bớt đi một ít nỗi bất bình, bớt đi một
chút sự ghen tức với tiếng chuông chùa!
Đất Thừa Thiên trai hiền gái lịch
Non xanh nước biếc. Điện ngọc đền rồng
Tháp bảy tầng, Thánh miếu chùa Ông
Chuông khua Diệu Đế, trống rung Tam Tòa
Thì ít nhất cũng còn có người công bằng chứ. Cái
tháp thân yêu của tôi hiền hòa, âm thầm, nhẫn nại ấy, dù ai quên đi, không ngó
ngàng gì, nhưng cái tháp ấy vĩ đại lắm, nhân từ lắm, vẫn ngày ngày soi mình bóng
nước sông Hương, không tranh đua, không đòi hỏi, không ồn ào, mà nhẫn nại, mà
nhường nhịn để cho chùa Linh Mụ là chùa Linh Mụ của Huế.
Hôm nay tôi “bay bổng” về quê, thăm lại cái tháp
thân thương xưa. Tôi phải đi tìm nguồn cội của chiếc tháp kia cho phỉ lòng, để
nói cho rõ cho những ai đã khắc nghiệt phê bình cái tháp này bí mật và vô tình.
Cái tháp chùa Linh Mụ đâu có vô tình mà nó đã và đang rất là mãnh liệt nói lên
tiếng nói của nó, tiếng nói của tịch mịch, tiếng nói của sức sống, tiếng nói của
hòa đồng, tiếng nói của hy sinh để làm đẹp cho cuộc đời. Khi tôi sinh ra đời thì
cái tháp đã sừng sững soi mình bên dòng Hương suất hơn một thế kỷ rồi. Đâu chúng
ta thử tìm lại gốc tích của cái tháp cao vời vợi này của tôi. Nào mời các anh,
các chị, các chú, các thím, các bác, các ôn, các mẹ, các dì, các cậu, các em,
các con, các cháu, chúng ta đến nơi có các cái bia kia. Có cái bia đứng trước
cổng sau tháp trơ gan cùng tuế nguyệt, có
cái bia được duyên may, chân đạp con rùa, đầu
đội cái nóc đình. Đến những nơi này, chúng ta lật lại trang sách xưa, xem lại
gốc tích của quần thể chùa Linh Mụ mà các tiền nhân, cha ông ta khi xưa đã tạo
dựng nên cho chúng ta hôm nay thừa hưởng.
À thì ra đây là một trong những ngôi chùa rất
xưa ở Huế, vốn có tên là Thiên Mụ. “Gia phả (văn bia)” đã viết rõ ở đầu bia (l)
do chúa Nguyễn Phúc Chu dựng lên vào năm Vĩnh Thịnh thứ 11 đời vua Lê Dụ Tông
Thì Vĩnh Thịnh thập nhất niên tuế thứ Ất Mùi sơ đông chi cát nhật lập.
“Dựng vào ngày tốt lành mùa đông năm Ất Mùi niên
hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715)”. Câu đầu trong bia (1) của chúa Nguyễn Phúc Chu
cho biết như sau:
Ngự kiến Thiên Mụ Tự
Quốc chủ Nguyễn Phúc Chu tự Động Thượng chánh
tông tam thập thế pháp danh Hưng Long hiệu Thiên Túng đạo nhân đỉnh kiến Thuận
Hóa Thiên Mụ tư bi ký minh
“Chúa dựng chùa Thiên Mụ Chúa Nguyễn Phúc Chu kế
truyền chính tông phái Động Thượng đời thứ 30, pháp danh Hưng Long, hiệu Thiên
Túng đạo nhân ghi văn bia và dựng bia vững bền ở chùa Thiên Mụ xứ Thuận Hóa”.
Chùa Thiên Mụ vốn đã có từ xưa. Tính từ năm 1846 là năm vua Thiệu Trị dựng bia
(8) trùng tu chùa. Thì Thiệu Trị lục niên tứ nguyệt cát nhật kiến.
