19/08/2013 05:55 (GMT+7)
Số lượt xem: 1343
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng


Nguyễn Hồng Trân

http://sachhiem.net/LICHSU/N/NgHgTran_LS01.php

 31-July-2013

Lưu Công Danh là một con người bình thường nhưng cuộc đời và sự nghiệp của ông thì thật là đặc biệt, hiếm có ai như ông. Người ta nói Lưu Công Danh là một nhà tu hành huyền thoại. Ông là người có tiếng về chuyện đi tu thành Phật sống; về việc dùng cỏ, lá cây để chữa bệnh cho nhiều người một cách có hiệu nghiệm với mục đích làm phúc, làm từ thiện là chính. Ông là một con người có tấm lòng nhân ái với mọi người và có tinh thần, ý thức trách nhiệm cao trong mọi công việc làm của mình.

Tôi và một người bạn là Vương Khả Cốt ở Hà Nội đã có dịp đến gặp ông vào những năm 1958-1959 để xin ông thuốc chữa bệnh dị ứng. Phòng ở của ông tại khu tập thể Bãi Phúc Xá, bên bờ Sông Hồng, Hà Nội. Cứ sau giờ làm việc buổi chiều cho đến tối, chúng tôi thấy rất nhiều người đến gặp ông để xin khám và lấy thuốc chữa trị bệnh.

Từ đó nhiều người Hà Nội và các nơi khác đã biết tiếng tăm thầy thuốc Nam- Lưu Công Danh rồi tìm đến nhờ khám chữa bệnh rất đông. Nhưng không chỉ thế mà người ta còn biết rất kỹ về cuộc đời “3 chìm, 7 nổi, 9 lênh đênh” của ông nữa. Nhất là sau khi Thủ tướng Nê-Ru nước Ấn độ sang thăm nước Việt Nam vào mùa thu năm1959 và có lần ông Thủ tướng ấy đã đề nghị với Bác Hồ cho đến thăm “Phật thánh” Lưu Công Danh thì mọi người càng xôn xao tò mò muốn biết về con người đặc biệt này.

Tôi cảm thấy rất thú vị về cuộc đời của Lưu Công Danh qua các tài liệu, sách báo nói về ông, cũng như thực tế những chuyện ông Danh kể lại cho một số người quen thân với ông như nhà văn Phạm Tường Hạnh, Tướng Đồng Văn Cống, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, BS.Phạm Ngọc Thạch, GS.TS. Nguyễn Hoàng Phương, TS. Lê Xuân Thám, nhà báo Nguyễn thị Thanh Xuân, nhà văn Triệu Xuân Diên v.v…

Người ta đã viết, đã nói về con người có cuộc đời tu hành đặc biệt này. Và cũng nhờ đó mà mọi người được biết Lưu Công Danh đã trở thành danh hiệu “Phật sống” như thế nào; ông đã yêu nước, thương dân và giàu lòng nhân ái như thế nào.

TIỂU SỬ “PHẬT SỐNG” LƯU CÔNG DANH

(Nội dung phần này do nhà văn Triệu Xuân Diên và nữ nhà báo Nguyễn Thị Thanh Xuân ghi lại).

Lưu Công Danh sinh ngày 29-12-1900, quê ở Châu Thành, Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Lưu Công Danh làm nghề múc kinh xáng (đào vét kênh rạch) vùng Long Xuyên, Rạch Giá, Hà Tiên. Lưu Công Danh là Đại úy Quân đội Nhân dân Việt Nam, biệt danh là “ông Phật sống”.

Từ năm 1926 - 1927, Lưu Công Danh tham gia phong trào thanh niên do Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội ở Long Xuyên, Châu Đốc lãnh đạo. Cuối năm 1931, Lưu Công Danh phải đi làm thuê, làm mướn để nuôi sống gia đình, vợ con. Năm 1933, Lưu Công Danh làm thuê ở Campuchia, làm phu khuân vác lúa gạo ở Bat-đom-boong. Sau đó ông làm phiên dịch cho một người chủ Ấn Độ rất giàu có ở Nam Vang. Có lần người chủ bỏ quên ở nhà một  vali tiền có giá trị rất lớn, với bản chất không tham lam, Lưu Công Danh đã trao lại cho chủ. Được chủ tín nhiệm nhận làm con nuôi rồi về sau trở thành con rể.

Sau một thời gian không lâu sau khi thành thân với con gái của người chủ Ấn Độ, Lưu Công Danh đã quyết định đi dự tuyển thầy tu Phật giáo. Sau khi trúng tuyển được nhà chùa chọn đi Tây phương Phật tu luyện. Ông đã đi bằng chân đất men theo ngọn núi của rặng Hymalaya thăm thẳm rừng già. Trong 10 năm, đi qua 10 chùa trong rừng hoang, vừa phải ngồi thiền, học thuộc các kinh, vừa học Đông y, cuối cùng đến chùa Tây Phương được vị hòa thượng Vua Phật công nhận đắc đạo thành “ông Phật sống”.

Sau đó, “Phật sống” Lưu Công Danh về Tân Cương được Sứ quán Anh đưa xe về Thượng Hải, Hồng Kông qua Luân Đôn rồi về Nam Vang, trụ trì ở chùa Prệp Prạ gần 5 năm. Khi Cách mạng Tháng 8-1945 thành công, Lưu Công Danh về Châu Đốc thăm nhà và được gặp đồng chí Ung Văn Khiêm, Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ tại Long Xuyên và theo cách mạng từ đó. Lưu Công Danh được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam cuối năm 1947.

Tháng 7-1954, ông đi tập kết ra miền Bắc. Sau vài năm, ông được cử đi học tại Học viện Quân sự, chính trị ở Liên Xô. Sau đó làm ở Cục Giao tế Bộ Ngoại giao. Năm 1962, lúc này Lưu Công Danh 62 tuổi, được phân công qua nghiên cứu Đông y Bộ Y tế.

Sau ngày giải phóng miền Nam 30-4-1975, về đến Rạch Giá, Lưu Công Danh lại tự nguyện nhận nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho cán bộ và nhân dân, đề nghị với Tỉnh ủy và Ty Y tế cho lập Phòng trị bệnh thuốc nam trực thuộc Ty Y tế, góp phần thành lập Bệnh viện Y học Dân tộc của tỉnh.

Vào lúc 19 giờ ngày 31-5-2003 Lưu Công Danh từ trần, thọ 103 tuổi.

Bệnh viện Y học cor truyền Rạch Giá

ĐÔI LỜI CỦA LƯU CÔNG DANH CÙNG BẠN ĐỌC

(Lời bộc bạch của ông Danh do nhà văn Triều Xuân Diên ghi lại)

Tôi may mắn là người sống qua 2 thế kỷ: Thế kỷ 20 đầy biến cố, đau thương nhưng vô cùng anh dũng và vẻ vang của dân tộc. Thế kỷ 21, đất nước đang trên đường công nghiệp hóa và hiện đại hóa với tương lai cất cánh hóa rồng. Tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ viết hồi ký về cuộc đời mình, mà lại viết ở tuổi Một trăm lẻ thì lại càng khó khăn, vì ở tuổi này người ta hay quên, nhớ bất thường.

Thế nhưng, cuộc đời có những điều mình không nghĩ, rồi hoàn cảnh đặt mình ở một vị trí nào đó, mà vị trí ấy có liên quan đến lịch sử, đến cái chung, thì dù không muốn, cũng phải làm vì trách nhiệm.Do đó, tôi viết hồi ký về cuộc đời tôi, không phải vì sự phô trương, nổi tiếng của mình, mà chính vì cái lớn lao là tôi từ một con người bình thường, do hoàn cảnh đất nước và hoàn cảnh lịch sử đã trở thành con người “nổi tiếng” như anh em quen biết trước đây và nhà văn Phạm Tường Hạnh - một nhà văn đã gần 90 tuổi - người đã viết lý lịch cho tôi 50 năm về trước và đã viết về tôi như huyền thoại của “vua Phật đi kháng chiến”.

Còn tôi, ở cuốn hồi ký này, tôi chỉ muốn nhận về mình: một con người bình thường do lịch sử sinh ra và chính cách mạng và Đảng đã làm thay đổi cuộc đời tôi. Nhờ Đảng và cách mạng, tôi đã trở thành một Lưu Công Danh có ích cho đời.

Hôm nay, ở tuổi 102, Đảng bộ và nhân dân Kiên Giang đã tạo điều kiện cho tôi có tập hồi ký này. Tôi lấy làm cảm kích và vô cùng biết ơn. Dù có nhiều điều đã quên do tuổi tác, nhưng có những điều hằn sâu trong tâm trí và đã khắc cốt, ghi xương, thì không thể nào quên...

- o0o -

Sau đây chúng tôi xin kể lại những nét chính cuộc đời và sự nghiệp của ông Lưu Công Danh để chúng ta hiểu biết về ông, quý mến và ngưỡng mộ ông.

