BỔ SUNG THÊM:
LƯỢC SỬ SẮC TỨ TỔ ĐÌNH THẮNG QUANG TỰ
1- Địa thế, cảnh trí:
Dãy trường sơn chạy dài từ Bắc xuống Nam,đến miền trung có các nhánh nhô
ra biển tạo thành những đèo như:đèo ngang, đèo hải vân.. đến cuối tỉnh
Quãng Ngãi có dãy núi Kim bồng –Thạch Tân đâm ra tận biển làm ranh giới
cho hai tỉnh Quảng ngãi- Bình Định
Thạch tân có đèo Bình đê
Có núi Đầu rồng mặt ngoảnh vào nam
Trong dãy núi này ở thôn Hy tường, Xa Hoài Sơn, Huyện Hoài Nhơn, tỉnh
Bình Định có một ngọn núi với độ cao khoảng 100m, hình tượng giống như
Đầu rồng, tục gọi là núi cây xay, Chùa Thắng Quang toạ lạc tại núi này
(tục gọi là chùa cây xay).
Cảnh trí và phong thuỷ ở đây thật là khác lạ. Theo các nhà phong thuỷ
thì cho đây là núi đầu rồng, ngôi chùa toạ lạc trên lưởi rồng, trước đây
nơi sân chùa là một hồ nước (hồ lưởi rồng), nước Nquanh năm không hề
khô cạn, đến nay chỉ còn lại dấu tích là từ sau chùa có một mạch nước
ngày đêm luôn chảy đến trước chùa rồi theo khe núi chảy xuống đồng bằng.
Đứng trước cổng chùa, du khách nhìn xa xa ra phía Đông là biển xanh
phẳng lì như một đường mây liếp tận chân trời bao la. Cảng cá Tam Quan
tàu bè ra vào tấp nập, phía Tây là dãy trường sơn hùng vĩ. Buổi sáng khi
mặt trời mọc ở hướng đông, ánh quang minh vừa chiếu sáng thì có một tia
nắng chiếu vào sân chùa (một điều kỳ lạ mà trên núi knông phải chổ nào
cũng có).
2 - Thảo am đầu tiên và tổ khai sáng
Núi đầu rồng nổi tiếng là linh địa, vì ở đây có hai mẹ con cọp trắng,
dân làng không ai dám lên đây, mặc dù biết nước ở hồ Long Thiệt dùng rất
tốt, nhất là những năm khô hạn.
Dưới triều Hậu Lê vào năm 1692 thuộc thời chúa Nguyễn Phúc Chu – đời vua
Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hoà. Mùa nắng năm này thật là khắc nghiệt,
cả làng Hy Tường thiếu nước. Nhiều người dân muốn lên hồ Long Thiệt lấy
nước về dùng mà đều sợ cọp không ai dám lên.
Bỗng một hôm dân làng thấy một nhà sư, chẳng biết từ đâu tới đi thẳng
lên núi theo đường mòn đến hồ nước, bỏ mặc sau lưng tiếng gọi của mọi
người. Dân làng cứ ngỡ nhà sư đã bị cọp làm hại. Nhưng lạ thay,tối hôm
ấy ở nơi hồ nước có ánh đèn toả sáng, người ở xa vẫn trông thấy.
Phải đến ba, bốn đêm như vậy, dân làng có người mới bạo dạn lên núi đi
đến nơi hồ nước. Một là mong lấy được nước đem về dùng, hai là xem tại
sao có ánh sáng đèn, ba là xem thử nhà sư bây giờ ở đâu?
Đến nơi người ta thấy nhà sư đang phát dọn quanh hồ,và đã phát dọn rộng
con đường đến hồ. Thấy lạ và ngạc nhiên nên có người hỏi ”Thưa sư cụ hai
cọp trắng bây giờ ở đâu?” On tồn sư đáp: “ Các vị đừng lo nữa – hai con
cọp tôi đã thuần phục rồi, bây giờ nó đang ở trong cái hang phía Tây
của hồ nước và lo tu hành không còn hại dân làng nữa, may thay hôm nay
các vị lên đây,Tôi định vài hôm nữa khi phát dọn xong đường sẽ xuống núi
tin cho dân làng lên lấy nước về dùng, vậy tôi nhờ các vị về báo với
dân làng giúp Tôi việc này.