“Xây vào ngày tốt lành tháng 4 năm Thiệu Trị thứ
6 (1846)” thì chùa đã hiện hữu được 245 năm rồi. Tự chi kiến duyệt lịch tư
nhị bách tứ thập ngũ niên thánh tích danh lam kỳ lai thượng hĩ.
“Đây là danh lam thắng tích đã có chừng hơn 245
năm”. Như vậy, tính lại từ sử liệu trên đây thì chùa nên Mụ rõ ràng đã có từ năm
1601, và có thể đã hiện hữu từ lâu hơn nữa. Thì Tân Sửu thập tứ niên nhi kiến
Thiên Mụ tự vu thị sơn dĩ biểu phát tường định đỉnh chi phúc địa giả giả.
“Bấy giờ vào năm Tân Sửu (1601) xây chùa Thiên
Mụ tại núi này để biểu trưng cho linh địa, là nơi định cư lâu dài của Chúa”.
Chùa có tên chính thức là Thiên Mụ, nhưng người Huế chúng ta bây giờ vẫn thường
dùng tên Linh Mụ để gọi chùa Thiên Mụ. Lý do là, theo sách “Ca dao xứ Huế” của
Ưng Luận (2) ở trang 17, dưới thời Tự Đức vua không có con, cho là tại trời nên
có dụ kiêng dùng cho Thiên (Tự Đức thứ 15, năm 1862). Nhân đó bộ Lễ mới đổi
Thiên Mụ thành Linh Mụ. Bảy năm sau (Tự Đức thứ 22) vua thấy chẳng có linh ứng
gì, nên cho dùng lại chữ Thiên như cũ. Nhưng tấm biển ở trước cổng tam quan chùa
thì vẫn còn và dân Huế vẫn dùng tên Linh Mụ thay cho Thiên Mụ. Sau năm 1613 và
nhất là sau khi Đào Duy Từ xây xong lũy thầy thì mọi liên hệ với xứ đàng ngoài
sông Gianh bị cắt đứt. Nho giáo suy đồi không cứu nổi nhà Lê, Phật giáo trở
thành nhu cầu mới cho xứ đàng trong. Việc giao lưu với đàng ngoài bị gián đoạn
nên việc phục hưng Phật giáo gặp nhiều khó khăn. Nhờ vậy các chúa đàng trong gặp
dễ dàng hơn trong việc tiếp đón các cao tăng từ phía nam ra, hay từ Trung Quốc
sang (3). Chúa Nguyễn Phúc Chu sau khi nối nghiệp, cũng lo chấn chỉnh đạo Phật.
Vì trọng thầy, mộ đạo nên đã ra công tu tạo lại chùa Thiên Mụ, dựng bia, đúc
chuông và mời thầy để học đạo nên chùa Thiên Mụ trở thành ngôi chùa danh tiếng,
chiếm địa vị quan trọng trong công việc chấn hưng và hoàng pháp đạo Phật. Đây là
nơi được xem như là trung tâm lớn phát triển Phật giáo hệ thống Bắc Tông, còn
gọi là Đại Thừa (Mahayana) (6) ở xứ đàng trong. Điều này được minh xác qua dòng
văn bia nói rõ chúa Nhuyễn Phúc Chu kế thừa chính tông phái Động Thượng đời thứ
30. Theo Phật học đại từ điển thì Động Thượng là một phái nhỏ, cuối cùng của
dòng Tào Động do thiên sư Lương Giới (807-869) ở Động Sơn, Trung Quốc sáng lập
(5). Tư tưởng giáo lý Phật giáo Đại Thừa cũng phô bày rõ ràng trong dòng văn bia
(8) Nhất niệm trung năng hành lục Ba La Mật Đa tâm bất sinh diệt tức thị
trường đạo.
