Ở khoảng giữa khúc sông Phú Phong An
Thái này, lại có ngọn Hương Sơn ở phía hữu ngạn trên địa phận hai thôn
Kiên Thạnh và An Chánh, điểm xuyết cho Côn Giang thêm phong vị thêm tình
tứ. Những khách ưu non mến nước thường dong thuyền chơi trên khoảng
sông này và có để lại nhiều văn thơ để vịnh. Được nhiều người tán thưởng
là bài thơ sau đây của Định Phong:
Nguồn tiên cuồn cuộn xuống Tây Cương,
Uốn khúc rồng xanh lướt dặm trường…
Ba huyện lúa dâu bờ trải gấm;
Một trời mây rán nước lồng gương.
Dập dìu bãi thắm tình âu lộ,
Lặng lẽ dòng khơi mạch đế vương.
Biển Bắc trời Nam dồn sức gió,
Thênh thênh chín vạn cánh bằng trương.
Hình ảnh của sông, danh hiệu của sông, còn thấy trong nhiều bài có giá trị khác. Như trong bài văn tế Vua Quang Trung:
Dòng Côn Thủy mây lồng thức gấm,
mãn vui tình mai liễu độ xuân;
Đỉnh Tây Sơn gió cuộn sóng tùng,
chạnh tưởng đấng anh hùng cứu quốc!
Trong bài văn tế anh hùng Mai Xuân Thưởng:
Thân trơ trọi một gươm một ngựa, vì nỗi
quốc cừu vị báo, dòng Côn giang vượt bến rủi dong;
Bước gập ghềnh càng nghĩ càng đau, nhớ câu
“quyển thổ trùng lai”, miền Linh Đỗng tạm đường ẩn náu.
Trong bài văn tế “Tướng sĩ trận vong năm Đinh Hợi” (1947):
Giải Tây Lĩnh hắt hiu chiều gió bấc,
tưởng hồn chiến sĩ ngậm ngùi thương;
Dòng Côn giang lai láng bóng trăng khuya,
xui dạ hoài nhân chan chứa lệ!
Vân vân…
Chẳng những bên nam giới mới nặng tình với sông Côn.
Tình phái nữ giới đối với sông Côn cũng
rất đằm thắm. Trong văn thơ của họ thường in đậm bóng dáng sông Côn,
nhất là khúc sông có trăng Non Hương, mây Non Hương lồng bóng.
Như trong hai bài đã đăng ở tạp chí Lành Mạnh năm trên. Một của Mộng Hoa, nhan đề là:
Niềm Mía Lúa
Em là gái sông Côn
Không lòng khe giặt lụa.
Em là gái hương thôn,
Lòng đơn sơ mía lúa.
Mía ngọt đời văn chương,
Lúa thơm tình đất nước.
Tin sương sóng trùng dương
Không bận lòng chim thước.
Rồi một hôm anh về:
Ánh phiền ba nắng nhuộm,
Xui hương nở đồng quê,
Mộng vàng vương cánh bướm!
Nhưng vầng trăng Non Hương
Thầm nhắc niềm nguyện ước:
Mía ngọt đời văn chương,
Lúa thơm tình đất nước.
Và một của Chức Thành, nhan đề là:
Sông Côn Giặt Sợi
Hanh hanh nắng vàng
Trên dòng Côn giang
Em ngồi giặt sợi
Nước trời mênh mang…
Nước loáng màu ngân,
Sợi ngời ánh tuyết.
Tay em mãi miết
Phăn tình cố nhân.
Gió thổi tình vương
Mây triền non Hương
Bay vào tay sợi
Kết niềm yêu đương,
Kết niềm nhớ thương,
Dệt thành bức gấm
Tặng đời văn chương.
Những bài trích dẫn trên đây là những
mảnh lòng của những người chịu ảnh hưởng sâu đậm của nước non Bình Định,
nhất là của dòng sông Côn. Những người ở xa mà nặng tình non nước, dù
mắt chưa thấy, xem những vần trên cũng biết qua được phong vị của sông
Côn.
Phong cảnh và khí vị của sông Côn, từ Phú Phong đến An Thái, đại để là như thế.
Xuống khỏi An Thái chừng nửa cây số,
sông Côn chia làm hai nhánh, một chảy vào Đông Nam, gọi là Nam Phái, một
nhánh chảy ra Đông Bắc, gọi là Bắc Phái.
