Trải qua sự thăng
trầm của lịch sử, của thiên tai, nhiều ngôi chùa đã bị tàn phá, song đã
được nhân dân góp công sức, tiền của trùng tu và tôn tạo, đến nay trên
cả nước có tới hàng nghìn ngôi chùa với vẻ đẹp độc đáo qua óc sáng tạo
và bàn tay khéo léo của biết bao nhiêu nghệ nhân và thợ lành nghề.
Tuy
mỗi chùa có một vẻ khác nhau không chùa nào giống chùa nào nhưng có một
điểm chung là đều có một khung cảnh thiên nhiên tĩnh lặng như muốn đưa
con người vào cõi thiền để tu nhân tích đức, làm điều thiện, tránh cái
ác. Bao đời nay, tiếng mõ cầu kinh, tiếng chuông chùa đã để lại ấn tượng
mạnh trong tâm khảm con người Việt Nam, vừa có ý nghĩa tâm linh vừa có ý
nghĩa nhân văn sâu sắc.
Vì có tới hàng nghìn ngôi chùa trong cả
nước, không thể kể hết những nét riêng của mỗi ngôi chùa, chúng tôi chỉ
đề cập những nét đặc trưng kiến trúc và mỹ thuật trang trí của một số
ngôi chùa nổi tiếng.
Chùa Dâu, còn có tên là Diên Ứng, ở làng Dâu.
Ngôi chùa cổ nhất Việt Nam hiện nay, được xây vào đầu thế kỷ thứ 3.
Cuối thế kỷ thứ 4, Thiền sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi đã thuyết pháp tại chùa
này, lập nên thiền phái đầu tiên ở Việt Nam. Chùa được ông Mạc Ðĩnh Chi
dựng lại với qui mô lớn vào thế kỷ 14, và trùng tu nhiều lần ở các thế
kỷ sau.
Ở Hà Nội có Chùa Một Cột, kiến trúc
rất độc đáo với tòa đài dựng trên một cột đá giữa cái hồ vuông. Chùa
hình vuông mỗi chiều 3 m, mái cong dựng trên cột đá hình trụ. Cột có
đường kính 1,2 m, cao 4 m, chưa kể phần chìm dưới đất. Tầng trên là hệ
thống những thanh gỗ tạo thành bộ khung sườn vững chãi đỡ cho ngôi đài
dựng bên trên như một đóa hoa sen vươn thẳng lên khu hồ có lan can bằng
gạch bao quanh. Từ bờ ngoài có cầu thang bằng gạch dẫn lên Phật đài.
Trên cửa Phật đài có biển đề "Liên hoa đài" ghi nhớ sự tích nằm mộng của
vua Lý dẫn đến việc xây chùa. Tương truyền năm 1049, vua Lý Thái Tông
chiêm bao thấy Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen, vua cũng được dắt lên đó.
Khi vua tỉnh giấc đem việc ấy kể lại, sư Thiền Tuệ khuyên vua dựng
chùa. Theo bia chùa Ðọi (Hà Nam) thì quy mô Liên hoa đài thời Lý to hơn
ngày nay nhiều: Cây cột đá giữa hồ Linh Chiểu có đóa hoa sen nghìn cánh
trên dựng tòa điện mầu xanh, trong điện đặt tượng Quan Âm. Vòng quanh hồ
là dãy hành lang. Bên cạnh là ao Bích Trì, mỗi bên đều bắc cầu vồng đi
qua. Phía sân trước cầu, hai bên tả hữu xây tháp lưu ly.
Chùa Bà Ðá xây vào thế kỷ 15.
Tương truyền vào thời Lê Thánh Tông khi đào đất xây thành Thăng Long,
người ta tìm thấy một pho tượng nữ bằng đá vùi sâu trong đất. Người
đương thời cho đó là tượng của Thánh Mẫu bèn lập đền thờ tượng gọi là
đền Bà Ðá. Về sau là nơi thờ Phật. Dưới thời Pháp thuộc chùa bị cháy,
tượng bị mất. Sau chùa được xây lại và tạc tượng Thích Ca thay vào. Chùa
không có tam quan, lối vào là một ngõ hẹp sâu khoảng 9 m. Tiền đường
xây kiểu chữ nhất, trung đường xây kiểu chữ đinh, nối liền với nhau. Các
bộ vì kèo kết cấu theo lối chồng giường. Tượng Phật đều bằng gỗ sơn son
thếp vàng.