 Ông Lưu Công Danh gốc tích người Hoa. Ông nội  là người Quảng Đông, tên Lưu Vàng, qua Việt Nam lúc còn nhỏ, sống ở Cần Thơ. Bà nội cụ là người Việt, tên Trần Thị Én, ở tổng Thới Bảo (xã Trường Thành, huyện Ô Môn, Cần Thơ). Thân sinh của ông Danh là cụ Lưu Tấn Thành và bà mẹ là Huỳnh Thị Hương. Cả nhà từ ông bà nội đến cha mẹ ông Danh ở Cần Thơ hồi đó đều sinh sống bằng lao động sản xuất. Sau đó cả ông nội, người cha và ông Danh đều đi làm nghề đào vét sông,rạch, kênh,mương ở vùng Long Xuyên, Rạch Giá, Hà Tiên…

Ông Danh có 8 anh chị em, 3 anh em: anh đầu là Lưu Quang Nên (sinh năm 1898), em là Lưu Văn Muôn.

Trong quá trình theo xà lan làm thợ đào kênh rạch từ Long Xuyên qua Rạch Giá, ông Lưu Tấn Thành(ba ông Danh), để ý một vùng đất hoang vu tại Mốp Giăng (xã Mỹ Lâm, thuộc tổng Kiên Hảo, quận Châu Thành, nay là xã Mỹ Hiệp Sơn - huyện Hòn Đất) với ý định là khai hoang lập ấp sinh sống. Thế là ông đã quyết định đến đây khai khẩn vào khoảng năm 1905-1907. Sau này vùng đất Mốp Giăng, xã Mỹ Lâm trở thành nơi quê hương với dòng họ Lưu duy nhất của gia đình ông Danh. Mồ mả của ông bà, cha mẹ, cô chú ông đều được an táng tại nơi đây.

Thời niên thiếu của ông Danh cũng rất vất vả. Vì cả nhà đông anh em (8 anh em) nên cha mẹ phải kiếm sống cũng khó khăn chật vật. Người cha thì lo đi làm thợ theo xà lan đi nơi này nơi khác xa xôi và đồng lương cũng chỉ đủ cơm gạo qua ngày cho gia đình. Bà mẹ thì lo nội trợ và chăm sóc một đàn con nhỏ. Do đó, cuộc sống vật chất và tinh thần rất hạn chế. Cả nhà cơm ăn không đủ no, áo quần không đủ mặc. Mấy anh chị em thường mặc áo bao bố để đi lao động. Việc học hành của tuổi thiếu niên cũng gặp khó khăn nhiều bề.

 Khoảng năm 1921, phần đất cha ông Danh khai khẩn được vào tầm lớn thứ hai ở Mốp Giăng đã hoàn chỉnh. Người mẹ và người anh lớn cùng mấy em ông cai quản phần đất này. Còn ông Danh đi theo người cha làm nghề thợ đào xúc.Dù là công nhân, nhưng người cha(ông Thành) vốn là người học nho, nên rất trọng lễ nghĩa. ông Danh thì không tuân theo kỹ luật gia đình, lại có tính ngang bướng bỉnh, thích chi làm nấy. Do đó, cha ông Danh gửi sang một xà lan khác nhờ người kèm cặp cho một nghề điều khiển xà lan khi tiến hành cho máy đào xúc kênh mương. Lúc bấy giờ ông Danh bắt đầu có ý thức tự lập và biết nghẫm nghĩ sự đời.

Trong HK của ông ở chương 2, có đoạn đã ghi:

“Bắt đầu cuộc sống độc lập, tôi mới có dịp ngẫm nghĩ lại mình và nhớ lại cuộc sống gia đình. Tôi bắt đầu ý thức được tình thương của mẹ của cha. Ba tôi thấy tôi làm việc chí thú, nên người, ông lấy làm mừng lắm. Dù không học nho như ba tôi, nhưng tôi cũng tìm thầy dạy để học chữ trên xáng. Có lúc không làm xáng, tôi theo bạn bè đi làm vó đặt cá, làm rọ, nò đặt tôm, tép. Lúc ấy rừng rậm, kênh rạch đầy tôm cá. Bạn tôi rất nhiều thành phần, đứa biết võ, đứa biết chữ, đứa nào biết gì, cũng dạy cho nhau. Tôi học được rất nhiều thứ nơi bạn bè. Ba tôi thường xuyên hỏi han, biết tôi sửa đổi tính nết, ông mừng lắm. Ông tìm qua chỗ tôi làm, cha con tâm sự, ông động viên tôi, ông hỏi tôi muốn cưới vợ không, ông sẽ lo cho để về quê quản lý ruộng đất với má tôi. Tôi ậm ờ, ba tôi không nhắc lại chuyện vợ con cho tôi, mà nói sang chuyện làm ăn ở nhà. Một đứa con mang tiếng là ương bướng, nhưng lòng tôi cũng mềm đi khi cảm nhận được tấm lòng của cha mẹ, nhất là ba tôi, từ một anh thợ quèn, nay là thợ cả, rồi có trong tay vài trăm công đất từ công sức lao động mà có, tôi càng thương ba tôi.  

 Sau này, cuộc sống có nhiều biến cố, nhiều lúc ôn lại quãng đời mình, đây là một trong những kỷ niệm với ba tôi làm tôi cảm động và nhớ nhất. Khi đất đai thành khoảnh ở Mỹ Lâm, ba tôi cho lập một đình thờ thờ Bà Chúa xứ và đình thờ Thần Hoàng, tại đầu kênh Mốp Giăng (hai đình nằm trên hai bờ kênh). Tôi nghe người lớn kể lại, ba tôi cho lập đình khoảng năm 1923-1927 gì đó. Riêng đình thờ Thần Hoàng, sau này ba tôi làm một lễ rước vong linh người anh hùng chống Pháp Nguyễn Trung Trực về thờ. Để che mắt thực dân Pháp, trong đình không có bài vị ông Nguyễn Trung Trực, mà chỉ thờ chung Thần Hoàng và vong linh các chí sĩ anh hùng yêu nước. Ba tôi hay kể về khí phách hiên ngang của ông Nguyễn Trung Trực mà ông đã nghe người lớn kể lại. Hiện nay, bà con ở Mỹ Hiệp Sơn vẫn gọi đình này là đình thần Nguyễn Trung Trực và vào các ngày rằm, 30 hàng tháng, các rằm lớn, đặc biệt là ngày giỗ Ông, bà con trong làng đến thắp hương, tưởng niệm.

Vì là một trong những người đến Mốp Giăng sớm nhất khai khẩn đất và có công lập đình, hơn nữa, dòng họ Lưu của tôi cũng có vị thế trong xã hội: ông nội tôi đi làm xáng, ba tôi cũng làm xáng, tham gia đào hai kênh xáng Hà Tiên và Cái Sắn, quen lớn rộng rãi nên ba tôi được dân làng cử làm Hương cả và bà con Mỹ Hiệp Sơn gọi ba tôi là cả Thành. Mỹ Hiệp Sơn thuở ấy đất rộng người thưa, đất mới khai khẩn thật mầu mỡ. Ruộng nhà tôi năm nào cũng trúng. Ba tôi cho làm nhà kho chứa lúa. Má tôi là một phụ nữ giỏi giang, chịu khó, bà đã lo cai quản toàn bộ công việc gia đình: từ lo việc ngày mùa, việc quản lý gia sản, nuôi dạy con cái và luôn luôn chu đáo nhà cửa. Má tôi rất có tay chăn nuôi. Phía sau kho lúa, ba tôi cho xây một chuồng heo rất rộng. Trong chuồng lúc nào cũng có từ ba, bốn chục con heo lớn. Còn gà vịt thì đếm không xuể…Má tôi làm việc nhà từ sớm tinh mơ đến chín, mười giờ đêm mới nghỉ ngơi. Khi tôi và ba tôi ở xáng về, mấy bà con ở xóm khoe: “Bà cả Thành làm việc cả ngày, tay không lúc nào khô”. Họ nể phục má tôi vì đức tính cần cù lao động và nhân từ. Có lẽ vì những năm tháng sống cùng ba tôi rày đây mai đó trên sông nước, bà nếm đủ vất vả, nhọc nhằn...”

Khoảng năm 1927, người anh cả của ông Danh là Lưu Quang Nên bị giặc Pháp bắt vì bị tình nghi có dính líu đến tổ chức chính trị. Lúc bấy giờ, ông Danh đã được nghe nói đến tổ chức Thanh niên cách mạng đồng chí Hội, nghe tên tuổi các anh Châu Văn Liêm, Ung Văn Khiêm, Hà Huy Giáp... Lúc ấy đang có phong trào đòi xóa án tử hình cho cụ Phan Bội Châu và để tang cho cụ Phan Chu Trinh. Các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên, trí thức tham gia rất sôi nổi. Ở Châu Đốc, Long Xuyên, nhiều nhóm thanh niên được giác ngộ cách mạng qua tổ chức thanh niên cách mạng đồng chí Hội, tham gia vào nhiều hoạt động yêu nước. Ông Danh theo họ và bắt đầu hiểu các khái niệm “đế quốc, thực dân”, “giải phóng dân tộc”. Tuy các khái niệm ấy còn mơ hồ đối với nhiều thanh niên, nhưng lòng căm ghét chế độ thực dân nên đã nhanh chóng tạo thành ý thức giác ngộ cách mạng cho ông và các bạn bè của ông. Lúc bấy giờ, mật thám Pháp dày đặc, chúng lùng sục khắp nơi, tìm bắt bớ những người yêu nước và cách mạng. Điều đó cũng không làm nhụt ý chí của tầng lớp thanh niên yêu nước.

