Đây là ngõ chùa Hưng Ký, cạnh số nhà 228 phố Minh Khai
Không phải được xây dựng
từ gỗ, gạch ngói thông thường, ở Hà Nội có một ngôi chùa được làm từ
gốm sứ độc nhất vô nhị, ít người biết đến là chùa Hưng Ký (phố Minh
Khai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội). Ngôi chùa được xem là công trình kiến
trúc nghệ thuật độc đáo này được xây dựng từ cuối vương triều Nguyễn.
Chùa Hưng Ký - cái tên nôm na ấy mang tên của người tạo
dựng nên nó. Chùa này do một nhà tư sản là Hưng Ký, chủ nhà máy gạch
ngói Sông Đuống, Yên Viên xây dựng, trên địa phận làng
Hoàng Mai thuộc thôn Đoài, Hà Nội. Chùa có tên
chữ là Vũ Hưng Tự và mang hiệu là Võ Hưng Truyền Am. Chùa xây xong (
1931 - 1934), Hưng Ký đem chùa hiến cho làng nhưng các bậc Trưởng Lão
làng Hoàng Mai không nhận ( Có lẽ họ không muốn làng chịu ơn một người
tuy là người làng nhưng xuất thân hèn kém). Hưng Ký bèn xin xây đường
làng từ ngoài đường cái đến đền Lừ cũng bị hào lý gây khó dễ mãi mới cho
xây.
Hưng Ký tên thật là Vũ Thị Sau, xuất thân con nhà nghèo
có nhan sắc, thông minh nhưng số phận long đong phải ra phố làm gái
giang hồ, sau lấy người khách trú tên là Trần Văn Thanh. Vợ chồng buôn
bán giàu có, vợ có tài tháo thầu khoán,chủ hãng xe tay, xây nhà cho
thuê. Sau mua lại nhà máy gạch ngói Yên Viên của Pháp, sản xuất gạch
ngói cung cấp đi khắp nơi, cạnh tranh với các xí nghiệp của Pháp và Hoa
kiều.
Chùa làm hết 200.000 nghìn đồng, tính theo thời giá năm 1931 - 1932 thì mười đồng một tạ gạo.
Bà Vũ Thị Sau tuổi ngoài năm mươi thì bị lên Hậu bối không chữa được,
lúc sắp chết vì không có con, đem của chia cho họ hàng nghèo mỗi người
tùy thân sơ, từ 100 đồng đến 500 đồng. Đám ma có nhiều quan lại tai to
mặt lớn tỉnh Hà Đông đến dự, người đưa và cả người đi xem đông hàng mấy
nghìn người, ai cũng được nhận phong bao một đồng (theo Nguyễn Văn Uẩn).
Chùa Hưng Ký thờ Phật theo phái Thiền Lâm Tế và
cũng là một trong những ngôi chùa có chốn Tổ ở Đào Nguyên (Gia Lâm).
Chùa hiện còn bảo tồn khá nguyên vẹn các hạng mục kiến trúc cơ bản bao
gồm tam quan, tòa Tam bảo, hậu Tổ, nhà bia, trai đường, bên cạnh là đền
Mai Sau, nơi chủ nhân dựng chỗ thờ cúng, cắt ruộng hậu, báo đáp công ơn cha mẹ và đình thờ Tam Thánh.
Tìm hiểu thêm về Thiền phái Lâm Tế ở đây:http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2m_T%E1%BA%BF_t%C3%B4ng
Dân cư buôn bán ngay trước cổng Tam Quan do bị nhà dân bao vây hết xung quanh, nhà chùa đành thúc thủ.
Hộ Pháp hai bên Tam Quan nay đành bất lực đứng nhìn dân lấn chiếm.
Khuôn viên của chùa gồm 3.000 m2, các hạng mục kiến
trúc của chùa từ tam quan, tam bảo đến phật điện, nhà tổ đều được
trang hoàng bởi những bức cuốn bằng gốm sứ, tạc khắc hoa văn tinh xảo
qua gần 80 năm vẫn còn bóng màu men gạch.
Cửa chùa nay thành ngõ của dân.