Tin Sư cụ thuần hoá cọp Trắng được truyền đến mọi người , làm cho cả
làng vui vẽ không còn lo không có nước sử dụng trong mùa khô hạn này,dân
làng cùng nhau lên núi lấy nước về dùng và đem phẩm vật cúng dường cho
Sư cụ.
Các Bô lão, Hương chức trong làng xin sư cho phép cất một am tranh nhỏ
sau hồ, và mời sư ở lại đây tiếp tục hàng phục thú dữ,bảo vệ dân làng,
Sư đồng ý, và chỉ xin làm đơn sơ để tốn ít công của, đồng thời sư cũng
cần nhập thất một tuần nữa để tiếp tục thuần hoá hai cọp.
Sau một tuần nhập thất,thì công việc cất am tranh cũng hoàn thành,nhà
sư từ trong hang cọp bước ra, thấy am tranh to lớn, Sư có vẻ trầm ngâm.
Đến lúc Hương chức thỉnh sư vào am làm lể an vị phật thì Sư mới thong
thả bước vào. Với nghi thức trang nghiêm; Sư tỉnh toạ hồi lâu,sau đó mới
làm lể an vị phật, có đông đảo dân làng cùng tham dự.
Sau khi lể an vị phật xong,dân làng và hương chức bày lể dâng vật phẩm
cúng dường Sư và xin sư đặt tên thảo am, cũng như xin sư cho dân làng
biết pháp hiệu của Ngài. Sư ôn tồn bảo “ đây là linh địa,bần đạo thiếu
duyên với nơi này, do vì cọp dữ mà bần đạo phải đến đây, khi hoá độ hai
cọp xong bần đạo lại trở về núi cũ, sau này sẽ có một vị cao Tăng đến
đặt tên thì nơi này sẽ trở thành một tòng lâm có tiếng, do vậy không cần
phải biết tên của bần đạo, mà mọi người phải chăm lo tu học gieo nhân
lành chờ ngày đó “
Bây giờ từ thảo am trở thành chùa làng ở tại rừng xay, nên dân làng thường gọi là chùa cây xay.
Thấm thoát hơn 20 năm trôi qua,dân làng yên ổn làm ăn, hàng thángvào
ngày rằm, mồng một lên núi cùng sư tu học,bổng một hôm dân làng lên chùa
thì không thấy Sư, tìm kiếm mãi cũng chẳng thấy, khi đến hang cọp thì
thấy miệng hang đã lấp, trước miệng hang có tờ giấy sư viết” việc đã
xong Tôi đi, dân làng chờ thời gian sau nữa đủ thuận duyên sẽ có cao
Tăng dến ”. Dân làng đào miệng hang ra thì thấy hai cọp đã chết, sư lấy
vải bọc lại cẩn thận.
Mọi người nhớ thương Sư, bèn cùng nhau xây tháp tưởng niệm Ngài, và lấp
kín miệng hang để bảo tồn di the của hai cọp, ( đến năm 1948 thì di thể
của hai cọp không còn nữa)
3 - Tổ Khai Sơn: Minh Giác – Kỳ Phương (1717-1744)
Đúng như lời của Sư cụ ẩn danh khoản hai tháng sau khi Ngài ẩn tích vào
tháng 7 năm 1717 có Ngài Minh giác-Kỳ Phương trụ trì chùa Thập Tháp Di
Đà, xã Nhơn thành,Huyện An nhơn,tỉnh Bình định đã vân du đén Hoài nhơn
nghe câu chuyện ở chùa cây xay, nên Ngài đã dến thôn Hy tường. Ngài được
các Hương chức,Bô lão trong làng mời Ngài lên núi xem chùa. Khi Ngài
đến chùa, lể Phật xong,chư vị bô lão kể lại chuyện hai mươi năm về trước
và cũng như lời thọ ký của Sư ẩn danh về việc đặt tên cho chùa.