Trong chương2 HK của ông Danh có đoạn đã ghi:

“Ba tôi không ngăn cản tôi và anh tôi tham gia các phong trào của thanh niên, mà ông còn kể chuyện Bác Tôn Đức Thắng kéo cờ trên chiến hạm tham gia phản chiến của các thủy thủ phản đối Chính phủ Pháp... Ông còn biết cả truyện con Rồng tre của Nguyễn Ái Quốc. Tôi biết chính ba tôi đã hướng tôi đến một con đường sống có lý tưởng; ông gieo vào lòng tôi một tình cảm mới mẻ và ông cũng biết anh trai tôi đã đến con đường đó - tổ chức cách mạng. Sau đó, giặc Pháp giết chết anh Lưu Quang Nên của tôi và người em trai kế tôi là Lưu Văn Muôn cũng hy sinh.Lúc bấy giờ tôi không nghĩ gia đình mình đã trở thành gia đình cách mạng, nhưng hai người thân trong gia đình đã chết vì nghĩa lớn, đó là điều vinh dự. Má tôi đau vật vã. Không ai bỏ má tôi cô đơn trong nỗi đau mất hai núm ruột của mình”.

Phong trào cách mạng ở Châu Đốc và Long Xuyên lên cao, nhiều người bị bắt. Những tên địa chủ thân Tây lên mặt hống hách,ức hiếp dân chúng. Đầu sỏ là tên Trần Kiều và Cả Hổ. Nhất là tên Trần Kiều khét tiếng hung ác gian tham. Y đã cướp nhiều ruộng đất của dân ở vùng Cái Sắn, Mỹ Lâm. Lúc bấy giờ ông Danh căm ghét bọn chúng. Ông định tổ chức thanh niên thẳng tay trị cho bọn hống hách, trịch thượng đó một trận. Thấy bà mẹ lo lắng, sợ chuyện đánh lộn nhau xẩy ra thì không đủ sức mà chống chọi lại với băng đảng đó, rồi bị chúng giết thiệt thân. Bà mẹ cứ khóc lóc khuyên con cố kìm nén và lo chuyện làm ăn và tính chuyện lấy vợ.

Trong KH chương này, có đoạn đã ghi:

“Một hôm, má tôi kêu tôi lại, bà rầu rĩ nói:

- Con cưới vợ người ở làng mình đi, để trụ hình làm ăn. Đi phiêu bồng hoài biết chừng nào yên bề gia thất?

Tiếng thổn thức của người mẹ đã làm mềm lòng tôi. Lúc này tôi đã xấp xỉ 30 tuổi và từng có một mối tình. Nhưng vì đi theo xáng lênh đênh sông nước, không ổn định nơi nào, nên dù yêu, tôi cũng không bảo bọc được người mình yêu. Hơn nữa, người con gái tôi yêu gia đình thuộc loại khá giả ở Thốt Nốt, người ta có ác cảm với công nhân xáng “lu bu”, chỉ yêu con người ta qua đường. Người con gái tôi yêu bị sự kháng cự, cấm đoán của gia đình, nàng cũng thấy tình yêu thật mong manh. Khi tôi theo xáng đi đào kênh Sóc Xoài, rồi chạy theo các bạn tham gia phong trào thanh niên ở Châu Đốc, Long Xuyên, cô ấy khóc hết nước mắt. Đó là năm 1927. Đây là mối tình đầu của tôi.

Nghe má tôi nói cưới vợ, lòng tôi ray rứt, xốn xang, nhớ đến người con gái hiền lành yêu mình tha thiết, dù bị gia đình ngăn cấm, cũng vượt qua, tự nguyện chung sống với tôi. Tôi không có ý bỏ nàng, mà quyết một ngày trở lại tìm cho được. Tôi im lặng một lúc, rồi nói với má tôi:

- Con đã sống với một cô gái khi con còn làm xáng ở Thốt Nốt. Cô này con nhà tử tế, người ta tin cậy con, con phải có trách nhiệm với người ta. Cô đã có thai với con rồi!

Tôi chống chế và nói đại nói càn là cô ấy đã có con với tôi, để má tôi ngưng chuyện hỏi vợ ở quê cho tôi. Nhưng vì quá bất ngờ, má tôi hoảng hốt, bà kêu lên: “Con làm lỡ hết chuyện rồi con ơi. Ở nhà đã coi mắt con Ngân con bác Phòng ở Mỹ Lâm. Nhà đó so với gia đình mình là môn đăng hộ đối. Con làm vậy còn mặt mũi nào nhìn ai”! Rồi bà khóc. Tôi thương má tôi luôn hy sinh vì con cái. Tuy gia đình đã khá giả, nhưng bà luôn vất vả, làm lụng suốt ngày. Chuyện bà mong có nàng dâu trong nhà là rất hợp lý. Tôi an ủi má:

-Má để con đi Thốt Nốt, con nói vài điều với gia đình người ta rồi con về nhà hãy tính chuyện này sau. Con thấy mình có lỗi...

Má tôi đồng ý cho tôi đi. Rồi chừng như không an lòng, bà theo năn nỉ: “Gia đình mình đã có người bị Pháp bắt. Đi đâu giờ cũng có người rình rập, con đi không khéo, có bề gì làm sao má chịu nổi”.

Tôi không sợ mình đi bị ai bắt bớ, mà sợ thêm một lần làm tổn thương trái tim người mẹ. Còn người yêu tôi, không biết giờ này ở đâu? Điều tôi biết chắc, vì yêu tôi, có thể cô bị gia đình đánh đập, hoặc tệ hơn là “cạo đầu bôi vôi”. Nghĩ vậy, tôi quyết định không đi tìm cô ấy, để cho mọi chuyện rồi sẽ qua đi. Cô ấy sẽ quên tôi và chấp nhận sự định đoạt của gia đình. Tôi thầm mong cho cô ấy được hạnh phúc và tôi chấp nhận quyết định của gia đình.

Thế là sau mối tình đầu đậm đà ấy, tôi chính thức lập gia đình cuối năm 1931. Người vợ do gia đình cưới hỏi tên là Lê Thị Ngân, nhỏ hơn tôi 6 tuổi. Gia đình bên vợ cũng thuộc hàng phú nông. Vợ tôi thuộc làu bài học nữ công gia chánh, nết na thùy mị, càng làm má tôi hài lòng. Bà mừng vì đã “cột chân” được tôi.

Hơn một năm sau, dòng họ Lưu của tôi vui mừng có cháu đích tôn - con trai đầu lòng của tôi ra đời. Cháu được đặt tên Lưu Khỏe. Vợ tôi sinh năm một, liên tiếp hai năm sau đó, tôi có thêm một đứa con trai tên Lưu Kiếm và một con gái tên Lưu Thị Hằng”.

Vào năm 1932-1933, kênh Mốp Giăng, dân cư mỗi ngày một đông đúc hơn. Vì toàn bộ hệ thống kênh đào Ba Thê, Tri Tôn, Tám Ngàn đã đào xong. Người Pháp xem như đã hoàn tất một chương trình thủy nông, phục vụ cho việc khai thác thuộc địa của thực dân ở tỉnh Rạch Giá. Hệ thống thủy lợi mới này, tạo nên một vùng đồng ruộng mới của vùng Châu Thành thật màu mỡ. Lúc bấy giờ ông Danh không còn đi làm lưu động nữa mà ở nhà cùng với gia đình lo làm nông nghiệp. Rồi những biến cố xẩy ra ở địa phương do bọn địa chủ cậy quyền thân Pháp đã gian tham ngang nhiên lấn át, cướp bóc ruộng đất của dân. Điển hình nhất là tên mật thám địa chủ Trịnh Xuân Nghĩa. Điều đó làm cho dân chúng rất phẫn uất, căm ghét đến cực độ. “Tức nước, vỡ bờ”. Nhân dân địa phương tổ chức vùng lên đánh bọn cướp, làm một tên bỏ mạng. Họ còn tiếp tục những trận đánh trả bọn cướp đất khốc liệt hơn. Ai cũng đoán biết thế nào bọn địch cũng sẽ trả thù nặng nề với dân chúng. Ông Danh thương bà con sẽ bị chúng hãm hại, nên ông nói với bà con để ông nhận tội đã đánh chết người.

Trong chương 3 KH của ông, có đoạn đã ghi:

 “Ngày hôm sau, tin con ông Cả thành đánh chết tên cướp được đồn ra nhanh. Gia đình lập tức đưa tôi trốn khỏi Mỹ Lâm, rồi chuyện gì nữa, sau đó mới tính tiếp.Gia đình thì tính vậy, nhưng riêng tôi, nghĩ đến chuyến đi này tôi sẽ làm được một việc gì đó có ý nghĩa, đại để như tham gia vào việc chống địa chủ cướp đất và được sự tổ chức, lãnh đạo của ai đó, chứ không phải là chuyện chạy trốn để thoát thân. Và điều ấy đã đến….

 Biết tôi sẽ đi, má tôi thổn thức, rỉ vào tai tôi:

- Con tính đi đâu và đi như thế nào?