Bốn cột đồng trụ đỉnh có chạm chim phượng, lồng đèn
và đắp tứ linh. Cổng chính gồm tứ trụ nối với tam quan tạo nên thế nguy
nga, vững chãi. Hai mặt ngoài cổng phụ có đắp phù điêu hình voi ngựa,
tám góc mái chạm hình rồng chầu nguyệt. Nhưng nay lại trở thành cổng chính!
Cửa vào hiện nay vốn là cổng phụ.
Các mặt trụ đều có câu đối chữ
Hán, chữ Nôm bằng sứ tráng men màu trông hệt như một bức tranh thủy mặc.
Tòa tam bảo kiến trúc theo kiểu tường xây, chia làm 7 gian gồm 12 cột
chính, mỗi cột cao 7 m, vuông 30 cm. Mái chùa được lợp ngói ống, đầu
gắn chữ "Thọ".
Hoạ tiết trang trí trên nóc mái đều bằng gốm
Trên nóc mái có bày chính giữa một chiếc nậm đựng nước
cam lồ, thứ nước mà nhà Phật dùng để cứu độ chúng sinh...
Tượng Quan Âm đặt trên hòn giả sơn, dưới là hồ nước có rất nhiều rùa và cá vàng.
Lối lên Tam Quan ngay cạnh cổng vào
Tam quan đẹp thế này mà không được trùng tu bảo dưỡng, nhưng thế có khi
lại may, để lũ chân tay to đến phá như vô số di tích thì thà chết còn
hơn.
Tam Quan nhìn từ bên trong, trên tầng hai có một chú Tiểu đang học bài.
Hoạ tiết này chưa từng thấy, Rồng phun nước cho cá Chép theo lên.
Bước vào Tam Bảo, ta như lạc vào một thế giới khác, không thể diễn tả bằng lời, chỉ tự thân trải nghiệm qua mới hiểu.
Một di sản quý giá nữa mang tính thẩm mỹ cao ở chùa
Hưng Ký đó là 3 pho tượng gỗ đồ sộ: Đức Phật A Di Đà cao 3,86 m làm
bằng gỗ phủ sơn, tượng Phật Di Lặc cũng bằng gỗ sơn son và tượng Phật
Thích Ca đản sinh. Ngoài ra, hai gian đầu hồi tam bảo còn có hai tòa
Thập điện Diêm vương được cấu trúc theo kiểu động, miêu tả chân thực
cảnh sống nơi trần gian và ngục tối.
Đức Hộ Pháp
Thập điện Diêm Vương ( bên phải Tam Bảo )
Đức Hộ Pháp
Thập Điện Diêm Vương (bên trái Tam Bảo)
Lối nhỏ bên hông dẫn ra phía sau, nơi có tòa Phương đình để bia hậu, ghi rõ công đức của nhà Hưng Ký.
Đây là nơi để các Thầy tu tập Phật pháp, xây mới hoàn toàn nhưng khá ăn
nhập với các kiến trúc cũ, chỉ tiếc là xây cao hơn Tam Bảo nên không
được hoàn hảo.