Nam Phái chảy được chừng một cây số đến
gần Phụng Ngọc, Quan Quang lại phân làm đôi. Một chạy dọc theo quan
quang chảy thẳng xuống Đông, qua hết địa phận An Nhơn đến địa phận Tuy
Phước, rồi chảy ra đầm Thị Nại. Nhánh này gọi là Trung Phái. Còn nhánh
kia chảy vào Phụng Ngọc rồi thẳng đường chảy vào Đông Nam, chừng vài cây
số nữa, thì trở xuống Đông, qua trước cửa Tiền Thành Bình Định. Do đó
mệnh danh là sông Cửa Tiền.
Sông Trung Phái cạn, mùa nắng thường bị
mưa nhiều chặng. Chạy giữa đồng ruộng mênh mông, phong cảnh ít thay đổi.
Đông cũng như Tây, Nam cũng như Bắc, đâu cũng lúa xanh cò trắng, vàng
sớm hồng chiều. Cho nên thuyền du tử ít hay lên xuống.
Sông Cửa Tiền khi gần đến thành Bình
Định thì tiếp nhận nước sông An Tượng từ Tây Nam chảy ra. Nhờ vậy mà từ
đó trở xuống lưu lượng gia tăng gấp bội. Hành khách đi trên Q.L. số 1,
qua cầu Tân An là cầu bắc ngang sông cửa Tiền, lúc nào cũng thấy sông
xanh lục lìa và nước chảy cuồn cuộn. Khi xuống đến Tuy Phước, sông chia
làm nhiều nhánh nhỏ chảy ra đầm Thị Nại.
Trên con sông Cửa Tiền cũng không có gì
đặc biệt để thưởng ngoạn. Duy ở trước cửa thành Bình Định, có một bến đò
quang cảnh và phong vị phảng phất Bến My Lăng của nhà thơ Yến Lan:
Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi ông lái chẳng buồn câu.
Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu.
Ông không muốn run người ra tiếng địch,
Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao.
Vì đìu hiu, đìu hiu trời tĩnh mịch,
Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao!
Trôi quanh thuyền những lá vàng quá lạnh,
Tơ vương trời, nhưng chỉ giải tơ trăng…
Chiều nghi ngút dài trôi về nẻo quạnh,
Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng.
Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã,
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly.
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả,
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi.
Ông lão vẫn say trăng nằm gối sách,
Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng.
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách,
Gọi đò thôi run rẩy cả ngàn trăng.
Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng,
Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng!
Cửa Tiền và Cửa Đông vốn không xa cách,
mà tác giả “Bến My Lăng” lại là người ở Cửa Đông, cho nên những khách
yêu thơ yêu cảnh thường gọi bến Cửa Tiền là bến My Lăng.
Sông Cửa Tiền dài độ chừng 25 cây số kể cả khúc quẹo, đường cong.
Còn dòng Trung Phái thì ngắn thua chừng một mười một tám.
Đó là Nam Phái.
Còn Bắc Phái từ chỗ phân lưu chảy xiêng xiêng ra Đông Bắc, chừng ba cây số đến Thị Lựa, thì chia làm hai:
Một nhánh gọi là sông Thạch Yển, tức
sông Đập Đá, chảy vào Đông Nam chừng ba cây số đến Thanh Danh, thì trở
ra Đông Bắc. Chạy chừng năm sáu cây số, đến trước hòn Mò O, thì dừng lại
tại đập Lý Nhơn.
Hai nhánh Thạch Yển và La Vỹ chảy ra Gò
Găng rồi chảy xuống Lý Nhơn để hợp thành sông Thạch Yển. Nhánh này dài
độ sáu bảy cây số.
Hai nhánh Thạch Yển và La Vỹ phân nhau ở
phía Tây thành Đồ Bàn cũ và hợp nhau ở phía Đông, thành một vòng đai
bao quanh một vùng rộng, dáng tròn tròn, gồm các vùng Thập Tháp, Thành
Cũ (Đồ Bàn), Vân Sơn, Nhạn Tháp, Đập Đá. Ở trên ngó xuống phảng phất
giống một quả bầu ve để nằm, đầu day xuống phía Đông, đập Lý Nhân là
cuống.