Tôi biết má tôi rất thương và lo lắng cho tôi. Bây giờ mọi quyết định của tôi không phải chỉ riêng cho bản thân tôi mà còn liên quan đến cha mẹ, vợ con tôi. Tôi đã từng có tiền án trong các vụ tham gia phong trào với thanh niên ở Long Xuyên, giờ đây còn nhận đánh chết tên cướp, tôi không thể sống yên ổn được trong làng, mà sẽ còn liên lụy đến gia đình. Tôi an ủi má:

- Con sẽ trốn đi nơi khác một thời gian. Hiện nay bọn băng đảng đang tìm người đánh chết đồng bọn chúng để trả thù. Khi con trốn khỏi làng, mọi người cứ đổ hết cho con.

Nói thì đơn giản như vậy, nhưng khi phải rứt gia đình: cha mẹ già, một vợ và 3 con nhỏ để đi một nơi nào mà mình chưa biết được điều gì sẽ xảy ra, ruột gan tôi rối bời. Tôi vắt tay lên trán suy tư mãi, rồi buột miệng nói với vợ tôi.

- Mình ở nhà gánh các chuyện gia đình và nuôi cha mẹ, dạy dỗ con cái cho nên người. Tôi phải đi trốn thôi, tôi đã bàn với má. Nếu tôi ở lại chúng cũng tìm giết và sẽ liên lụy đến gia đình và xóm làng. Tôi trốn, chúng sẽ tìm một mình tôi thôi.

Quá đột ngột, vợ tôi kêu lên một tiếng thất thanh “Trời ơi!” rồi thổn thức, ngất lịm. Tôi to nhỏ dỗ dành. Thương các con tôi nhỏ dại. Đứa lớn 5 tuổi, đứa nhỏ 2 tuổi. Giấc ngủ của chúng thật vô tư, lòng tôi bịn rịn, xốn xang lắm. Má tôi lúc đầu không cho tôi đi, nhưng tôi giải thích lợi hại, bà đã đồng ý”.

Thế là ông Danh tìm đi xa để lẫn trốn bọn thù địch rắp tâm tìm ông để giết. Ông cứ đi mãi,đi mãi, tiền túi cạn dần. Ông theo đám con nít đánh giầy, bán báo để kiếm sống và dò la biết tin tức, rồi theo đám võ Sơn Đông... Một hôm, nghe người ta nói: “dân Ba Thê dậy giặc”. Vì mang tội “đánh chết cướp”. Thế là người dân xứ Móp Giăng, Mỹ Lâm, Ba Thê quê ông đã đứng lên bảo vệ dân mình. Ông định quay về xứ, vì nghĩ biết đâu trong cuộc đấu tranh đó, có người đứng ra lãnh đạo, tổ chức. Từ Châu Đốc, ông xuống tới Long Xuyên, lại thấy lính, thấy người bị bắt, bị đánh. Sẵn mang cùng một “tội” “dân Ba Thê dậy giặc”, ông Danh nghĩ trên đường trở về chưa tới nhà thì rất có thể ông sẽ bị bắt. Ông liền vào nhà một người quen, giả vờ người Khmer đi buôn vải, để tìm đường qua Nam Vang.

Trong chương 3 HK của ông, có đoạn đã ghi:

“Tôi qua Nam Vang bằng đường bộ từ biên giới Châu Đốc - Campuchia. Đây là lần đầu tiên tôi xa xứ sở. Cuộc đời công nhân xáng, lênh đênh trên sông nước nay đây mai đó, nhưng tôi chưa từng nếm trải nỗi buồn xa đất nước, mà lại đi xa trong hoàn cảnh đất nước đầy đau thương. Lòng tôi sục sôi căm giận. Tôi xót xa nghĩ đến cha mẹ già, nghĩ đến vợ và các con thơ... Tôi linh cảm mơ hồ cho chuyến đi viễn xứ lần này có thể đầy bất trắc xảy ra với tôi.Khi ở Châu Đốc, theo những người buôn vải, tôi qua làng dệt vải của người Chăm ở Châu Giang, tôi quen và kết bạn với một người Khmer chuyên buôn vải tên Trầm Khul. Anh dạy tôi tiếng Khmer, tôi dạy anh tiếng Việt. Ở làng Chăm, tôi cũng quen với một người bạn người Chà (địa phương hay gọi là Chà Và). Người bạn này rất tốt. Anh cho tôi một số vải để vận xà rông như người Khmer. Anh tên Xa-ri-man, nhưng tôi gọi anh là Nam, phần để dễ gọi, phần khi đi xa tôi sẽ nhớ tôi có những người bạn tốt như anh ở xứ nhà”.

Vào năm 1933, ông Danh sang Nam Vang ở Campuchia để tìm việc làm. Ông biết tiếng Campuchia và dáng dấp cũng giống họ nên ông dễ hòa nhập và thích nghi với phong tục của họ. Ông mong có được công việc ổn định để nuôi sống bản thân và dành dụm chút ít tiền gửi về nhà. Ông theo với dòng người đi làm mướn, đi buôn bán, nên đã đến được Bat-đom-boong. Đây là vựa lúa gạo lớn nhất Campuchia lúc đó. Hàng ngày có nhiều ghe thuyền chuyển lúa về Phnôm Pênh, Sài Gòn.  Ông Danh đã tìm dò ra bến cảng để xin việc làm. Thế là ông được nhận vào làm trong đội phu khuân vác lúa, gạo từ kho xuống các ghe thuyền. Thấy ông làm tích cực, hiệu quả cao, ông chủ rất hài lòng và trả công hơn những công nhân khác. Ông làm việc tại bến cảng một thời gian đều được mọi người quý mến. Sau đó có một ông chủ người Ấn Độ đi tìm người biết tiếng Việt để giúp đi phiên dịch sang bên Campuchia đến Bát-đom-bom mở xưởng khai thác gỗ quý. Các loại gỗ này dùng để xây dựng chùa chiền, nhà cửa nên rất có giá. Nhưng muốn vào rừng khai thác gỗ thuận lợi thì phải giao dịch với Sở Kiểm lâm. Số người làm việc ở Sở này hầu hết là người việt. Do đó, ông chủ tìm ông Danh nhờ giúp ông làm phiên dịch. Ông Danh bỏ nghề khuân vác sang nghề phiên dịch.

Trong chương 4 HK của ông, có đoạn đã ghi:

“Trên đất khách quê người, đây là một dịp may hiếm có đối với tôi. Ông chủ người Ấn Độ hiền lành, phúc hậu. Ông tìm hiểu tôi qua người chủ trước đây và số anh em phu khuân vác, biết tôi hiền lành, chăm chỉ, thật thà, hay giúp đỡ và thương người. Ông hài lòng và cử tôi làm phiên dịch đại diện cho ông khi giao dịch với Kiểm lâm. Mỗi tháng, ông chủ Ấn Độ đến phát lương một lần cho những người thợ xẻ gỗ, đốn cây và đóng thuế cho Kiểm lâm. Sau khi xong các công việc ấy, đến phần tôi, bao giờ ông chủ cũng dành nhiều ưu ái. Khi thì ông thưởng cho tôi bộ quần áo, khi thì năm ba đồng, kèm theo lời khen và chúc sức khỏe. Tôi học nói tiếng Ấn Độ và nghe được tiếng, nên giữa tôi và ông chủ Ấn Độ có mối quan hệ gần gũi, thân tình hơn.

Một hôm, như mọi khi, ông chủ Ấn Độ từ Phnôm-Pênh đi Bat-đom-boong phát lương cho thợ. Vì vội vàng, ông ra xe trở về Phnôm-Pênh, bỏ quên lại chiếc vali. Đến tối, sau khi ăn cơm xong, tôi dọn dẹp nhà cửa mới thấy chiếc vali ấy. Không biết vali gì, tôi mở ra xem thử, thì ra đó là vali tiền, giấy còn thẳng băng, mới cứng. Có nhiều tờ bạc 100 đồng của Ngân hàng Pháp.

Sống tha phương, làm thuê kiếm từng đồng nuôi sống mình và dành dụm để một ngày về xứ đoàn tụ với gia đình, giờ đây, đứng trước một đống bạc mà làm đến cả đời chắc gì đã có được; tôi bâng khuâng suy nghĩ mông lung trong đêm và không chợp mắt nổi: Có nên lấy vali tiền này rồi trốn đi không? Nếu trốn thì trốn đi đâu, có thoát được không? Nếu trở về quê thì đưa đầu cho người ta bắt vì tội nhận giết chết tên cướp. Đã sợ cảnh tù đày mới bỏ xứ ra đi. Nay ở tù vì tội ăn cắp tiền ông chủ thì nỗi nhục làm sao rửa được? Bao nhiêu câu hỏi xoáy trong đầu. Tôi nghĩ đến gương mặt phúc hậu của ông chủ và lòng tốt của ông đối với tôi. Bộ quần áo tôi đang mặc trong người là của ông cho. Mới tháng trước, ông đã thưởng cho tôi 5 đồng, ngoài tiền lương của tôi. Tôi quyết định không mó đến một đồng nào trong vali của ông chủ mà ôm giữ cẩn thận cho ông.