Trong sân chùa có hai toà tháp, vẫn đang ngổn ngang vôi gạch trùng tu
Chùa Hưng Ký vẫn giữ chặt cái niêm luật của nhà
Phật vốn có của các ngôi chùa cổ ra đời trước đó. Từ ngoài vào là tam
quan 3 tầng, tầng thứ hai treo một quả chuông lớn, tầng dưới cùng có 3
cửa có tên lần lượt là Giả Quan, Trung Quan và Không Quan. Đi qua sân
lớn lát gạch là tới Tam bảo có dạng chữ đinh với ba gian Tiền Đường,
Thiên Hượng và Thượng Điện. Có một điều đặc biệt là Thượng Điện của chùa
là nơi thờ Phật khác hẳn với các ngôi chùa khác. Nơi đây thờ bộ ba Phật
A Di Đà ở giữa, hai bên là đức Quan Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát (A Di Đà
tam tôn), đây là những đức Phật thường ra tay cứu vớt chúng sinh thoát
khỏi vòng luân hồi để trở về cõi Tây Phương cực lạc. Điều này cũng lý
giải cho việc cửa chùa mở về hướng tây. Ngoài ra còn có tám bức tranh và
nhiều pho tượng nhỏ khác nói về các cảnh đời của Phật. Tuy là một ngôi
chùa có lịch sử không lâu đời nhưng Vũ Hưng Tự lại có sức thu hút đặc
biệt bởi nghệ thuật kiến trúc rất phong phú và đa dạng. Bộ vì kèo trong
chùa được làm bằng ganitô giả đá kết hợp với các mảnh sứ ốp tường có
nhiều màu sắc đã tạo nên một bức tranh màu sống động và làm tôn thêm vẻ
uy nghiêm vốn có. Mái chùa được làm từ ngói ống cùng với các tượng sứ
nhiều màu ghép lại trên các diềm mái nói về các sự tích nhà Phật, sự vất
vả tìm về chốn Tổ linh thiêng của các tín đồ và đồng thời còn nói lên
những tâm tư, tình cảm của các nghệ nhân gởi gắm lòng tin về nơi đất
Phật. Điều này tạo ra sự hòa quyện giữa cái ảo với cái thật và sự thiêng
liêng.
Chùa Hưng Ký cùng với quần thể kiến trúc tôn giáo
nơi đây là cả trang sử mỹ thuật ghi bằng hình tượng cộng với phong cách
kiến trúc nghệ thuật chứa đựng tính cách dân tộc giữa cảnh đời nô lệ
thời Pháp thuộc. Việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa các vật liệu xây dựng
hiện đại với phong cách kiến trúc cổ truyền của dân tộc đã tạo ra một
ngôi chùa tuy ra đời muộn màng nhưng lại có một không hai trong lịch sử
kiến trúc Phật giáo Việt Nam .
Hình trang trí trên mái nhà đều bằng gốm
Đây là Lan Anh, cô cháu gái cùng đi. Đi theo lối nhỏ qua cổng này cũng
dẫn đến khu nhà bia phía sau, không cần phải vòng lên Tam Bảo.
Giá trị chủ yếu của di tích chùa Hưng Ký là kiến
trúc và nghệ thuật trang trí trên kiến trúc. Đặc biệt là sử dụng gốm
nung có men nhiều màu sắc kỹ thuật cao để thể hiện các chi tiết từ kết
cấu đến trang trí; từ nóc mái đến tường trụ, từ tam quan chùa và các
công trình khác. Đó thực sự là một công trình kiến trúc mỹ thuật đặc
sắc. Bên cạnh đó, chùa Hưng Ký còn bảo tồn hầu như nguyên vẹn những bức
tranh ghép bằng sứ có giá trị nghệ thuật khiến cho các thế hệ ngày nay
phải thán phục trước cái tinh tế của những nghệ nhân vô danh xưa mà chỉ
Hưng Ký mới có được
Vậy mà hiện nay chùa xuống cấp nghiêm trọng do dân lấn chiếm hầu hết đất chùa.
Cửa chính bị đóng lại.
Phía ngoài làm rào sắt, không dùng cổng chính được nữa? Đây là hiện
tượng khá phổ biến ở Hà Nội, sở dĩ như vậy vì có một dạo người ta coi
đây là tàn tích phong kiến, mê tín,hủ lậu nên mặc kệ cho dân tình mặc
sức xâm hại, nay hối thì đã muộn.
Bây giờ có mà phục hồi, lấy đâu ra nghệ nhân bây giờ.
Biển của Bộ VH chẳng có giá trị gì đối với người dân. Giữ chùa hay phá
chùa là do dân và vị trụ trì quyết định là chính, các vị khác có tính
chất thủ tục.
Đây
là mảnh ghép cuối cùng trên cổng chùa, ngôi chùa độc nhất vô nhị ở Hà
Nội khiến ta dù bước chân đi nhưng vẫn muốn quay trở lại thêm nhiều lần
nữa.
Phía sau chùa là Đình Tam Thánh và Đền Mai Sau, chúng tôi sẽ đưa lên vào dịp khác.