Chùa Bút Tháp ở Bắc Ninh vì có ngọn
tháp hình cây bút nên có tên gọi như vậy. Chùa xây từ thời vua Trần
Thánh Tông (1258-1278), khi hòa thượng Huyền Quang đến tu. Ông là một
nhà sư giỏi, đỗ tiến sĩ và là một trong ba vị tổ của giáo phái Trúc Lâm.
Ông cho xây ngọn tháp cao chín tầng, trang trí hình hoa sen. Nghệ thuật
trang trí theo phong cách đời Lý - Trần. Các bức trang trí chạm nổi
trên đá ở cầu đá, ở lan can thượng điện. Chùa là danh thắng từ lâu đã
được xếp hạng.
Chùa Hiến ở Hưng Yên được xây
dựng vào đời Hậu Lê. Có kiến trúc "Nội công ngoại quốc" gồm ba gian tiền
đường, ba gian Thiêu hương và ba gian Hậu cung. Tiền đường và thiêu
hương thờ Phật, Hậu cung thờ Mẫu. Ðây là cách thờ tự rất phổ biến ở các
chùa "tiền Phật, hậu Mẫu". Phần điêu khắc với con rồng đầu đao, kẻ bảy
trạm thể hiện cá hóa long là nét nghệ thuật điêu khắc cổ rất quen thuộc ở
các đình, đền, chùa Việt Nam. Kiến trúc tòa Thiêu hương nổi lên với hai
lớp mái và ống thoát hương mang ảnh hưởng kiến trúc Huế. Chùa Hiến là
một trong 24 công trình kiến trúc xưa nổi tiếng của mảnh đất "thứ nhất
kinh kỳ thứ nhì phố Hiến".
Chùa Keo ở Thái Bình. Năm 1067,
vua Lý Thánh Tông đến lễ chùa, ban tiền tu sửa. Chùa Keo thờ Phật, tòa
Thánh thờ vị sư tổ của chùa là Không Lộ thiền sư. Kiến trúc của chùa
được bố trí từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Ngoài cùng là tam
quan ngoại, đi vòng theo hồ hình chữ nhật vào tam quan nội, tiếp đó là
khu chùa chính, bố trí theo kiểu "nội công ngoại quốc". Ðặc biệt gác
chuông ba tầng của chùa Keo là nơi tập trung cao độ của nghệ thuật điêu
khắc gỗ tinh xảo của thời Hậu Lê. Nói đến chùa Keo Thái Bình, người ta
nhớ ngay đến gác chuông cũng như nói đến chùa Cổ Lễ Nam Ðịnh, người ta
nhớ ngay đến tháp Cửu phẩm liên hoa cao 12 tầng có kiến trúc độc đáo
hiếm có trong hệ thống các tháp Việt Nam.
Cách
Hà Nội 37km về hướng Tây, ở thôn Yên, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất,
tỉnh Hà Tây có một quả núi cao khoảng 50m nằm trên một địa thế rất đẹp:
giữa một rừng cây cối tre trúc xanh rờn che kín những mái nhà tranh ẩn
trên sườn núi.
Đó là núi Câu Lậu. Có tài liệu cho rằng sở dĩ
ngọn núi này có tên như vậy vì hình nó cong cong như chiếc lưỡi câu.
Nhưng xét về từ nguyên học, thì tên núi theo âm cổ vốn là "Klâu", nghĩa
là núi Trâu, về sau có sách vở ghi theo âm chữ Hán là Câu Lậu. Người ta
sẽ hiểu được điều này khi đứng từ xa nhìn ngọn núi này kết hợp với các
ngọn đồi vùng Kim Quan tạo thành một dãy núi đồi chạy dài từ Ba Vì xuống
giữa đồng bằng, trông chẳng khác nào một đàn trâu mà núi Câu Lậu là con
trâu mẹ đang quay đầu nhìn lại đàn con.
Chùa gồm 3 nếp nhà làm bằng
gỗ lim rắn chắc xếp theo hình chữ "Tam": tòa bái đường, tòa chính điện
và tòa hậu cung. Ba tòa nhà này cách nhau 1,60m, tạo nên một nhịp điệu
kiến trúc độc đáo. Hệ thống cửa sổ hứng lấy ánh sáng lung linh từ bên
ngoài, tạo cho nội thất một khung cảnh thoát tục, phù hợp với triết lý
sắc sắc không không của nhà Phật.
