Chắc
rằng khá nhiều người dân Huế chẳng trả lời đúng câu hỏi này, mà chỉ cố
gắng nhớ lại những cổng thành mình đã đi qua. Hàng ngày người ta có thể
qua lại rất nhiều lần ở các cửa thành nhưng ít có ai lại từng nghĩ đến
việc thống kê một con số như vậy, cũng như việc bạn thường xuyên đến nhà
người bạn thân của mình nhưng bất chợt ai hỏi nhà bạn ấy số bao nhiêu,
tôi chắc rằng không phải ai cũng trả lời đúng.
Thể Nhân Môn – Cửa Ngăn (mặt phía trong kinh thành)
Vậy thì chúng ta hãy cùng nhau đi thăm tất cả các cổng của Kinh thành Huế nhé. Bắt đầu từ cửa Thể Nhân, là cửa thành còn giữa nguyên được hình dáng và kiến trúc ban đầu cho đến hết 13 cửa lớn nhỏ của Kinh Thành Huế.
Của Ngăn năm 1926 (mặt phía ngoài kinh thành)
Thể
Nhân Môn có tên thường gọi là cửa Ngăn, nằm phía Nam, bên trái Kỳ Đài
của Kinh Thành, lưu thông một chiều từ đường 23/8 ra đường Lê Duẩn. Phần
vòm cửa được xây dựng năm 1809 dưới thời vua Gia Long, vọng lâu bên
trên được xây dựng vào năm 1829 dưới thời vua Minh Mạng. Lúc đầu có tên
là Thể Nguyên, sau khi xây vọng lâu thì cải thành Thể Nhân. Nhân dân
quen gọi là cửa Ngăn Dưới để phân biệt với cửa thành Quảng Đức là cửa
Ngăn Trên.
Cửa Quảng Đức – Cửa Sập
Phía
bên phải di tích Kỳ Đài là Cửa Quảng Đức nằm ở mặt Nam của Kinh Thành,
chỉ lưu thông một chiều từ hướng đường Lê Duẩn vào đường 23/8. Phần cửa
vòm được xây dựng vào năm 1809, dưới thời vua Gia Long, vọng lâu được
xây dựng vào năm 1829, thời Minh Mạng. Trận lụt năm 1953, đã quét sập đổ
hoàn toàn bộ phận vòm cửa và vọng lâu, vì thế dân chúng vẫn quen gọi là
cửa Sập. Trong chiến sự năm 1968, cửa bị phá hoại nặng nề, và cấm không
cho ra vào. Năm 1998, cửa được phục chế lại.
Hai cửa này dành cho vua và hoàng gia ra vào. Mỗi lần vua và hoàng gia
ra thành, triều đình cho lính ra đóng lại, ngăn không cho dân chúng đi
qua. Sau khi vua và hoàng gia trở vào trong Nội rồi thì hai cửa bị ngăn
ấy mới được mở ra lại để cho dân chúng đi như thường. Trận lụt năm 1953
làm sập cửa Ngăn Trên nên từ đó dân chúng gọi là cửa Sập. Và cửa Ngăn
Dưới thì được gọi là cửa Ngăn cho gọn như ngày nay.
Chánh Nam Môn – Cửa Nhà Đồ (hiện đang được trùng tu)
Nhìn ảnh chắc hẳn bạn có thể hình dung được chiều dày của vòng thành
Bên
trái cửa Quảng Đức là cửa Chánh Nam Môn nằm ở phía Nam Kinh Thành, cuối
đường Nguyễn Trãi, dân gian vẫn gọi là cửa Nhà Đồ. Cửa này nay chỉ cho
phép lưu thông một chiều từ đường Nguyễn Trãi ra đường Lê Duẩn. Phần cửa
vòm được xây dựng năm 1809, dưới thời vua Gia Long, vọng lầu bên trên
được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 10, tức năm 1829. Lúc đầu, phía bên
ngoài cửa có cục Tượng Ty, hay còn gọi là Đồ Gia, là kho chứa vật dụng,
binh khí, dịch nôm na hai chữ Đồ Gia là Nhà Đồ, vì thế cửa Chánh Nam còn
có tên gọi là cửa Nhà Đồ. Trận lũ năm 1953, đã làm sập phần vòm và vọng
lâu bên trên cửa Nhà Đồ.