“Trong nhất niệm mà quán triệt thực hành được
lục độ Ba La Mật (Paramit) tánh không sinh không diệt của nội tâm là đạo vậy”.
Câu văn bia này có nguồn gốc từ Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, kinh căn bản nhất
của hệ thống Phật giáo Đại Thừa. Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La
Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiệt khổ ách.
“Khi tiến sâu vào nguồn mạch của Tuệ Giác Vô
Thượng (Trí Tuệ Bát Nha Prajna paramita), ngài Thức Tỉnh Bình Yên (Tự Tại) soi
sáng như thật rằng tự tính của năm hợp thể (Ngũ Uẩn) đều là Không (Sunyata) liền
thoát ly mọi khổ ách” (9) (Thích Tâm Thiện, Sài gòn, 1998) ...thị như pháp
không tướng bất sánh bất diệt bất cấu bất kinh bất tăng bất giảm.
Thể mọi pháp đều không, không sanh cũng không
diệt, không nhơ cũng không sạch, không thêm cũng không bớt (Thích Nhất Hạnh).
Nhờ có các bia nên chúng ta hôm nay có thể hiểu được tình hình Phật Giáo thời
đó, cũng như biết rõ lai lịch tên chùa, diện mạo của chùa, năm dựng bia, năm đúc
chuông và tên của ngài trụ trì đầu tiên. Chúa Nguyễn Phúc Chu mộ đạo nên đã mời
các nhà sư từ Trung Quốc sang truyền đạo, trong số đó sư Thích Đại Sán là người
có công nhiều với chùa Thiên Mụ. Chúa đã ghi tên sư vào bia (1) với những hàng
chữ kính trọng Kính ư tích tuế tằng diên đắc pháp đường đầu sư huý Đại Sán tự
Thạch Liêm, nguyện cố hoằng thâm từ tâm mẫn thế y báo vô lương đạo khác tam thừa
tu hành chi hữu tông chi như thuỷ mộc chi hữu bổn nguyên, phát tích Triết Tây,
truyền tâm thiên giới.
Nhớ lại năm xưa, mời được Đường đầu Đại Sư, tên
chữ là Đại Sán, hiệu Thạch Liêm. Ngài là bậc thầy, nguyện lực thâm sâu, lòng
thương rộng lớn, y báo, chánh báo vô biên, đạo thấu ba thừa, tu có tôn chỉ, như
cây có gốc, nước có nguồn. Ngài được truyền tâm ấn ở đất Triết Tây (Trung Quốc)
“...Ngô sư dĩ thệ phục vọng cao tăng phi trượng tích nhi quá ải sơn giá từ
hàng nhi phiếm Việt hải đồng tuyên diệu kệ trợ tán tông phong.”
“...Thầy ta đã đi rồi, ta cứ hoài thương nhớ vị
cao tăng, đã từng chống gậy vượt qua núi non, quan ải, dùng thuyền chở đạo vượt
biển, băng suối đi đến trời Nam, đem câu kinh kệ tuyệt diệu để ca tụng đạo mầu”.
Vào thời chúa Nguyễn Phúc Chu chùa Thiên Mụ đã được tôn tạo nguy nga và rộng
lớn, có nhiều cơ sở có chức năng khác nhau, phù hợp cho việc hoàng dương Phật
pháp. Quần thể chùa Thiên Mụ sau khi được Chúa trùng tu đã có quy mô như bia đã
ghi lại (1) Do sơn môn nhi Thiên Vương điện Ngọc Hoàng điện Đại Hùng bảo điện
thuyết pháp đường tàng kinh lâu lưỡng bàng tắc chung cổ lâu Thập Vương điện Vân
Thủy đường Tri Vị đường Thiền đường Đại Bi điện Dược Sư điện Tăng liêu thiền
thất bất hạ sổ thập sở nhi hậu Tỳ Da viên nội phương trượng đẳng xuất hậu bất hạ
sổ thập sở giai kim bích huy hoàng quan chi giả lệnh nhân di thần kinh mục.