Gần sáng, tôi nghe tiếng xe hơi thắng lại dưới sân nhà sàn. Tôi biết đó là xe ông chủ, tôi nhổm dậy, bước ra cửa. Ông chủ chạy vội lên cầu thang. Tôi cất tiếng trước để trấn an ông chủ:

- Vali ông để quên lại, còn đây.

Ông chủ như định thần lại, nét mặt ông hết căng thẳng, ông nhìn tôi chăm chăm. Tôi lôi chiếc vali từ mùng ra, đặt trước mặt ông và từ tốn nói:

- Ông chủ đếm lại đi!

Ông chủ Ấn Độ nhận chiếc vali từ tay tôi, chiếc vali không khóa từ trước. Nét mặt ông vui và có vẻ như xúc động khi thấy chiếc vali vẫn y nguyên. Ông rút trong vali một xấp tiền đưa cho tôi trước khi từ giã tôi để trở lại Phnôm-Pênh. Tôi đỡ tay ông và nói:

- Ông chủ về mạnh giỏi, đi đường cẩn thận. Lần khác ông chủ cho, tôi sẽ nhận, lần này thì không thể nhận được.

Tôi bước theo ông chủ ra tận xe dưới nhà sàn. Ông vẫn nắm bàn tay tôi một cách tin cậy và trìu mến. Tôi cảm nhận được bao điều thân thiết trong cách nắm tay ấy. Khi xe nổ máy, ông quay một vòng tay lái quanh sân, rồi giơ tay vẫy từ giã tôi. Tôi cũng vẫy tay lại và thấy lòng mình thanh thản.

Đến kỳ phát lương tháng sau, ông chủ người Ấn Độ trở lại Bat-đom-boong. Như mọi lần, ông đỗ xe dưới nhà sàn, tôi chạy ra cửa đón ông. Vừa thấy tôi, ông tươi cười, nụ cười tôi cảm nhận được không phải giữa chủ và người làm công, mà nụ cười thân tình như người chú, người cha trong gia đình với con cái. Ông đưa tay về phía tôi và nói:

- Anh theo tôi về Phnôm-Pênh. Việc trên này có người khác thay!

Tôi giật thót người. Nụ cười vừa nở vụt tắt. Tôi suy nghĩ: lẽ nào tiền trong cặp ông có bị mất, ông đưa tôi về Phnôm-Pênh để hỏi tội. Mới phút trước, thái độ ông thân tình lắm mà! Thấy tôi suy tư, ông vòng tay qua vai tôi và nói:

- Anh về Phnôm-Pênh làm việc với tôi, mỗi tháng anh làm công việc của tôi, trở lại Bat-đom-boong phát lương cho thợ, đóng thuế cho Kiểm lâm.

Niềm vui đến thật bất ngờ và trong hoàn cảnh của tôi lúc này nó lớn lao như một cuộc đổi đời. Mới mấy tháng trước là một phu khuân vác, rồi làm phiên dịch, trông coi thợ cho ông chủ đã là công việc khá “sang” rồi, nay lại về sống ở thủ đô cùng ông chủ, đến tháng thay ông chủ đi phát lương... Tôi thật sự được người chủ tin dùng. Tôi nhủ thầm trong bụng: ở hiền gặp lành!”

Khi đến Phnôm-Pênh, ông Danh mới biết thêm người chủ Ấn Độ của mình. Người chủ tên I-bra-him, một nhà doanh nghiệp lớn ở Phnôm-Pênh. Ngoài việc mở trạm thu mua gỗ ở Bat-đom-boong, ở Phnôm-Pênh, ông chủ có hai cửa tiệm bán vải rất lớn, phải thuê hơn 20 người Ấn Độ bán hàng và giúp việc. Vợ chồng ông chủ coi hai cửa tiệm này, nhưng chủ yếu vẫn là ông. Bà chủ cùng cô con gái chỉ ở trong nhà trông coi nhà cửa và người làm trong gia đình. Ông Danh chưa hề làm quản lý điều hành công việc trong gia đình. Vì thế, khi ông I-bra-him đưa ông Danh về Phnôm-Pênh rồi giao hẳn cho việc quản lý một tiệm vải, làm cho ông Danh càng ngỡ ngàng lo lắng. Nhưng bấy giờ, ông chủ coi ông Danh như người nhà nên ông ta rất tin cậy và chỉ bảo rất chu đáo từng việc trong quản lý cửa hàng vải. Từ đó ông Danh học hỏi được nhiều điều ở ông chủ và cũng hết lòng làm việc cho ông chủ Ibrahim. Mặt khác ông chủ cũng cảm thấy mình may mắn gặp được một đệ tử hiền lành, giỏi dang, thông minh mà ông rất thương yêu như con đẻ trong nhà.

Trong chương 4 của HK, đoạn cuối đã ghi:

  “Qua cách nói chuyện hàng ngày giữa hai ông bà I-bra-him với tôi, tôi biết gia đình này đã dành cho tôi một tình cảm, sự ưu ái đặc biệt. Một hôm, ở cửa hàng vải, khi thấy bớt công việc, ông I-bra-him gọi riêng tôi vào phòng ông và nói:

- Anh làm việc tôi rất hài lòng. Bản tính anh là người tốt, thật thà. Giữa cuộc sống này, tìm một người tốt như anh hiếm lắm. Anh biết gia đình tôi có cô con gái đã đến tuổi lập gia đình. Tôi muốn anh làm rể tôi, anh có đồng ý không?

Từ khi tôi gặp ông I-bra-him đến nay, đã có ba lần thay đổi, địa vị như là ba bước ngoặt trong cuộc đời tôi: thứ nhất, từ người phu khuân vác, sang làm phiên dịch; từ người phiên dịch, thay ông chủ phát lương cho thợ rừng, cho công nhân; rồi quản lý một cửa tiệm độc lập lại thành phố Phnôm-Pênh. Mỗi lần là một bất ngờ với tôi. Nay thêm một bất ngờ lớn: được ông nhận làm con rể. Nếu hấp tấp, tôi sẽ trở thành người hồ đồ, lợi dụng lòng tốt của người ta. Tôi thật sự lúng túng, chưa trả lời ông ngay được, tôi xin ông để tôi suy nghĩ vài ngày mới quyết định. Suốt mấy đêm liền tôi suy nghĩ đến gia đình, vợ con ở Việt Nam, đến quê hương... Tôi mang chút mặc cảm của một người nghèo, sống tha hương, không người thân thích. Còn gia đình ông I-bra-him là ông chủ lớn, liệu con gái ông có yêu tôi không, hay rồi tôi chỉ nhận được sự rẻ khinh? Ông an ủi và cho tôi biết thêm phong tục của người Ấn Độ. Ông giảng giải: - Phong tục của người Ấn, khi gả chồng cho con gái, gia đình sẽ tặng của hồi môn. Đây là của riêng hai vợ chồng, không ai có quyền xâm phạm vào đó.

Tôi đã có nhiều đêm thức trắng. Tôi chưa có tình yêu với cô con gái ông I-bra-him, nhưng tấm chân tình của ông tôi đã nặng mang ơn nghĩa của ông. Tôi đã nhận là quá lớn: nợ áo cơm, nợ ân tình!”

Vậy là ông Danh đã mềm lòng trước những lời ân tình đầy thực lòng của ông chủ. Do đó, sau khi đã suy nghĩ kỹ, ông đã nhận lời làm con rể ông chủ. Ông không còn cách lựa chọ nào khác trong hoàn cảnh này. Ông I-bra-him vô cùng mừng rỡ. Ông chủ đặt tên Ấn Độ cho con rể là Hăc-xa-cốp Chan-dra và xin được nhập quốc tịch Ấn Độ. Sau đó đám cưới ông Danh và cô Anna Mari được tổ chức tại Phnôm-Pênh theo nghi thức, phong tục của người Ấn Độ. Ông bà chủ cho của hồi môn là một cửa tiệm và một căn nhà để vợ chồng ra riêng. Sau khi trở thành vợ chồng, ông Danh mới nhìn rõ được mặt vợ mình và được tiếp xúc một cách dè dặt. 

Trong chương 5 của HK của ông, có đoạn đã ghi:

“Giờ đây, nàng trở thành vợ tôi. Nàng có thân hình cao ráo, cân đối với một gương mặt đẹp, phúc hậu. Tôi choáng váng trước vẻ đẹp thanh thoát này, nhưng lòng se lại vì tội nghiệp cho nàng chẳng quen biết tôi, có biết chăng chỉ nghe tên anh chàng làm công như mấy chục người làm công cho gia đình nàng.

Đám cưới xong, tiễn khách khứa ra về hết, cha mẹ vợ dặn dò hai vợ chồng đôi câu rồi về tiệm vải. Tôi và Anna Mari ở lại căn nhà riêng của cha mẹ vợ tặng. Nàng không biểu lộ cảm xúc gì, gương mặt nhẹ nhàng, bình thản. Còn tôi lại trào dâng một tình cảm tội nghiệp xen lẫn sự quí trọng người con gái. Lẽ ra với địa vị và nhan sắc của nàng, nàng có thể lấy một người chồng giàu có, gia đình môn đăng hộ đối với gia đình nàng. Nhưng vì lời hứa của cha mẹ, nàng bằng lòng đám cưới với anh chàng làm công, tứ cố vô thân như tôi. Thật tội cho nàng. Tôi đang bâng khuâng nghĩ ngợi, thì nàng vào phòng riêng khóa trái cửa lại, không nói một lời nào với tôi.

