Các học giả Nepal cho rằng Kapilavastu thuộc Tilaurakot, ở
vùng thung lũng Terai - Nepal, cách Tây bắc Lumbini 24km. Sự hiện diện di tích
một ngôi thành cổ với hào lũy bao bọc, mà chỉ kinh thành vua chúa ngày xưa mới
có được, ủng hộ cho lập luận ấy. Bên cạnh đó là dấu tích của một con sông - như
trong kinh điển Phật giáo mô tả kinh thành Kapilavastu - mà lòng sông này đã
chuyển đi 400m về phía Tây bắc 1. Để nhấn mạnh cho lời tuyên bố
Kapilavastu thuộc đất nước mình, năm 1961, Chính phủ Nepal “đổi tên” Tilaurakot
và toàn thể vùng lân cận thành Kapilavastu 2. Sau đó, một cuộc khai
quật quy mô cũng đã được thực hiện từ năm 1967 và chấm dứt vào năm 1978, nhưng
cũng chỉ khẳng định “dấu vết của một cung điện, nhưng không tìm được chứng cứ
văn bản nào (để xác nhận địa điểm này là Kapilavastu) 3”.
Đoàn Phật tử VN kinh hành quanh ngôi bảo tháp
Trong khi đó, về phía Ấn Độ, các
nhà khảo cổ đã tiến hành khai quật một địa điểm được nhận diện trùng hợp với
Kapilavastu là Piprahwa, cách phía Nam Lumbini 15km, thuộc bang Uttar Pradesh,
và cho rằng đây là địa điểm thực sự của vương thành này. Vào năm 1898, năm
chiếc bình cổ đã được phát hiện trong một ngôi tháp bằng gạch gần Piprahwa,
trong đó một cái đựng tro và một số vật cúng, được miêu tả bằng chữ Brahmi, ghi
rằng đây là chiếc bình đựng xá-lợi Đức Phật của bộ tộc Sakya. Năm 1972, dưới
tháp này, người ta lại tìm thấy một ngôi tháp cổ hơn nữa, cùng với hai chiếc
bình chứa xá-lợi Phật. Năm 1973, trong một di tích tự viện tại khu vực này,
người ta lại tìm thấy một chiếc nắp bình ghi: “Tinh xá này được Devaputra
Kaniska xây để cúng dường Giáo hội (Sangha) ở Kapilavastu”, cùng với những con
dấu viết: “Om! (Tài vật của) Giáo hội Tỳ-kheo (Bhiksu Sangha) ở tinh xá Devaputra
tại Kapilavastu” và “(Tài vật của) Giáo hội Tỳ-kheo ở Đại Kapilavastu”. Dù vậy,
những chứng cứ này cũng không thể khẳng định chắc chắn cho địa danh trên, bất
chấp việc Ấn Độ công bố Piprahwa chính là địa điểm Kapilavastu vào năm 1976 4.
Nhiều học giả đã đưa ra giả thiết: Tilaurakot là địa điểm
cổ thành Kapilavastu - nơi thái tử Siddhartha trải qua 29 năm trước khi xuất
gia; còn Piprahwa là địa điểm của Tân thành Kapilavastu (hay Đại Kapilavastu).
Giả thiết này dễ được chấp nhận bởi lẽ thời Phật còn tại thế, vua Vidudabha
(Tỳ-lưu-ly) nước Kosala hận vì bị những người họ Thích làm nhục, nên đã đem
quân tàn phá thành Kapilavastu và tiêu diệt dòng họ Sakya 5. Những
người Sakya sống sót có lẽ đã di tản từ cổ thành đến Piprahwa thành lập tân
thành Kapilavastu, hay còn gọi là Đại Kapilavastu. Về sau, khi Phật nhập diệt,
họ cũng được lãnh phần xá-lợi và lập tháp tôn thờ Ngài tại vùng đất mới này.
Biên giới Nepal và Ấn Độ nằm giữa hai địa điểm Tilaurakot
và Piprahwa, cách nhau khoảng 16 km. Tuy vậy, do các cuộc xung đột xảy ra liên
miên ở biên giới Nepal,
nên chính quyền địa phương thường ngăn du khách đi đến cổ thành - và nếu đến
được thì cũng rất khó khăn. (Đó cũng chính là lý do khiến tôi 2 lần đến Ấn Độ -
Nepal
mà không lần nào tới được mảnh đất thiêng này).
Em gái choàng khăn lên đầu vẻ e ngại
... Kapilavastu một buổi chiều muộn. Ánh nắng vàng vọt
cuối ngày trải nhẹ lên những phiến gạch cũ đã ngả sang màu nâu thẫm. Cái vắng
vẻ, cô tịch nơi đây khiến tôi thấy lòng buồn man mác - “Bụi vàng chôn thành
quách. Người xưa đâu thấy nào” (Lý Bạch). Từng bước, từng bước,... đứng
trên ngọn tháp, tôi nhìn ra bốn hướng, nghĩ về những con người họ Thích năm
nao,... cũng chỉ vì chút tự tôn dòng tộc mà để xảy ra họa lớn. Đức Phật đã đích
thân hai lần ra tận biên giới, ngồi dưới bóng cây khô để ngăn Vidudabha gây nên
đại họa. Hễ gặp Đức Phật, Vidudabha liền xuống xe đảnh lễ, thăm hỏi rồi lui
quân; nhưng không lâu sau, khi Phật trở về tinh xá, Vidudabha lại tiếp tục xua
quân nhắm Kapilavastu thẳng tiến. Lần thứ ba, Đức Phật rõ biết nhân duyên đời
trước của dòng họ Thích đã chín, Ngài không thể nào ngăn cản được. Vậy là máu
chảy thành sông, thây chất thành núi. Vua Vidudabha đã giết tất thảy chín nghìn
chín trăm chín mươi chín vạn người, và thiêu rụi thành Kapilavastu!