“Từ ngoài cửa đi vào có điện Thiên Vương, điện
Ngọc Hoàng, Đại Hùng bảo điện, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, hai bên chùa thì
có lầu chuông, lầu trống, điện Thập Vương, nhà uống trà, nhà ăn, Thiền đường,
điện Đại Bi, điện Dược Sư, phòng thiền cho tăng lữ, tất cả cũng trên dưới mấy
chục ngôi nhà. Thêm vườn Tỳ Da có phương trượng của sư trụ trì cũng có trên dưới
mười mấy phòng, huy hoàng lộng lẫy, nhìn thấy ai cũng thích
thú và nể phục”. Quá trình xây dựng chùa Thiên
Mụ của chúa Nguyễn Phúc Chu kéo dài liền một khoảng thời gian mấy năm, đánh dấu
bằng năm đúc chuông và năm dựng bia. Thánh minh thế xuất quảng bị thiện duyên
Canh Dần thập cửu niên trù đại hồng chung Giáp Ngọ trấp tam nên trùng tu phạn vũ
duyệt nhất niên nhi lạc thành Ất Mùi thụ bi thùy thị.
“Nay Chúa hiền ra đời gặp duyên lành khắp nơi
nên năm Canh Dần thứ 19 (1710) đúc chuông lớn, năm Giáp Ngọ (1714) thứ 23 trùng
tu miếu, điện, công trình mất hơn một năm thì hoàn tất, năm Ất Mùi (1715) dựng
bia ghi lại”. Đa số vua chúa sau này đều hâm mộ Phật giáo Đại Thừa, nên nhiều
chùa ở Huế đều thuộc hệ phái này. Nhưng chùa Thiên Mụ đã hân hạnh được nhiều đời
vua chúa chiếu cố, cho trùng tu hoặc xây cất thêm. Theo văn bia (8) của vua
Thiệu Trị thì các đời vua trước như Gia Long và Minh Mạng cũng đã để ý đến việc
trùng tu chùa. Gia Long Kỷ Hợi tái trùng khôi kim bích tăng huy Minh Mạnh
niên lai phục chỉnh.
“Năm Ất Hợi đời Gia Long trùng tu, huy hoàng rực
rỡ. Đời Minh Mạng cũng sửa sang lại thêm nguy nga tráng lệ”. Nhưng, quần thể
kiến trúc của chùa Thiên Mụ thật sự là hoàn hảo thì phải đợi đến năm 1846 sau
khi vua Thiệu Trị dựng bia ghi lại việc cho xây thêm tháp Phước Duyên từ năm
1844. Nãi thân định thể chế, mệnh Vũ Lâm Doanh Hữu Dực Thống Chế Hoàng Văn
Hậu đổng tu tạo kiến ư Thiệu Trị Canh Thìn đãi vu Ất Tỵ duyệt Lưỡng tải nhi cáo
thành.
“Bèn thân hành đặt thể chế, phương thức xây cất,
hạ lệnh cho Vũ Lâm Doanh Hữu Dực Thống Chế Hoàng Văn Hậu xây tháp, từ năm Thiệu
Trị Giáp Thìn (1844) đến Ất Tỵ, khoảng gần hai năm thì xong”. Theo các văn bia
thì quy mô kiến trúc của chùa khá nguy nga và đồ sộ. Song vào đời Thành Thái năm
Giáp Thìn (1904), chùa bị một trận bão tàn phá nặng nề. Đến năm 1906, chùa lại
được trùng tu, nhưng với quy mô hẹp như ngày nay (2).