Sau đó các vị Hương chức,Bô lão va dân chúng trong làng nhất tâm tha
thiết cung thỉnh Ngài đặt tên cho chùa, cùng cầu mong Ngài ở lại hoăng
pháp độ sanh, Ngàivui vẻ nhận lời và đặt tên chùa là “ Thắng Quang tự “.
Đặt tên xong, Ngài trở về chùaThập tháp công bố tin này cho đồ chúng,
rồi dẫn đệ tử theo ra chùa Thắng Quang để tổ chức lể đặt tên, ngày 19
tháng 9 năm Đinh dậu (1717) lể đặt tên chính thức chùa Thắng quang dược
chư sơn của hai phủ Hoài nhơn và Tư Nghĩa chứng minh.
Thắng Quang tự được Tổ Minh Giác – Kỳ Phương đạt tên khai sơn,Ngài
thuộc dòng lâm tế đời thứ 34. khi công việc đã ổn định, Ngài giao cho đệ
tử là Thiệt Tâm – Thiện Trực ở lại trông coi, còn Ngài trở về chùa Thập
tháp
Trong thời kỳ này thì việc học và tu theo phật ở đất Hoài nhơn đã đựoc
phát triển. tương truyền có nhiều cư sĩ tại gia quy y theo Ngài, có vị
đã phát tâm tu theo hạnh Bồ tát. Chứng tích còn để lai là tại sân trường
Trung Học cơ sở Tam Quan Bắc có ngôi tháp cổ của Trường Quang Đại sư,
thuộc dòng lâm tế đời thứ 35.
Cơ duyên hóa Đạo của Ngài đã mãn,ngày 16 tháng 03 (âm lịch ) năm 1744,
sau khi dặn dò đồ chúng Ngài thu thần thị tịch tại chùa Thập tháp. Tháp
của Ngài hiện nay tại chùa thập tháp, còn ở chùa Thăng Quang chỉ có long
vị thơ ngài.
Trú trì ( thứ 3 ), Thiền Sư Thiệt Tâm - Thiện Trực ( 1744 – 1759 )
Ngài thuộc dòng lâm tế đời thứ 35. ngài sinh năm 1694 tịch năm 1759 là
đệ tử của Ngài Minh Giác –Kỳ Phương theo thầy ra chùa Thắng quang, từ
ngày đặt tên chùa sau đó được Thầy giao phó công việc tại chùa đến ngày
Thầy viên tịch thì chính thức giữ chức trụ trì.
Trong đời Ngài từ chùa làng cây xay đến có tên là chùa Thắng quang, có
Tăng chúng thành một tòng lâm, tất nhiên phải xây dựng rất nhiều. Tượng
đức Phật bổn sư hiện ở chùa được tôn tạo trong thời ngài.
Ngài Thiệt Tâm- Thiện Trực được bổn sư giao phó trách nhiệm công việc
của chùa đến khi ngài viên tịch, ngài giữ chức trụ trì tất cả là 42 năm.
Đến năm 1759. cơ duyên hoá đạo tròn đầy, ngài giao lại cho đệ tử là Tế
Hội thiền tôn rồi thu thần thị tịch vào ngày 24 tháng 4 năm đó.
Trù trì ( thứ 4 ) Hoà Thượng Tế Hội Thiền Tôn ( 1759 …………….)
Hoà Thượng Tế Hội Thiền Tôn thuộc đời pháp thứ 36 dòng lâm tế là đệ tử
của Ngài Thiện Trực. sau khi bổn sư viên tịch ngài lên kế vị thầy làm
Trụ trì chùa Thắng Quang vào năm1759.