“Người xưa đâu? Mà tháp thiêng cao đứng như buồn rầu.
Lầu các đâu? Nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu...” (Xuân Tiên). Quả thực, từ đỉnh tháp nhìn xuống, tôi thấy
một màu xanh rì của thảm cỏ và của những rừng cây. Này tàn tích, này lầu đài...
giờ chỉ còn là những nền gạch cũ. Một cái giếng cổ xưa vẫn còn nước - nước
trong xanh mát, như chứng tỏ nguồn mạch thiêng liêng vẫn chưa dứt tại vùng đất
lãng quên này. Chợt, mắt tôi dừng lại và dán chặt vào một cái dáng nhỏ nhắn
đang tiến về phía tôi. Một bé gái Ấn Độ, bé gái của Đại Kapilavastu! Chiếc áo
đầy màu sắc của em nổi bật trên thảm cỏ xanh mềm. Em dừng lại trước tôi độ dăm
bước, nhìn tôi - ánh mắt ngây thơ, ngạc nhiên ngơ ngác. Tôi đưa máy ảnh lên, cô
bé vẫn điềm nhiên như không có gì. Đến khi nhận ra tôi chụp hình liên tục, cô
bé tỏ vẻ e ngại, choàng khăn lên đầu và khẽ cắn nhẹ chiếc khăn xanh màu cỏ. Tôi
hỏi: Em tên gì? Cô bé thụt lùi một bước, khẽ lắc lắc đầu rồi nhìn bâng quơ,
không đáp. Tôi tiếp: Nhà em ở đâu? Thay vì trả lời, cô bé mỉm cười rồi nhảy
tung tăng cùng hai cô bé nữa mới đến. Lạ thật. Nhìn em, tôi chợt nghĩ, không
biết em có phải dòng tộc Sakya, hoặc giả em và nàng Yasodhara xưa kia có mối
liên hệ gì chăng?
Tôi đã đi nhiều nơi trên đất nước Ấn Độ, và đã gặp rất
nhiều trẻ em - trai có, gái có - vậy mà không hiểu sao cô bé này lại khiến cho tôi
chú ý lạ lùng như thế? Hay em là hiện thân của người xưa ở Kapilavastu này
chăng? Có lẽ..., vì tôi vẫn luôn nuôi hy vọng gặp được hậu duệ của dòng tộc
Sakya - những con người bằng xương bằng thịt. Nhưng biết đâu vì em là hiện thân
sống động của những số phận bé gái Ấn Độ mà tôi đã từng biết trước đây qua sách
vở? Chẳng phải ở Ấn Độ, những đứa trẻ như em là một món nợ, một gánh nặng rất
lớn của gia đình đó sao?
“Những chuyện thương tâm về của hồi môn ở Ấn Độ”, “Rợn
người hủ tục đốt cô dâu vì thiếu của hồi môn ở Ấn Độ”, “Ấn Độ: Cay đắng cô dâu
đẹp như hoa bị chồng thiêu sống” (do không đưa đủ của hồi môn)... và kết quả là: “Bi kịch của những bé gái Ấn chết trước
khi chào đời”... là những điều mà tôi thường đọc được trên báo. Theo thống
kê do Cục Tội phạm Quốc gia Ấn Độ phát hành năm 2001, gần 7.000 phụ nữ đã bị
gia đình nhà chồng thiêu chết vì thiếu của hồi môn. Năm 2008, con số này vẫn ở
mức 6.000 người, bất chấp những quy định của Nhà nước về việc nghiêm cấm sát
hại cô dâu vì của hồi môn. Cũng theo các số liệu trên, cứ 77 phút lại có một vụ
án mạng vì của hồi môn được báo cáo ở Ấn Độ 6. Một con số đáng rùng
mình!
Vừa đi vừa lan man nghĩ ngợi, tôi cùng với đoàn ra đến xe
tự lúc nào. Cô bé, không hiểu sao, vẫn lẽo đẽo đi theo, và cũng ánh mắt ấy:
ngây thơ, ngạc nhiên ngơ ngác. Thật lạ. Phần lớn những đứa trẻ Ấn lẽo đẽo theo
khách ở những nơi du lịch thế này thường chỉ với một mục đích duy nhất: xin
tiền! Bỗng dưng tôi muốn cho em một cái gì đó, để san sẻ (không phải bố thí
theo nghĩa dung tục), nhưng lúc ấy tôi không có gì cả. Tôi vội lấy tờ 50 rupees
trao cho em. Lần này cô bé lắc đầu nguầy nguậy và thụt lùi đến... hai bước. Em
không nhận tiền! (Tôi xấu hổ bởi điều này!). Vậy thì em theo chúng tôi là vì lẽ
gì? Tò mò chăng? Tôi không biết!
Tôi giơ tay chào tạm biệt em, tạm biệt bé gái ở Đại
Kapilavastu. Lòng lâng lâng một niềm vui kỳ lạ!
1. Theo H.W. Schumann, (Trần Phương Lan dịch): Đức Phật lịch sử, Nxb.TP.HCM 2000, tr.57.
2. Theo H.W. Schumann, như trên.
3. Theo Hajime Nakamura (Trần Phương Lan dịch): Đức Phật Gotama, Nxb. Phương Đông 2011, tr.70.
4. H.W. Schumann, tr.58; Hajime Nakamura, tr.70 -71
5. Kinh Tăng nhất A-hàm, chương Năm pháp, phẩm Đẳng kiến, kinh số 2.
6. http://www.zing.vn/news/the-gioi/ron-nguoi-hu-tuc-dot-co-dau-vi-thieu-cua-hoi-mon-o-an-do/a136451.html