Tôi ngồi lặng lẽ nơi phòng khách, lấy chai rượu Martell nhấm nháp mà thấy lòng nặng trĩu. Mùa cưới ở xứ mình vào tháng Một, tháng Chạp âm lịch(1). Đám cưới của tôi giữa mùa thu. Đó là một ngày nắng ráo, đẹp trời ở Phnôm-Pênh. Đêm ấy trời không lạnh, mà tôi cảm giác như mình đang trầm trong nước. Bốn bề vắng lặng như tờ. Tôi bước lại cửa phòng Anna Mari và gõ nhẹ nhàng từng tiếng một. Mấy lần gõ, phòng vẫn khép chặt. Tôi về phòng mình. Tôi biết nàng sẽ luôn luôn giữ một khoảng cách với tôi.

Sáng hôm sau, tôi đến cửa hàng vải, mở cửa buôn bán bình thường. Khách càng đông hơn. Tôi bây giờ là con rể một người có tiếng tăm ở Phnôm-Pênh. Vị thế khác hơn, mối quan hệ rộng hơn. Anna Mari ở nhà trông coi người giúp việc. Khi tôi trở về nhà, cơm nước có sẵn, nhưng nàng chưa bao giờ ngồi ăn cơm chung với tôi. Tháng ngày trôi qua, công việc buôn bán ở tiệm vải luôn bận rộn, tôi như quên nỗi buồn riêng này. Hơn nữa, cuộc đời tôi từng nếm trải bao đắng cay vất vả, cũng đã trải qua những đắng cay trong tình cảm riêng tư, tôi sẽ vượt qua được thử thách này. Tôi nhớ lời ông I-bra-him:

- Tôi sẽ bảo ban được con gái tôi. Miễn sao anh luôn giữ được đức tính thật thà, hiền lành. Sau này vợ chồng tôi già, sẽ nương tựa vào vợ chồng anh.

Ông I-bra-him đã đặt trọn niềm tin nơi tôi. Nhưng giờ đây tôi chưa thuyết phục được Anna Mari. Tôi thấy mình phải có trách nhiệm cho nàng hiểu tôi không phải là kẻ lợi dụng nàng và gia đình nàng. Tôi là người chịu ơn gia đình nàng và phải có trách nhiệm với nàng. Thật khó cho tôi là Anna Mari luôn tìm cách lánh mặt tôi. Phòng riêng của nàng luôn khóa chặt. Tôi cắn răng không nói cho cha mẹ vợ biết chuyện gia đình vợ chồng tôi. Ông bà cứ tưởng chúng tôi sống đầm ấm lắm. Bà mẹ vợ lâu lâu lại thúc chúng tôi mau cho ông bà bế cháu, vì chúng tôi cưới cả năm rồi”.

Một năm trôi qua, cuộc sống của hai vợ chồng son không có gì thay đổi.  Ông Danh cảm thấy lòng trống trải, phải lặng lẽ, âm thầm chịu đựng, không biết làm thế nào cả! Ban ngày thì làm việc, ban đêm về nhà nằm một mình trên chiếc giường rộng thênh thang.  Ngày mai lại vùi đầu vào công việc để khuây đi chuyện riêng tư.

Sau một thời gian, ông Ibrahim chuẩn bị cả nhà chuyển về Ấn Độ. Ông tự tay hóa trang cho con rể như người Ấn. Trình hộ chiếu Ấn Độ, không ai biết ông Danh là người Việt Nam.

Chuyến tàu khách của hãng Messagerie Maritime từ bến cảng Nhà Rồng đưa cả gia đình ông Ibrahim đi Ấn Độ. Sau những ngày lênh đênh trên biển cả, gia đình ông chủ đã về đến Niu Đê-li. Ở đây, bà con họ hàng đến thăm đông đúc, tình cảm. Họ hàng dành một ngôi đẹp nhất cho gia đình ông Ibrahim”.

Trong đoạn cuối ở chương 5 của HK, đã ghi:

“Sau khi giới thiệu tôi với họ hàng, cha mẹ vợ đưa vợ chồng tôi đi du ngoạn một số nơi ở Ấn Độ, rồi làm mấy cuộc lễ để xin thần phật ban phước lành cho vợ chồng tôi. Tôi ngồi cạnh Anna Mari, chắp tay, quì nghe mấy vị cao tăng đọc kinh và liếc nhìn nàng, vẫn gương mặt lạnh như tiền. Tôi hiểu, nàng chỉ làm cho cha mẹ vui, chứ trong lòng nàng không có niềm tin và chẳng có tình yêu với tôi. Tôi nuốt đắng cay đang trào dâng lên cổ và tự trách mình vì sao lúc ở bến Nhà Rồng, đã có một phút do dự mà không quyết định ở lại. Giờ đây thêm bao nhiêu dặm đường xa. nơi xứ sở cách đất nước mình vời vợi, biết làm sao để khỏi mang nỗi tủi nhục bị một người con gái khinh thường như thế này?” 

Trong hoàn cảnh cuộc sống vật chất thì đầy đủ, nhà ở khang trang, nhưng đời sống vợ chồng của ông Danh thì thật buồn tẻ. Ông chẳng biết than thở chia sẻ cùng ai. Ông đành phải kiên trì chịu đựng nỗi khổ tâm kéo dài ấy. Sau đó nghe người ta tuyển người đi Tây Phương(Phía Bắc Ấn Độ) tu Phật. Họ đã tuyển được hai người chỉ cần thêm một người nữa là sẽ làm lễ tiễn đi. Thế là ông Danh quyết định đi tu trong tâm trạng đang bế tắc về con đường tình chồng vợ…

Trong đoạn đầu chương 6 của HK, có đoạn đã ghi:

“Chuyện tưởng như giản đơn là đi tu để giải thoát cho mình, không ngờ chuyển sang một tình thế khác. Một hồi chiêng trống được cất lên tưởng chừng như không dứt để báo tin vui cho phật tử khắp vùng biết có người sẽ đi tu Phật. Mọi người ùa đến, vây kín lấy tôi và kính cẩn cúi chào, nét mặt ai cũng hân hoan, rạng rỡ. Có người quì xuống chân tôi và cúi hôn. Tôi hết bất ngờ này đến bất ngờ khác. Tôi nhìn lên, thấy người cha vợ tôi dắt tay Anna Mari, lách đám đông, tiến thẳng về phía tôi một cách khó khăn.Mari tới, nàng chắp tay xá tôi như xá một người đắc đạo. Gương mặt ngày thường lạnh tanh của nàng biến đâu mất, mà quì trước tôi là một Anna Mari ngoan ngoãn, thành kính với nét mặt đầy xúc động. Mặt tôi nóng bừng lên, trào dâng niềm cảm xúc mới mẻ trước người vợ mình mà đã bao nhiêu tháng ngày qua nàng đã đóng băng tình cảm.

Theo tục lệ dành cho người đi tu, tôi phải ở lại chùa bảy ngày để làm lễ và xông hương, sau đó trở lại từ giã gia đình. Khi vào chùa để làm các công việc này, tôi được thay y phục bằng bộ đồ vàng cà sa, ngồi thiền định trước bàn thờ Phật tổ. Suốt một tuần đó, ngày nào cha mẹ vợ và vợ tôi cũng đến chùa quì sau lưng tôi, khi về, họ cúi xuống trước mặt tôi, xá rồi ra về. Còn tôi, bảy ngày bảy đêm ngồi thiền định như vậy không nhúc nhích, không nói, không nhìn ai, ngủ cũng trong tư thế đó. Hết ngày thứ bảy ngồi thiền ở chùa, chiều hôm đó, cả họ hàng bên vợ tề tựu trước cổng chùa để rước tôi về gia đình. Tòa biệt thự đẹp nhất nơi gia đình chúng tôi ở chật ních người. Tôi được đặt giữa đại sảnh và tất cả mọi người vây xung quanh. Đây là phước lớn của dòng họ vì có người đi tu Phật, nên niềm vui mừng khôn xiết đối với họ. Tất cả mọi người đều lặng lẽ, thành kính, hương trầm tỏa ngát. Tôi ngồi thiền định một tay duỗi thẳng trước ngực, một tay đặt trên tấm áo cà sa vàng bằng lụa.

Đến khuya, mọi người tản ra dần và đi nghỉ hết. Anna Mari vẫn quì trước mặt tôi, hai tay thành kính chắp trước ngực, đầu cúi, mắt khép hờ như chờ đợi tôi có điều gì sai bảo. Tôi đứng lên lặng lẽ rồi đi về phòng. Mấy ngày ngồi thiền, tôi chưa quen nên thấm mệt. Tôi nằm đăm đăm nghĩ ngợi về cuộc đời mình lại bước sang một bước ngoặt mới như là số phận được an bài. Bỗng Anna Mari khẽ đẩy cửa, bước vào phòng tôi.