Đông Nam Môn – Cửa Thượng Tứ (phía bên trong thành)
Bên
phải cửa Ngăn là cửa Cửa Thượng Tứ có tên chữ là Đông Nam Môn, nằm ở
góc Đông Nam Kinh Thành, nay chỉ lưu thông một chiều từ đường Trần Hưng
Đạo đi vào đường Đinh Tiên Hoàng, bên ngoài là phường Phú Hoà, bên trong
là phường Thuận Thành, thành phố Huế.Phần cửa vòm được xây dựng vào năm
1809 dưới thời vua Gia Long, vọng lầu được xây dựng vào năm 1829, thời
vua Minh Mạng. Sở dĩ cửa có tên gọi là Thượng Tứ ngày xưa, ở gần bên
trong cửa thành này (khoảng vị trí trường Trần Quốc Toản hiện nay),
triều đình đã thiết lập một cơ quan tên là Viện Thượng Tứ, chuyên trông
coi việc nuôi ngựa để kéo xe cho vua.
Tây Nam Môn – Cửa Hữu (vọng lâu và vòm cửa bị sập)
Cửa
Hữu, có tên chữ là Tây Nam Môn, nằm ở phía Tây Nam của Kinh Thành, ở
đầu đường Yết Kiêu. Phần cửa vòm, được xây dựng vào năm 1809, dưới thời
vua Gia Long, vọng lâu được xây dựng năm 1829 thời Minh Mạng. Đêm mồng
5/7/1885, vua Hàm Nghi đã xuất bôn từ cửa này ra khỏi Kinh Thành, để ban
hịch Cần Vương. Chiến sự năm 1968, đã làm sập vọng lâu và vòm cửa.
Cửa Chánh Tây
Cửa
Chánh Tây nằm ở phía Tây Kinh Thành, trên đường Thái Phiên, TP Huế.
Phần cửa vòm được xây dựng vào năm 1809, dưới thời vua Gia Long, vọng
lầu bên trên được xây dựng năm 1829, dưới thời vua Minh Mạng.Trong chiến
sự năm 1968, nơi đây từng là cửa ngõ giao tranh ác liệt, cửa bị tàn phá
hoàn toàn phần vọng lầu phía trên, sau đó bị cấm đi lại. Nay cửa đã
được tu sửa.
Chánh Đông Môn – Cửa Đông Ba (hiện đang được tu sửa)
Cửa
Đông Ba có tên chữ là Chánh Đông Môn, tức cửa nằm ở phía Đông Kinh
Thành, cuối đường Mai Thúc Loan, thành phố Huế. Địa danh này phát xuất
từ tên của pháo đài Đông Hoa có từ thời Gia Long. Đến đầu thời Thiệu
Trị, vì triều đình kiêng dùng tên húy của mẹ nhà vua là bà Hồ Thị Hoa,
cho nên đổi tên thành Đông Gia. Nhưng nhân dân quen gọi là Đông Ba. Phần
cửa vòm được xây dựng từ năm 1809, dưới thời vua Gia Long, vọng lầu
được xây dựng năm 1824 dưới thời Minh Mạng. Ngày 5/7/1885, nơi đây đã
diễn ra trận giao tranh ác liệt giữa quân Pháp và quân triều đình do Tôn
Thất Thuyết chỉ huy. Trong chiến sự năm 1968, bom đạn đã đánh sập phần
vọng lầu làm hư hại nặng nề cửa chính Đông Ba.
Tây Bắc Môn – Cửa An Hòa
Cửa
An Hoà có tên khác là Tây Bắc Môn, cửa nằm ở góc Tây Bắc của Kinh
Thành, nối từ đường Nguyễn Trãi ra thẳng đường Tăng Bạt Hổ. Phần vòm cửa
được xây dựng năm 1809, dưới thời vua Gia Long, vọng lâu được xây dựng
vào năm 1831, thời vua Minh Mạng. Người dân Huế gọi là cửa An Hòa vì
trước mặt cửa thành này là làng An Hòa và chợ An Hòa.