Hai nhánh Bắc Phái hợp nhau ở Lý Nhân
rồi lại chia làm hai một lần nữa. Một chảy cong cong xuống Đông Bắc rồi
lại quẹo vào Đông Nam để vào đầm Thị Nại. Một chạy thẳng xuống đầm Thị
Nại, cũng chạy vào một cửa cùng nhánh kia. Trên cao nhìn xuống, hai
nhánh sông này trông giống một cây cung, mà dây là hai nhánh phái trong
bị dùn, cần là nhánh phía ngoài bị vẹo vọ. Bề dài của hai nhánh từ Lý
Nhơn đến Thị Nại chỉ trong vòng mười hai đến mười bốn cây số.
Ngày xưa Bắc Phái chỉ có một dòng là sông Thạch Yển, chạy từ Thị Lựa đến Thị Nại.
Sông La Vỹ do vua Thái Đức mới đào sau.
Truyền rằng:
Phá long mạch của Hoàng Sơn xong thầy
Địa thấy vượng khí đất Tây Sơn vẫn còn thạnh, vì còn long mạch của Trung
Sơn. Long mạch này chạy thẳng xuống hòn Mò O, qua Kỳ Đồng và gò Thành
Cũ. Thầy Địa bèn khuyên Nguyễn Nhạc tạo cho Hoàng Thành (tức thành Đồ
Bàn vừa kiến thiết lại) cái thế “Tứ thủy triều qui” để trước thêm tú khí
cho Hoàng Thành, sau thêm rào dậu để phòng địch. Nhà vua nghe theo, cho
đào sông La Vỹ: long mạch bị thương đến hai nơi, một ở dưới chân hòn Kỳ
Đồng phía trên Thành Cũ, một ở chân hòn Mò O phía Đông Thành Cũ!
Sông La Vỹ vừa đào xong thì lụt làm lở
phía Đông, tức là phía thành Đồ Bàn. Nhà vua liền cho đắp một bờ đê hình
quai vạc gọi là Đỉnh Nhĩ Đê, để giữ nước. Do đó sông La Vỹ mang thêm
một tên nữa là sông Quai Vạc.
Sông La Vỹ hết bị lụt lở ở Đông thì sông
Thạch Yển bị bồi lần lần, mùa nắng nước không xuống được thấu hạ bạn.
Nhân dân ta thán! Kế đó vua Thái Đức băng hà, con là Nguyễn Bảo bị truất
ngôi. Tiếp đến nhà Nguyễn trung hưng, nhà Tây Sơn bị diệt vong…Nhân dân
không mấy lúc được an cư lạc nghiệp. Hết chạy giặc đến đi lính, không
còn thì giờ để lo việc đào cát vét sông.
Mãi đến cuối đời Gia Long (1802-1820)
hai nhà phú hào ở thôn Háo Đức là họ Châu và họ Trần xuất tiền mua đất,
đào lại con sông Thạch Yển. Nhân dân địa phương cảm đức, lập đền thờ.
Vua Minh Mạng phong thần và sắc tứ:
- Châu Thị Ngọc Mã,
- Trần Thị Ngọc Lân.
Đến năm Bính Thìn (1916), triều Khải
Định, Hội Bảo Nông Bình Định do bá hộ Nguyễn Cẩn, bá hộ Lâm Thanh Cẩn,
phú hộ Ôn Huỳnh Châu đứng ra cổ động góp cổ phần, xây đập đá tại thôn
Phương Danh, để dẫn thủy nhập điền.
Từ khi được hai họ Châu, Trần xây lại và
nhất là sau khi đập đá ở Phương Danh xây xong, sông Thạch Yển trở thành
nhánh sông quan trọng. Ghe thuyền lên xuống mỗi ngày mỗi thêm đông. Các
vùng lân cận đã nhờ nước đầy đủ trở nên phì nhiêu, dâu lúa được mùa, mà
còn nhờ sự buôn bán với ghe thuyền, mà thêm trù phú.
Rồi tên Thạch Yển (nghĩa là đập đá) lần lần ít nghe nói đến, và tên Đập Đá (nghĩa là Thạch Yển) càng ngày càng nổi như cồn.
(Còn nữa)
———————————————————————————————————–
Nguồn: Nước non Bình Định – Quách Tấn
Online: http://www.baobinhdinh.com.vn