Ngài thế danh là gì? quê quán ở đâu không rõ. Ngài trụ trì vào thời kì
nhà Nguyễn, Tây Sơn kỳ thị giới Tăng lữ và chùa lại nằm trong vùng
thường xảy ra giao tranh giữa hai quân Nguyễn, bởi vây chùa rơi vào cảnh
Tăng tàn tự hoại.
Dòng kệ “ Tổ Định Tuyết Phong ” do Ngài Kì Phương truyền tại Thắng Quang đến đời Ngài thì dứt.
Ngài tịch ở đâu? Năm nào? Hay đi đâu vẫn chưa rõ. Vì đây là thời kì đen tối nhất của Chùa Thắng Quang.
Tổ trùng kiến: Hoà thượng Toàn Định- Bảo Tạng( 1822 – 1842 )
Ngài tên tục danh là: Ngô Văn Thuỵ người Làng Hội An, xã ô liêm, huyện
Bồng Sơn, Phủ Qui Nhơn, Trấn Bình Định; nay là Thôn An Hội, Xã Hoaì Sơn,
Huyện Hoài Nhơn, Tỉnh Bình Định.
Ngài sinh ngày 6/ 10 / 1789. năm 14 tuổi ( 1803 ) theo cha đến Thị Xã
Hội An, Quãng Nam. Ngài đến chùa Phước Lâm gặp Hoà Thượng Minh Giác, Huý
Pháp Kiêm,Tự Luật Oai thấy dung mạo uy nghi của Hoà Thượng ngài cảm mến
và xin được xuất gia ở chùa.
Hoà thượng Minh Giác thu ngài làm Đệ Tử quy y thế độ, đặt pháp danh là Toàn Định,thuộc dòng lâm tế đời thứ 37.
Theo thầy tu học suốt 18 năm được Bổn Sư phó pháp. Vào tháng chạp năm
1821 ngài xin Bổn Sư cho về quê thăm cha mẹ, đến ngày 14 / 2 / 1822 ngài
vân du đến Thôn Hy Tường được Bô lão, Hương chức mời ngài lên thăm Chùa
Thắng Quang, thì thấy cảnh hoang phế đã lâu, dân làng cùng tín đồ ở địa
phương yêu cầu Ngài và cung thỉnh Ngài ở lại để duy trì Chùa Thắng
Quang, Ngài hoan hỷ nhận lời ở lại và chính thức là Tổ Trùng kiến
Rằm tháng ba năm 1823, Ngài trở về Chùa Phước Lâm, đem duyên sự tác Bạch
cùng Bổn Sư, được Bổn sư đồng ý cho Ngài trở về chùa Thắng Quang vận
động tín hữu xây dựng lại ngôi cổ tự này.
Tháng 4 năm 1830(canh dần), Ngài được Bổn sư gọi về chùa Phước lâm phó
chúc làm chức Đô tự, đứng đầu chư Tăng, tháng 8 năm 1830, Bộ Lể tuân chỉ
dụ của Hoàng Đế cấp Độ điệp và Giới đao cho Ngài và cử Ngài làm Trụ trì
chùa Phước Lâm thay Bổn sư tuổi đã già, sức yếu.
Ngài nghĩ còn tâm nguyện xây dựng chùa Thắng Quang chưa hoàn thành nên
khẩn thiết xin Bộ Lể, Đại thần cùng Bổn sư từ bi cho Ngài trở lại chùa
Thắng Quang để hoàn thành tâm nguyện, vì cũng như trước đó, Sư Huynh của
Ngài là sư Toàn chiếu, tự Trí Minh, hiệu Bảo ấn đã được Bổn sư cho vào
Quảng Ngãi trùng kiến chùa Thiên An.
Bổn sư thấy tâm nguyện của Ngài là đúng, và ánh đạo có cơ duyên được
xiển dương ở chùa Thắng Quang, nên cử sư đệ của Ngài là Hoà Thường Toàn
Nhiệm, tự Vi ý, hiệu Quán Thông làm trụ trì chùa Phước lâm. Từ đây Ngài
toàn tâm,toàn ý lo chùa Thắng Quang.