Sau hơn một năm thành chồng vợ, đây là lần đầu tiên nàng chủ động bước vào phòng tôi. Nàng đến bên giường quì xuống, hai tay chắp trước ngực, đầu hơi cúi. Tôi nằm im. Nàng vẫn ngồi lặng thinh. Tôi ngồi dậy. Cả hai cùng im lặng một lúc lâu, tôi đưa tay nâng nàng đứng dậy và đưa tay choàng qua hông nàng. Anna Mari cúi đầu và đi giật lùi ra ngoài. Lát sau nàng quay trở lại, trên người cô mặc một tấm áo ngủ vải voan mỏng may kiểu Châu âu, chứ không quấn chặt xà rông nhiều lớp kín mít như mọi ngày. Anna Mari đến với tôi bằng tất cả sự nồng cháy, yêu thương của một người vợ, một người yêu. Nét lạnh lùng ngày thường biến mất. Bên tôi, một Anna Mari kiều diễm, quí phái, dịu dàng. Nàng đã cho và được nhận một tình yêu đích thực. Nhưng hạnh phúc và cuộc sống chồng vợ của tôi vàMari thật ngắn ngủi, tôi đã phải đi tu phật.  Suốt một tháng trời được phép về gia đình, lúc nào Anna Mari cũng ở bên tôi. Đến ngày phải lên đường, cả gia đình tiễn tôi đến chùa. Cờ phướn rực rỡ. Những người đi tu phật được đi trên những chiếc kiệu. Vợ tôi quì bên đường, đọc kinh tiễn tôi. Một tháng bên nhau vợ chồng mặn nồng yêu thương, Anna Mari đã mang trong mình giọt máu của tôi. Trong khi tôi đang len lỏi đi trong rừng già Ấn Độ, đói khát, hiểm nguy rình rập dọc đường, thìMari sinh hạ cho tôi một đứa con trai, đặt tên là Xô-Chim. Đó là mùa xuân năm 1935, tôi đã được làm cha mà tôi không biết”.

Chuyện đi tu của ông Danh không phải vì một ý thức và tư tưởng sùng đạo thực sự trong lòng ông mà do sự chán chường, tủi phận nam nhi khi bị người vợ coi thường, không tôn trọng tình nghĩa. Vì vậy, ông đi tu để có thể tìm được niềm an ủi cho cuộc đời nhờ những đạo lý từ bi qua những lời kinh, tiếng mõ, mùi hương…

Mà chuyện đi tu đâu phải dễ! Không phải ai muốn đi tu cũng thành công cả. Họ phải qua mấy vòng thử thách, sát hạch nghiêm ngặt mới tuyển chọn được người xứng đáng đạt tiêu chuẩn đi sang tận chùa Tây Phương để luyện thành Phật sống. Ông Danh phải trải qua những thử thách như khổ cực, nguy nan, chịu đói, chịu khát, chịu đau đớn, chịu diệt dục… Các thử thách đó, một số người quyết tâm đi tu có thể chịu đựng vượt qua. Nhưng chỉ có hai hạng mục thử thách sự chịu đau đớn và chịu diệt dục thì nhiều vị đi thi đã bị loại. Đó là việc người đi thi ngồi yên, chấp tay trước ngực, miệng nói liên tục “Nam- mô A Di- đà Phật!” và chịu đựng độ nóng cháy của một viên nhỏ hương trầm đốt trên đỉnh đầu trọc cho đến khi cháy hết. Mục này có khá nhiều vị tu đã bỏ cuộc vì đau đớn do nóng quá không chịu nổi khi da thịt trên đầu cháy khét. Đối với ông Danh thì thử thách này ông đã vượt qua.

Sang thử thách chuyện diệt dục. Người ta cho mấy cô gái Ấn độ xinh đẹp khỏa thân hoàn toàn vào múa lượn trước mắt các thí sinh đi tu. Các thí sinh đi tu này cũng ở trần truồng. Sau đó, các cô gái đến ôm lấy từng vị nam tu. Nếu vị nam tu nào mà dương vật cương cứng lên là Ban giám khảo sẽ loại trừ. Ông Danh cũng lọt qua được vòng thử thách cuối cùng này. Thế là ông Danh được chọn chính thức đi sang đến chùa Tây Phương để luyện thành Phật sống.

Trong chương 6 của HK, có đoạn đã ghi:

“Hai người bạn đi tu Phật cùng tôi, đã rẽ mỗi người một hướng. Tất cả đều đi chân trần. Một tháng đầu tôi đi trên những con đường mòn, không gặp nhà cửa, không có người, nhưng lâu lâu lại thấy có một cái am nhỏ, có trái cây và nhang đèn. Tôi thắp nhang vái tạ và lấy hết trái cây cho vào túi để ăn dần. Mấy bài kinh học được tôi luôn đọc lẩm nhẩm dọc đường. Nhờ vậy quên được phần nào những vất vả gian truân. Nhiều cơn đói làm tôi hoa mắt. Tôi phải tập ăn các thứ lá, các loại trái mà chim ăn (không độc). Đêm thì trèo lên cây ngủ để tránh rắn, thú rừng ăn thịt. Trước khi tiễn những người lên đường đi tu Phật, người ta dạy cho mỗi người phân biệt những loại lá cây để chữa bệnh: rắn cắn, đau răng, gãy chân tay... tôi thuộc lòng để tự vệ và chữa trị cho mình khi cô độc giữa rừng.

Trong những tháng ngày đi thăm thẳm trong rừng, tôi chỉ biết dùng nghị lực để chiến thắng hiểm nguy gian khổ để đi đến đích chứ chưa hình dung được đi tu đắc đạo, thành Phật rồi làm gì? Nhưng với ý chí và nghị lực tôi tin mình sẽ thành công.

Đi hơn nửa năm trời như vậy, tôi mới tới một cảnh chùa. Tôi mừng như muốn reo lên. Ở đây, tôi tiếp tục được chỉ dạy cách đi trong rừng, cách dùng lá cây xoa lên người để sống chung với các loại rắn độc. Chính tôi đã tận mắt thấy người ta nằm trong cảnh chùa nhung nhúc rắn, rắn bò vào cả áo cà sa người đi tu. Đi tu phật gian khổ hơn tu thường. Nếu đã đi tu Phật là phải tu cho đắc đạo. Nếu vì gian khổ mà quay trở về, không phải chỉ có bị phỉ nhổ vào mặt mà có khi còn bị giết, vì người ta nghi mình là qủi dữ, bị đuổi về. Cho nên, những người đi tu phật đã tình nguyện đi là họ không quay về, không bỏ trốn, nếu họ chết trên đường đi cũng được coi là đắc đạo. Đó chính là những vị bồ tát tử vì đạo.

Đi qua mỗi cảnh chùa, phải học hàng chục bài kinh, phải thật thuộc mới được đi tiếp. Mỗi cảnh chùa, phải học hàng năm mới thuộc hết kinh. Tôi học thuộc kinh nhanh hơn người khác là vì tôi biết chữ. Khi người đi tu Phật thuộc các bài rồi phải ngồi thiền và phải đọc lại cho thật nhuần nhuyễn mới được tiễn đi tiếp. Ai chưa thuộc thì ở lại học tiếp.Tây phương không phải là Tây Trúc mà thầy trò Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh. Tây phương thuộc vùng đất phía Bắc của Ấn Độ, phía Tây của Tây Tạng. Những người đi tu đến đây đều phải đi bằng chân đất, men theo những ngọn núi của rặng Hy-ma-lay-a thăm thẳm rừng già, cheo leo vách núi, thác đổ ầm ào, dây rừng chằng chịt, có khi đi hàng tháng trời cứ lạc loanh quanh trong rừng lại trở về chùa cũ đã đi qua. Tất cả người đi tu Phật trong rừng đều phải học lấy tiếng trong rừng - hay là tiếng rừng - để biết đường đi, để tìm được miếng ăn. Ví dụ: nghe tiếng thác đổ là biết có vực phía trước mà tránh. Vì vực thẳm, té xuống là rũ xương luôn tại đó. Lắng nghe tiếng chim hót, chim vỗ cánh để biết nơi nào có trái ăn - chim ăn là người ăn được. Người đi tu phật trong rừng chỉ có ăn lá và trái rừng để sống. Mọi thứ bệnh trong rừng cũng được chữa trị bằng lá cây.

Những ngôi chùa trên đường đi trong rừng đủ kiểu. Trong mười cảnh chùa tôi đi qua, chỉ có ba chùa nằm trong rừng, trong hang núi, cũng có cái lớn, các bệ thờ là những bệ đá được gọt đẽo tạo thành. Còn các cảnh chùa khác, đều do con người tạo nên, mỗi người góp vào một chút. Có người trên đường đi, biết mình không đi được nữa, tìm cách đắp thêm cho cảnh chùa; có người muốn sau này có người thờ mình, tự tạo nên cái am ngay bên cạnh rồi tu tại đó, sau khi viên tịch, người tại chỗ hỏa táng cho rồi tạo một nơi cắm hương hoa, đọc kinh siêu thoát và thắp nhang hàng ngày như các bồ tát khác viên tịch.