Cũng may là cái tháp thân yêu của tôi không bị
sụp đổ! Trở lại tháp chùa yêu quý của tôi, tháp này là kiến trúc cuối và lớn
nhất được ghi trong bia của vua Thiệu Trị. Chúng ta hãy đọc lại bia (8) về việc
vua Thiệu Trị trùng tu và xây thêm ngọn tháp. Kim quốc gia nhàn hạ chi thì
chánh trung ngoại sổ ninh chi tế liêu chi quốc thảng trúc thất cấp chi phù đồ
siển phát thiện duyên bố vạn phương chi nhân trạch. “Nay quốc sự có phần
nhàn hạ, đối nội đối ngoại, trong ngoài tất cả đều bình yên, cho nên Trẫm cho
xuất kho, xây tháp bảy tầng, mục đích làm cho tăng trưởng duyên lành, cho khắp
nơi, mọi người được thấm nhuần ơn mưa mách”. Vua Thiệu Trị đã đặt cho ngọn tháp
một cái tên thật hay, thật là đầy Phật tính “Phước Duyên”. À thì ra vậy, cái
tháp âm thầm của tôi ơi, có mấy ai biết tên của tháp nhỉ. Lăng tiêu bảo tháp
danh chi vi Phước Duyên quảng thôi giác ngộ quẩn sinh.
“Tháp cao vợi đó đặt tên là Phước Duyên, mục
đích để làm phương tiện giác ngộ chúng sinh”. Từ bé cho đến lớn, chùa Thiền Mụ
là nơi vui đùa của tôi, nhưng chẳng có khi nào tôi thấy cánh cửa tháp mở ra, chứ
đừng nói có được cái hân hạnh đi vào xem có gì trong lòng tháp. Lâu rồi thành
quen, tháp chùa chỉ thiệt là tháp chùa khi nó phải im thin thít, cửa phải đóng
im ỉm mới đúng. Tôi không còn cái tò mò tìm xem bên trong tháp có cái gì nữa.
Nào bây giờ chúng ta xem cái tháp cao vời vợi của tôi ngày xưa cao bao nhiêu
nhé. Theo bia của vua Thiệu Trị (8) thì tháp có chiều cao như sau. Khởi tự
sơn điên sốc không nhi thượng cao dĩ cổ xích độ đắc bát thập thất xích hữu linh
dĩ kim xích độ thành ngũ trượng tam xích nhi thốn.
“Trên đỉnh núi, ngọn tháp đứng sừng sững cao vút
lên trời xanh, dùng thước xưa đo được 87 thước, thước hiện nay thì tháp cao 5
trượng, 2 tấc”. Theo sách “Ca dao xứ Huế” thì tháp cao vào khoảng 21m. Dầu sao
đi nữa, thì tôi cũng phải đi vào lòng tháp du lịch một chuyến cho thỏa lòng. Thì
đây, lòng tháp, từ dưới lên trên, ta sẽ thấy tháp xây theo hình xoắn ốc, có bảy
tầng mỗi tầng thờ một vị Phật. Kính ư tháp trung thất tằng cá phụng thân thế
tôn.
“Trong mỗi tầng lầu của tháp phụng thờ một đức
Phật”. Chiếu y Thích điển phụng cổ Phật dĩ lai kỳ nhất Qúa khứ Tỳ Bà Thi Phật
đệ nhí Thi Khí Phật đệ tam Tỳ Xá Phù Phật đệ tứ Câu Lưu Tôn Phật đệ ngũ Câu Na
Hàm Mâu Ni Phật đệ lục Ca Diếp Phật đệ thất Trung Thiên Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Văn Phật Tây Phương Cực Lạc Pháp Vương bồi chi hữu A Nan Ca Diếp tôn giả.
“Chiếu theo lệ xưa của đạo Phật thì:
Tầng một thờ đức Phật Quá Khứ Tỳ Bà Thi
(Vipassi)
Tầng hai thờ đức Phật Thi Khí (Sikkhi)
Tầng ba thờ đức Phật Tỳ Xá Phù (Vessabhu)
Tầng bốn thờ đức Phật Câu Lưu Tôn (Kakusandha)
Tầng năm thờ đức Phật Câu Na Hàm (Konagamana)
Tầng sáu thờ đức Phật Ca Diếp (Kassapa)
Tầng bảy thờ đức Thích Ca Mâu Ni, Tây Phương Cực
Lạc Pháp Vương. Còn có tôn giả Ca Diếp và A Nan thờ bên cạnh”.