Năm Minh mạng thứ 17 (1836 ) Ngài cho xây dựng Chánh Điện, năm 1837 cất
nhà Đông, năm1840 tu bổ tháp vọng Tổ khai sáng, năm 1841 cất nhà Tây.
Toàn bộ cơ ngơi này vẫn còn đến đời Hoà Thượng Khánh Quý trụ trì (1920-
1943 ) mới thay dần bằng ngói, nhưng nền móng củvẫn còn.
Ngài là người có công lớn, từ ngôi chùa đổ nát, Ngài đã xây dựng lại
thành tòng lâm có Tăng chúng đông đảo, Đức độ củaNgài toả sáng đến sơn
môn,nên Ngài đã được mời làm Giáo thọ A Xà Lê tại Giới đàn chùa Linh
Phong, huyện phù cát năm 1837,và làm Yết Ma A Xà Lê tại Giới Đàn Chùa
Thiên An,Quảng Ngãi năm 1838.
Cơ duyên hoá độ của Ngài đã mãn,Ngài thu thần thị tịch vào ngày 22 tháng
12 (âm lịch )năm 1842 thọ thế 54 tuổi hạ lạp 40 năm. Tháp của Ngài hiện
ở trong vườn chùa mới được trùng tu trong năm 2004.
Ngài là người đầu tiên đem dòng kệ Chúc Thánh do Tổ Minh Hải –Pháp Bảo đặt ra:
Minh thiệt pháp toàn chương,
An chơn như thị đồng
Chúc thánh thọ thiên cữu
Kỳ quốc tộ địa trường …
truyền thừa ở chùa Thắng Quang, đến nay đã truyền đến chử Đồng đời pháp thứ 43 đạo mạch liên tục phát triển.
Ngài xứng đáng với sự kính ngưỡng của đông đảo Phật tử.
Trụ trì thứ 6: Thiền sư Chương An, Pháp tự Tôn Bổn, hiệu Quãng khánh
(1842-1876 )
Thiền Sư Chưong An, Tự Tôn Bổn, Hiệu Quãng Khánh thuộc đời pháp thứ 38.
làđệ tử của Tổ Bảo tạng, kế vị Thầy làm trụ trì chùa Thắng Quang sau khi
bổn sư viên tịch năm 1842.
Ngài là người dược Bổn sư đắc ý truyền trao diệu pháp ,và cũng chính
Ngài đã tiếp tục truyền được mạch đạo hoằng dương mở rộng Tòng lâm tiếp
độ Tăng chúng, Ngài có nhiều đệ tử nổi dang như: An luân- Hoằng Hoá, An
thị- Hoằng Quán, An tụng- Hoằng Niệm, An diệu- Từ nhẩn v.v…
Trong thời Ngài trụ trì, sơn môn các nơi thường về tham học,hoặc bàn
việc hoằng hoá với Ngài rất đông, đặc biệt có sư Đạt Huệ ở chùa Kim
Quang, Nam vang, Thủ đô Campuchia đã hỷ cúng Đại Hồng Chung nặng 200kg
chuông cao 1m,đường kính 0,65m vào năm 1843 đến nay vẫn còn.
Hơn 30 năm duy trì đạo nghiệp, Tăng tín đông đảo. cơ duyên hoá độ đã
mãn, Ngài tịch vào năm 1876 giao quyền kế vị trụ trì cho đệ tử.
Ngài chưa có tháp, mả đất bên cạnh dưới bậc giếng chùa.
Trụ trì thứ 7: Hoà Thượng An luân – Hoằng Hoá (1876-1913 )
Sau khi bổn sư viên tịch, Sơn môn đồ chúng suy cử Ngài An luân-Hoằng Hoá
(tự Cao hoán ) kế nhiệm Trụ trì chùa Thắng Quang. Ngài họ Ngô, quê ở xã
Hoài sơn.