Đông Bắc Môn – Cửa kẻ Trài
Đông
Bắc Môn có tên gọi dân gian là cửa Kẻ Trài, nằm ở góc Đông Bắc của Kinh
Thành, bên bờ Tây của sông Đông Ba. Phần vòm cửa được xây dựng vào năm
1809, dưới thời Gia Long, vọng lầu được xây dựng vào năm 1824, dưới thời
vua Minh Mạng. Ngày xưa, Kẻ Trài là tên một xóm ở phía trước cửa thành,
nơi đây có chợ Mới, có Hàng Bè, có phố Đông Hội, thương nhân Bắc kỳ
đưa hàng hoá vào buôn bán, họ làm lều quán lúp súp, thành những dãy nhà
trài hai bên bờ sông, dân bản địa thường gọi là Kẻ Trài, từ đó cửa Đông
Bắc cũng có tên là Kẻ Trài.
Chánh Bắc Môn – Cửa Hậu
Chánh
Bắc Môn tục gọi là Cửa Hậu, vì nó tọa lạc tại mặt sau của Kinh Thành.
Cửa Hậu nằm cuối đường Đinh Tiên Hoàng, nhìn ra đường Tăng Bạt Hổ. Phần
cửa vòm được xây dựng năm 1809 dưới thời Gia Long. Vọng lầu được xây
dựng vào năm 1831 dưới thời vua Minh Mạng. Sau khi thực dân Pháp chiếm kinh thành Huế (1885),
cửa Chánh Bắc (Mang Cá lớn) và cửa Trài (Mang Cá nhỏ) bị đóng kín để
lập đồn Mang Cá. Do hậu quả của chiến tranh và thiên tai cửa đã bị hư
hại, nên suốt 116 năm hai cửa này vẫn chưa được khai thông. Ngày
21/5/2004. sau 4 tháng thi công, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế đã
chính thức làm lễ khánh thành, khai thông cửa Chánh Bắc trở lại.
Ngoài 10 cửa nêu trên còn có 1 cửa nhỏ khác không thông ra ngoài là Trấn Bình Môn.
Trấn Bình Môn thông đến Trấn Bình Đài ( đồn Mang Cá)
Trấn
Bình môn thuộc vòng tường thành của Kinh thành không phải là cửa thông
ra ngoài thành mà là thông đến Trấn Bình đài là pháo đài phòng thủ của
Kinh thành. Cửa này đươc trổ ra ở giữa đoạn thành nối hai pháo đài Bắc
Định và Đông Bình (của Kinh thành) lại với nhau. Ngay trước mặt cửa là
một chiếc cầu xây bằng đá và gạch bắc qua hào, dùng để nối liền mạch
giao thông giữa hai địa phận của thành chính và thành phụ.
Và 2 cửa đường thủy : Tây Thành Thủy Quan và Đông Thành Thủy Quan.
Tây Thành Thủy Quan (còn gọi là cống Thủy Quan)
Tây
thành Thủy Quan là cửa đường thủy thông giữa sông Ngự Hà trong kinh
thành với sông đào Kẻ Vạn khu vực Kim Long. Phía bên ngoài thành là cầu
Thủy Quan nằm trên đường Lê Duẫn (QL1A đi qua Thành phố).
Đông Thành Thủy Quan (vẫn thường gọi là Cống Lương Y)
Đông
Thành Thủy Quan cũng là một cửa thủy thông giữa sông Ngự Hà với sông
đào Đông Ba bên trái kinh thành. Sông Ngự Hà, ban đầu mang tên Thanh Câu
dài khoảng 3.600m, chảy vắt ngang qua mặt hậu trong lòng Kinh Thành
theo hình thước thợ. Năm Minh Mạng nguyên niên (1820), sông được cải tạo
và đổi tên thành Ngự Hà, nối liền Tây Thành Thủy Quan với Đông Thành
Thủy Quan, thông nước từ sông Hương qua sông đào Kẻ Vạn với sông đào
Đông Ba rồi chảy về ngã Bao Vinh hợp lưu cùng sông cái đổ nước ra cửa
Thuận An.
Cửa này thông ra phía bên ngoài thành qua cầu Thanh Long (đường Huỳnh
Thúc Kháng), cây cầu này là nơi mà trong cuộc binh biến 1885 Tôn Thất
Thuyết đã bố trí mai phục để chặn quân Pháp từ Tòa Khâm sứ bên kia sông
Hương qua ứng ứng cho đồn Mang Cá. Hồi ấy, khi đọc xong tiểu thuyết lịch
sử “Huế 1885″ của Thái Vũ, mỗi lần qua đây tôi đều ngoái nhìn cửa thủy
thành, cố hình dung ra cảnh chiến đấu hào hùng của hơn 100 năm về trước.