Ngoài ra, khi vua Thiệu Trị xây tháp Phước Duyên,
vua còn xây thêm một cái đình ở ngay trước mặt tháp mà bây giờ chỉ còn lại cái
nền mà thôi. Thuở bé hay nô đùa ở đó. Đó cũng là nơi mọi người sau thi bước lên
hết các cấp cổng chùa, đứng đó để chụp hình lưu niệm. Đấy là cái đình tên là
Hương Nguyện. Phụ cấu cao đình nhan chi vi Hương Nguyện.
“Xây thêm một cái đình cao, gọi là đình Hương
Nguyện”. Xong rồi... Lần này tôi đã có được một lần “về’ thăm chùa kỳ thú, tôi
đã tìm lại được rõ ràng lai lịch cái tháp thân yêu của tôi. Nó vẫn bình dị, yên
lành và mạnh khỏe lắm, dù thời gian cứ đi và đi mãi nhưng tháp chùa của tôi vẫn
mãi mãi hiền hoà và nhân từ như ngày xưa vậy. Ngày mai, tôi sẽ tìm lại và lật ra
tấm hình ngày cũ mơ về cô hàng xóm ngày xưa. Dù thế nào đi nữa, tháp Phước Duyên
là chứng nhân tình yêu đầu đời của tôi. Nhớ tháp là nhớ người, nhìn tháp mà nhớ
ai, nhìn tháp mà nhớ lại chuỗi ngày ...tình tôi dạo ấy là ngơ ngẩn nhìn...
(Nguyễn Tất Nhiên), nhìn tháp mà nhớ lại ngày xưa, có lần đã lén nhìn cô hàng
xóm đứng chụp hình dưới tàn cây hoa sứ bên cạnh cửa tháp. Thôi, chắc là phải lấy
cửa tháp làm cánh cửa nhà, lấy hoa sứ làm hoa đào để âm thầm nhấm nháp bài thơ
tình xưa lăng lắc của lão Thôi Hộ:
Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
Ngày xưa bên cánh cửa này
Hoa đào thắm sắc hây hây má người
Nàng nay biền biệt phương trời
Hoa đào năm cũ còn cười gió xuân
(Nguyễn Hữu Vinh dịch)
Tham khảo:
1. “Bia chùa Thiên Mụ của chúa Nguyễn Phúc Chu”,
bản dịch của Thích Giới Hương, 1994 do Thích Trí Tựu cung cấp.
2. “Ca dao xứ Huế”, Ưng Luận, Sở Văn Hóa Thông
Tin Thừa Thiên xuất bản, 1991
3. “Huế, vài nét cố đô”, Mai Ưng, nhà xuất bản
Hội Nhà Văn Công Ty Quản lý Di Tích Huế, 1991.
4. “Chữ Húy Việt Nam qua các triều đại”, Ngô Đức
Thọ, nhà xuất bản văn hoá, Hà Nội, 1997.
5. “Phật học đại từ điển” (tiếng Hoa), Phật
Quang Văn Hóa Xuất Bản Xã, Taipei.
6. “A Brief Introduction to the History of
Buddhism Development in Vietnam (in Chinese)” input hy Ven. Giác Đông of
Vietnamese Buddhist Reasearch Institute.
7. Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh”, (tiếng Hoa),
Chung Sĩ Phật, Đính Uuyên Văn Hóa xuất bản, Taipei, 1997.
8. “Bia chùa Thiên Mụ của vua Thiệu Trị”, bản
dịch của Thích Giới Hương, 1994 do Thích Trí Tựu cung cấp.
9. “Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh bản dịch Việt,
Anh, Pháp, Hán” Bình An Sơn sưu tầm.