Mỗi nếp chùa có hai tầng mái
kiểu chồng diêm, tám mái và tám góc là các đầu đao vươn lên cong vút với
những đường nét nổi lên hình hoa, lá, rồng, phượng. Vật liệu xây chùa
chủ yếu là gạch Bát Tràng để trần, các cột gỗ đều kê trên tảng đá xanh
tròn khắc hình cánh sen. Mái lợp gồm hai lớp ngói: lớp trên là ngói đầu
mũi đúc hình lá đề nổi, lớp dưới là ngói lót hình vuông sơn ngũ sắc.
Xung quanh diềm mái của ba tòa nhà đều chạm trổ tinh tế theo hình lá
triện cuốn, trên mái gắn nhiều con giống bằng đất nung.
Chùa Hương nằm trên địa bàn xã Hương Sơn,
huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội 60km. Thật ra chùa Hương không
phải là một ngôi chùa mà là một hệ thống chùa chiền, đền thờ và hang
động nằm trong khu vực có những ngọn núi đá vôi và rừng nhiệt đới, diện
tích tất cả khoảng chừng 6km2.
Theo truyền thuyết, vùng núi có
hang động này được tìm thấy cách đây hơn hai nghìn năm và đã được đặt
tên Hương Sơn - lấy tên một ngọn núi ở phía Bắc Tuyết Sơn trong dãy
Himalaya (Ấn Độ), nơi đức Phật đã ngồi tu khổ hạnh suốt 6 năm ròng rã.
Đời Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã có am thờ Phật dựng trên mảnh dất
chùa Thiên Trù.
heo sách Hương Sơn Thiên Trù thiên phú thì chùa Hương
được xây dựng từ đời Lê Huy Tông niên hiệu Chính Hòa (1680 - 1705). Bia
tại chùa Thiên Trù có ghi rằng việc xây dựng nền đất, bậc đá và tôn tạo
Kim Dung bảo điện của chùa được thực hiện vào năm 1686 ; còn pho tượng
chính trong chùa - tượng Bồ-tát Quan Âm - xưa kia vốn bằng đồng được đúc
năm 1767.
Hàng năm, hội chùa Hương mở từ ngày mồng sáu tháng
giêng đến rằm tháng ba âm lịch , trải dài trên ba tuyến chính: tuyến
động Hương Tích, tuyến chùa Tuyết và tuyến chùa Long Vân. Trên thực tế,
suốt trong tháng giêng và tháng hai, cảnh chùa luôn luôn đông vui tấp
nập và khách thập phương chủ yếu vãn cảnh chùa theo tuyến động Hương
Tích.
Chùa Thiên Mụ hay còn gọi chùa Linh Tự là ngôi chùa cổ nhất,
kiến trúc đồ sộ nhất và cũng là ngôi chùa đẹp nhất của xứ Huế. Chùa được
dựng trên đồi Hà Khê (thuộc địa phận xã Hương Long) bên tả ngạn sông
Hương, cách trung tâm thành phố khoảng 6 km về phía tây. Tên chùa gắn
với huyền thoại bà tiên áo đỏ được lưu truyền rộng rãi. Bởi vậy chùa có
tiên là Thiên Mụ (bà tiên trên trời).
Truyền thuyết xưa kể lại
rằng: Đồi Hà Khê rất thiêng, khoảng đời nhà Đường có viên đại tướng tên
là Cao Biền từng đi khắp các nơi núi non sông biển nước ta xem nơi nào
có khí linh thiêng thì tìm cách yểm đi. Cao Biền thấy trên đồi Hà Khê có
khí thiêng, bèn đào sau chân đồi để cách mạch đi, khiến cho linh thiêng
về sau không cư tụ được. Đêm hôm đó bỗng có một người đàn bà thể sắc
trông thì còn trẻ nhưng mái tóc bạc phơ, mình vận áo đỏ ngồi dưới chân
đồi than vãn, rồi cất tiếng nói to: "Đời sau nếu có bậc quốc chủ muốn
bồi đắp mạch núi để làm mạch cho Nam triều thì nên lập chùa thờ Phật,
thỉnh cầu linh khí trở về nơi núi này để phúc dân giúp nước, tất không
có gì phải lo". Người đàn bà ấy nói xong biến mất. Từ đó gò đất được gọi
là núi Thiên Mụ
Khoảng năm 1601, Nguyễn Hoàng tức chúa Tiên, vị
chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong sau khi rời kinh đô Thăng Long đem
quân vào đây định kế lâu dài, một hôm đi qua nơi này, thấy địa thế đẹp,
hàng dẫy đồi chập chùng như uốn khúc bên sông, đặc biệt thấy một gò cao
dáng tựa như chiếc đầu rồng đang ngoái nhìn về phía núi mẹ, lại nghe sự
tích kể trên, ông tự nhận mình là vị chúa được bà tiên nói đến. Ông ra
lệnh xây dựng chùa Phật và cho đề chữ "Thiên Mụ Tự" (chùa Thiên Mụ). Từ
đó dân chúng đến cầu đều thấy linh thiêng ứng nghiệm.