Trong thời Ngài Tăng chúng rất đông. Ngài noi gương Tổ Quy sơn thành lập
Nông thiền ( dĩ nông vi thiền ) tự lực cánh sinh, Ngài tạo ra nhiều
ruộng đất để làm tài sản Tam bảo, nhờ đó mà kinhtế bảo đảm cho Tăng
chúng tu học, Ngài chủ trương cho Tăng chúng đi hoằng truyền chánh pháp
khắp nơi. Từ đó về sau rải rác các nơi đều có môn đồ Thắng Quang.
Ngài có nhiều đệ tử đắc pháp như: Chơn chất- Quang long, Chơn mẫn- Khánh
phú, Chơn dung- Phổ Nhuận, Chơn sự- Khánh Quý, Chơn thưòng – Khánh độ,
Chơn thường – Quan Thiện, Chơn Điển – Khánh Trí, Chơn thành – Quan huệ,
Chơn kinh – Pháp hương, Chơn tích- Quan nhơn, Chơn khai – Phổ hy..
Ngài tịch vào ngày 23 tháng 7 (âm lịch) năm 1913, tháp của Ngài trong vườn chùa đã được trùng tu năm 2004.
Trú trì thứ 8: Hoà Thượng Chơn Điển- Khánh Trí ( 1913 – 1921)
Hoà Thượng Chơn Điển –Khánh Trí, tự Đạo Phê đơi lâm tế thứ 40 kế thừa Tổ
nghiệp, Ngài tên tục là Ngô Điển, cha ho. Ngô, mẹ họ Lâm, người xã Hoài
sơn.
Ngài là đệ tử của Hoà Thượng Hoằng Hoá,duy trì đạo nghiệp của Bổn sư chỉ
được 8 năm thì bị bạo bệnh mà tịch vào ngày 01 tháng 03 ( âm lịch ) năm
1921, tháp của Ngài ở đâu không rỏ.
Trụ trì thứ 9:hoà thượng chơn thường – khánh độ: ( 1921 – 1923)
Năm 1921 sau khi sư huynh tịch, môn đồ cử Hoà Thượng Chơn Thường, Hiệu Khánh Độ, tự Đạo Nhiên kế vị trù trì Chùa Thắng Quang.
Ngài tên tục là Ngô Đức Suất người thôn Hy Tường,xã Hoài Sơn theo thầy xuất gia từ nhỏ. Được phó pháp vào ngày 15 / 4 / 1920.
Trong đời Ngài Tăng tín đồ tu học rất đông. Nhưng Ngài không đủ cơ
duyên, nên xin từ chức Trụ trì, mà giao lại cho Sư đệ là Hoà Thượng Chơn
Sự - Khánh Quý. Sau 2 năm giử chức trụ trì rồi di trú đi nơi khác.
Trù trì thứ 10: Hoà Thượng Chơn Sự- Khánh Quý ( 1923 – 1943)
Đạo nghiệp nặng nề của hai sư huynh giao lại Hoà Thương Chơn Sự. Khánh
Quý phải nhận lấy vào năm 1923, là Trù Trì Chùa Thắng Quang.
Ngài tên tục là Nguyễn Ly, cha mẹ là bổn đạo người địa phương Hoài Sơn
mất sớm, được Tổ Hoằng Hoá đem về nuôi dưỡng, rồi thế độ cho xuất gia,
Ngài được phó pháp cùng hai sư huynh vào năm 1920., trong đời Ngài Chùa
Thắng Quang rất phát triển, Tăng chúng thường trú lên tới ba, bốn mươi
người.
Năm 1930 ngài tiến hành trùng tu Chánh Điện, được xây xông lợp ngói, mở đầu cho kỉ nguyên chùa ngói từ đây.
Năm bảo đại 15 ( 1940 ) chùa được ban “ Sắc Tứ Thắng Quang Tự ” tấm biển
sơn son thiếp vàng được treo tại tiền đường chùa hiện nay.