Ở TP Hồ Chí Minh có
gần một nghìn ngôi chùa, trong đó có những ngôi chùa có lịch sử hơn hai
trăm năm như: Từ Ân, Giác Lâm, Hội Sơn, Huê Nghiêm, Phước Tường và Long
Thạnh. Các chùa cổ ở TP Hồ Chí Minh thường bố trí gian thờ Phật ở phần
trước của chính điện và có một bức tường ngăn để phía sau thờ Tổ khác
với phía bắc nhà thờ tổ thường được xây sau, chính điện qua một cái sân.
Còn kiến trúc các chùa mới Vĩnh Nghiêm, Xá Lợi, Ấn Quang, Pháp Hội...
thì đều có lầu và đúc bê-tông cốt sắt thay vì dựng khung gỗ. Kiến trúc
các chùa ở TP Hồ Chí Minh có những nét riêng nhưng đều thể hiện phong
cách kiến trúc đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Mỹ thuật Phật giáo trong
các ngôi chùa được thể hiện các bàn thờ được làm bằng gỗ quý đen bóng,
gờ mặt và chân không chạm trổ chỉ có rèm phía trước được chạm lộng rất
công phu. Các bao lam Bá điểm, Thập bát La Hán, Hoa điểu chạm lộng cả
hai mặt như nhau là những công trình điêu khắc rất có giá trị. Các câu
đối, hoành phi, phù điêu đều là những công trình điêu khắc nổi tiếng của
các nghệ nhân cùng nhiều nhóm thợ từ miền bắc, miền trung kết hợp với
các nhóm thợ ở Thủ Dầu Một, Cần Ðước, Thủ Ðức... và được tiếp nối mãi về
sau này khi xây dựng chùa mới. (*)
Phác họa qua một số ngôi chùa
về kiến trúc và mỹ thuật trang trí, có thể thấy các chùa Việt Nam gắn
bó rất mật thiết với trình độ và phong cách kiến trúc, điêu khắc của dân
tộc ta trong các thời kỳ lịch sử, gắn bó với đời sống xã hội qua các
triều đại. Ở đó thể hiện tinh hoa và bản sắc văn hóa Việt Nam, thể hiện
óc sáng tạo và bàn tay khéo léo của các nghệ nhân và thợ lành nghề Việt
Nam từ đời này qua đời khác. Hầu hết các tượng Phật cổ là những tác phẩm
nghệ thuật điêu khắc nổi tiếng, hẳn chúng ta phải thán phục khi chiêm
ngưỡng bức tượng Phật nghìn mắt nghìn tay được mô phỏng ở các chùa hiện
đang được đặt tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, 18 pho tượng La Hán ở chùa
Tây Phương, 287 pho tượng ở chùa Mía, Sơn Tây trong đó có những pho đạt
tới đỉnh cao nghệ thuật như tượng Tuyết Sơn, Quan Âm Tống Tử, tượng Bát
Bộ Kim cương... Ðến nay, chúng ta đúc được bức tượng phật đồng nặng 100
tấn nguyên khối tại Bái Ðính Ninh Bình, có thể xây dựng những Thiền
viện Trúc Lâm ở Ðà Lạt, Yên Tử (Quảng Ninh), Tây Thiên (Vĩnh Phúc), Bạch
Mã (Thừa Thiên - Huế) là nhờ đã tiếp thụ được những tinh hoa nghệ thuật
của cha ông.
Vẻ đẹp kiến trúc và mỹ thuật điêu khắc ở các ngôi
chùa Việt Nam đã tạo nên sức hấp dẫn khách thập phương ở trong nước và
quốc tế, đóng góp cho sự phát triển du lịch nước nhà, giới thiệu với các
nước trên thế giới nét độc đáo của văn hóa Việt Nam. Trách nhiệm của
mỗi người chúng ta là phải giữ gìn những di sản văn hóa đó, càng giữ
nguyên trạng càng tốt, nhất là khi trùng tu tôn tạo. Kiến trúc và điêu
khắc ở mỗi ngôi chùa được bảo tồn và giữ nguyên trạng càng tôn thêm vẻ
đẹp cổ kính đầy bản sắc của các ngôi chùa Việt Nam.
Nguồn: Nigioingaynay