Ngài có rất nhiều Đệ Tử: Như Nghĩa- Tín Truyền, Như Thông -Huyền Ngộ,
Như Kế-Huyền Đức, Như Quyền- Giải Đạt, Như Phẩm- Huyền Hoa, Như Thiền -
Huyền An, Như Lập- Giải Thành, Như Lễ- Tín Trí, Như Thư -Giải Học, Như
Phục- Giải Điều, Như Thuận- Tín Tấn, Như Thâm-Giải Nguyện
Trong các đệ tử trên, có bốn vị nổi tiếng danh đức, dày công hoằng dương Phật pháp:
1. Như Thông Huyền Ngộ sau làmtrụ trì Chùa Thắng Quang và khai sơn chùa
Quang Phước ở Thị Trấn Tam Quan, chùa Quang Đức ở Hoài Châu.
2. Như Kế Huyền Đức khai sơn Chùa Bửu Tạng, Xã Hoài Hảo và
Chùa Hoằng Hoá,ở Thị Trấn Tam Quan.
3. Như Phẩm –Huyền Hoa, trùng kiến chùa Kim Tiên Cổ Tự,ở Xã Các Khánh,
Huyện Phù Cát, Tỉnh Bình Định sau đặt tên là Chùa Khánh Sơn và khai sơn
Chùa Viên Quang,ở Huyện Phù Cát, Bình định.
4. Như Thiền- Huyền An, khai sơn Chùa Huệ Quang ở Thị Trấn Bồng Sơn.
Hoà thượng Khánh Quý cơ duyên hoá đạo đã mãn, Ngài tịch vào ngày 14 tháng 9 (âm lịch ) năm 1943.
Quyền trú trì ( thứ 11 ): Thiền sư Như Nghĩa,tư giải lý, hiệu Tín Truyền (1943-1946 )
Thiền Sư Như Nghĩa, Tự Giải Lý, Hiệu Tín Truyền đời pháp thứ 41. Đệ Tử
lớn của Hoà Thượng Khánh Quý. Trước khi Bổn Sư viên tịch, Ngài đã có
nhiều năm giữ chức điễn toạ, sau khi Bổn Sư viên tịch Ngài tạm quyền trụ
trì.
Năm 1946 sơn môn bầu cử Thiền Sư Huyền Ngộ giữ chức trụ trì. Nên Ngài
Như Nghĩa bàn giao nhiệm vụ cho sư đệ,và đi hoằng dương nơi khác.
Trụ Trì Thứ 12: Thiềnsư Như Thông –Huyền Ngộ (1946-1969 )
Ngài Như Thông,tự Giải Minh, hiệu Huyền Ngộ thuộc đời pháp thứ 41, đệ tử
của Hoà Thượng Khánh Quý đựoc môn phái suy cử chức Trụ trì chùa Thắng
Quang năm 1946.
Trong thời kỳ đất nước chống pháp, Ngài làm Chủ tịch hội Phật giáo cứu
quốc Huyện Hoài nhơn, Ngài tham gia công tác chấn hưng phật giáo, được
Giáo hội Tăng già Tỉnh Bình định giao các nhiệm vụ: Tuần chúng Tăng,kiêm
uỷ viên hoằng pháp Giáo hội Tăng già Bình định Hội Trưởng Hội Phật Giáo
Huyện Hoài Nhơn.
Về tiếp Tăng độ chúng, có nhiều Đệ tử đựoc Ngài cho đi học ở các học viện phập giáo tại Sài gòn, Thập tháp v.v.
Về xây dựng Tòng lâm, năm 1957 Ngài cho trùng tu chùa, sửa Chánh điện, xây cất thêm tiền đường, đến năm 1960 thì xong.
Ngài còn tạo điều kiện cho tín đồ các nơi trong huyện có chổ tu học,nên
đã khai sơn chùa Quang phứơc tại khối 6 Thị Trấn Tan Quan vào năm 1960,
do hai vợ chồng Hồng tố Mân và Diệp thị Đặc hiến cúng đất. Năm 1964 khai
sơn chùa Quang đức,xã Hoài châu.
Trong cuộc chống chính quyền Ngô đình Diệm đàn áp Phật giáo năm 1963,
Ngài đã lãnh đạo phật giáo đồ ở hoài nhơn bền bỉ đấu tranh suốt thời kỳ
pháp nạn đến thành công.
Dịp mừng Đại lể Phật Đản 2508 (1964 ), Ngài đã tổ chức xây dựng một lể
đài rất lớn, tại sân Vận Động Rừng Quýt,Thị Trấn Tam Quan, lần đầu tiên
có trên đất Hoài nhơn được hàng nghìn Tăng ni, phật tử tham đự.
Năm 1967 chùa Thắng quang ở vào vùng thường xảy ra chiến cuộc, nen Ngài
đã chuyển Tăng chúng và pháp khì tạm thời xuống Chùa Quang Phứơc
Năm 1969 (kỷ dậu ), cơ duyên hoá đạo của Ngài đã mãn,Ngài thu thần thị
tịch vào ngày mồng 4 tháng giêng âm lịch tại chùa Quang phước. tháp Ngài
được xây dựng trong khuôn viên chùa Quang phứoc.
Môn phái quản lý (1969- 1976 )
Sau khi Ngài Huyền Ngộ viên tịch.Chùa Thắng quang đang ở trong vùng
chiến tranh thường xảy ra, nên môn đồ pháp quyến chưa suy cử trụ trì kế
vị, mà chỉ giử lại là môn phái quản lý, còn pháp khí thì để tại Chùa
Quang Phước,giao cho đệ tử của Ngài là Đại đức Thích Hạnh Phứơc, trụ trì
chùa Quang Phước quản lý.
Trụ trì thứ 13:Thiền sư Thị Bản – Hạnh Thiện ( 1976 đến nay)
Sau khi đất nước thông nhất, hoà bình lập lại, năm 1975 Môn phái đã tập
họp Tăng Ni,tín đồ về sửa chửa lại chùa Thắng quang để có nơi tu học,và
suy cử
Đại đức Thị bản, tự Hạnh Thiện, hiệu Hồng Viên ,là đệ tử của Ngài Huyền Ngộ kế vị trụ trì từ năm 1976.
Đại Đức tục danh là Lê Bài, con ông Lê Sang và bà Trần thị Ngạc,ơ thôn
Hytường,xã Hoài sơn, xuất gia năm 1957, tho giới năm 1968 tại giới đàn
chùaLong khánh, thành phố Qui nhơn, do HoàThượng Phúc Hộ ở Phu yên làm
đường đầu.
Năm 1970 là học Tăng khoá đầu tiên ở Phật học viên Phươc Huệ,chùa Thập tháp.
Năm1978, Đại Đức cùngMôn phái chuyển pháp khí của Tổ đình từ chùa Quang phước ve chùa Thắng Quang
Năm 1989 Ngài hưng công trùng tu chùa đã được tạm hoàn thành như hiện nay làm chổ cho Tăng,tín đồ tu học.
---------------------------
Một độc giả bổ sung:
quehuong
27-11-2008, 04:07 PM
LỄ ĐẶT ĐÁ TRÙNG TU TỔ ĐÌNH THẮNG QUANG
Ngày 30 tháng 12 năm 2006 nhằm ngày 11 tháng 11 Bính Tuất.
Dưới sự chứng minh của:
1. Đại lão Hòa thượng Thích Phước Thành
2. Hòa thượng Thích Thiện Nhơn
3. Hòa thượng Thích Đổng Quán
4. Hòa thượng Thích Giác Trí
Thượng tọa Thích Hạnh Minh, trưởng môn phái tổ đình Thắng Quang, đại đức
Thích Hạnh Thiện Trú trì chùa tổ đình cùng tăng ni phật tử trong môn
phái đã long trọng tôt chức lễ đặt đá đại trùng tu chùa tổ đình Thắng
Quang.