Cảnh chùa Tây Phương là chùa cuối cùng của mười chùa tôi đã đi qua. Khi thuộc làu hết kinh trong chùa, vị sư trụ trì trong chùa nói đã hết kinh dạy cho tôi. Tôi học kinh như vậy là đủ và chặng đường đi kéo dài gần mười năm để qua mười cảnh chùa trong rừng hoang vắng như vậy coi như tôi đã đắc đạo thành Phật rồi. Tại chùa Tây Phương, tôi cần có thời gian để ngồi thiền và đọc lại tất cả các bài kinh tôi đã học qua mười cảnh chùa. Tôi đã đọc đến mấy tháng trời (không nhìn sách). Một hôm trong khi tôi đang đọc, vị sư trụ trì vào nói tôi thôi không đọc nữa mà hãy trở về giúp ích cho đời - tôi đã trở thành Phật sống!

Nghe vị sư nói thế, tôi nghĩ ngợi: giúp ích cho đời là sao? Chắc thời gian đi trong rừng sáu, bảy năm trời gian khổ và được học nhiều bài thuốc trị bệnh từ các loại lá rừng, nên bây giờ trở lại dùng chúng giúp ích cho đời chăng? Nếu như thế cũng chẳng uổng phí công gần chục năm tôi đi trong rừng nhịn đói khát, sống chung với rắn độc, thú rừng và tin mình không bị chúng cắn chết vì đã có một kho thuốc quí giữa rừng. Tôi rất vui.

Vị trụ trì chùa này chuẩn bị cho tôi trở về với đời bằng hai viên ngọc, bọc kỹ trong hai cái túi. Ông không hề giải thích gì, chỉ nói hai viên ngọc này giúp tôi thoát mọi tai ương. Tôi cảm động đeo hai viên ngọc vào cổ rồi tới quì trước mặt từng người và đọc hết một bài kinh chúc phước để từ biệt rồi lặng lẽ ra đi. Các vị sư vẫn ngồi thiền và đọc kinh, không ai đứng lên tiễn tôi, lúc ấy trời vừa sẩm tối”.

Ông Danh thực hiện chuyến hành trình từ Tây phương trở về miền xuôi. Ông đi mất mấy tháng trong đường rừng, mấy tháng men theo sườn núi mới tới những con đường về xuôi xuống đồng bằng. Xóm làng ẩn hiện ở những phía rừng xa. Khi đói, đã có lá cây, trái rừng; khát, có nước suối. Ông cứ đi mãi theo những tấm biển chỉ đường. Có lần gặp những tộc người miền núi, họ reo hò xông tới vây quanh ông như muốn đâm chết người lạ. Ông Danh vẫn bình tĩnh ngồi lần tràng hạt, đọc kinh Phật mặc cho họ muốn làm gì thì làm. Sau một hồi lâu thì họ bỏ đi. Ông cũng mệt lăn ra ngủ. Khi tỉnh dậy, thấy bên cạnh có nhiều trái cây, thức ăn thứ uống. Biết họ dành cho ông và ông ăn no rồi tiếp tục đi. Không ngờ ông lại gặp sự nguy hiểm khác. Lần này còn nguy nan hơn. Nhưng rồi ông cũng đã vượt qua để đi tiếp đến được Tân Cương và có nhiều diễn biến tiếp theo của cuộc hành trình đầy may mắn, thuận lợi.

Trong chương 6 của HK, có đoạn đã ghi:

“Một đám người có cả đàn bà đàn ông, xông vào trói tôi lại, đưa lên giàn hỏa, đặt tôi nằm trên đó trong khi họ đọc kinh và nổi lửa đốt. Lần này tôi sợ thật. Tôi nghĩ nếu viên tịch tại đây, tôi có trở thành bồ tát không? Nhưng lửa chỉ cháy nóng lưng rồi tắt. Một lát, họ khiêng tôi xuống và mở trói. Tôi lại ngồi xuống lần tràng hạt và đọc kinh. Tất cả họ quì xuống chung quanh tôi vừa lạy vừa xá và cũng đọc kinh theo tiếng của họ. Trời vừa nhá nhem, họ đội đến mấy mâm trái cây. Tôi ra hiệu chỉ nhận một mâm đủ dùng, còn lại phân phát cho tất cả mọi người. Họ cúi đầu xá tôi rồi ra về. Với thái độ của họ, tôi hiểu rằng họ thử thách để xem tôi có phải là chân tu hay không. Tôi liều mạng để qua khỏi, chứ không nghĩ phép nhiệm màu của hai hạt ngọc vị sư trụ trì ở chùa Tây Phương đã cứu tôi. Tôi lầm lũi đi và vượt qua gian nguy như vậy mà không để ý là tiếng đồn về ông Phật sống được dân chúng lan truyền suốt dọc đường tôi đi. Cho nên, khi tôi đến Tân Cương, có những người dọc theo đường mang cờ phướn đi theo tôi, không phải họ rước tôi, mà chắc họ theo để được chút phước của ông “vua Phật”. Ở Tân Cương được mấy ngày thì sứ quán vương quốc Anh đưa xe đến đón và đưa thẳng về Thượng Hải, lúc này là tô giới của Vương quốc Anh. Tôi không mấy lúng túng vì có chút ít tiếng Anh, nhờ học được lúc làm rể ở Phnôm-Pênh và Ấn Độ trong gia đình Ibrahim. Họ đón tôi thật trịnh trọng, đoàn xe ba chiếc, tôi ngồi chiếc giữa một mình. Vì xa gia đình người vợ Ấn Độ quá lâu (tròn chục năm chứ ít đâu!) và hoàn toàn bặt tin tức. Nhưng khi đó tôi có suy nghĩ chắc nhờ uy tín của gia đình cha vợ mà họ đối đãi với tôi như vậy chăng? Tôi cũng không tìm hiểu mà cứ đi theo họ.

Đến Thượng Hải, họ cho thầy thuốc Ăng-lê đến khám bệnh cho tôi. Tôi cảm ơn họ và nói: “Những năm tôi đi tu đơn độc trong rừng, khi bệnh tật tôi tự chữa lấy bằng lá cây”. Tôi không ăn uống các thức họ mang tới, chỉ ăn trái cây và uống nước suối. Sứ quán vương quốc Anh cho mang mấy bộ áo cà sa vàng rực rỡ như loại áo cà sa của thầy Đường Tăng, và xin lại những vật dùng như giỏ, mũ và bộ áo cà sa bằng lá cây của tôi (mũ, giỏ cũng bằng lá cây) để đưa vào viện bảo tàng. Tôi không nhận các bộ cà sa mới mà chỉ mặc một loại áo cà sa lá cây thôi. Khi tôi sắp rời gia đình đi tu Phật, vợ tôi có may cho tôi vài bộ cà sa. Tôi vừa mặc vừa tặng các bạn tu ở các cảnh chùa. Mấy chiếc áo đã rách hết trên đường đi, nên tôi phải tạo ra loại áo lá cây để mặc như tất cả các vị sư. Vì vậy, chiếc áo lá cây là vật kỷ niệm đặc biệt trong những năm tháng đi tu Phật của tôi. Loại áo cà sa này làm cũng giống như vải, phải chắp cho đủ bẩy mươi hai miếng. Ngoài việc mặc choàng che nắng che mưa, loại áo lá còn tác dụng chữa bệnh khi thời tiết thay đổi, tránh được khí độc nhiễm vào người (rừng thiêng, nước độc). Áo cà sa có 72 lá khác nhau. Mỗi một loại lá có công dụng khác nhau và che chở cho cơ thể một cách hữu hiệu. Mũ đội, túi mang bằng lá cũng thế.

Sau một tuần ở Thượng Hải, Đại sứ Vương quốc Anh đưa tôi qua Hồng Công, để tiếp tục đi Luân Đôn. Tôi không hiểu vì sao họ lại đưa tôi đi Luân Đôn. Nhưng tôi nghĩ có lẽ vì tôi là một “vị vua tinh thần” của đạo phật - một đạo có nhiều tín đồ không những ở Ấn Độ, mà còn trên cả thế giới. Lúc đó, Ấn Độ còn thuộc địa của Vương quốc Anh, nên việc họ có ý đồ riêng gì trong việc “độc quyền” tôi cũng dễ hiểu thôi. Từ đây họ tôn tôi là “vua Phật”, “Phật sống”, chắc có lẽ họ cho rằng tôi đã diệt được dục vọng, không ăn uống gì những thứ của phàm trần, chỉ ăn hoa quả, uống nước lạnh mà vẫn sống được nhiều năm trong rừng. Khi họ đem đến những món ngon vật lạ, tôi cũng không dùng, khước từ cả những chiếc áo cà sa kiểu Đường Tăng. Suốt ngày đêm không nói năng gì với ai, chỉ ngồi thiền và đọc kinh. Theo họ, tôi đã thành Tiên, Phật rồi.

Khi đến Luân Đôn, tôi được đưa vào một ngôi chùa nhỏ, nhưng rất sang trọng. Tôi cũng không yêu cầu bất cứ điều gì và không tiếp xúc với ai. Suốt ngày đêm vẫn ngồi trước tam bảo lặng lẽ và bất động. Với người Tây, điều này càng lạ lùng. Các bà, ông Tây đổ xô tới chùa mỗi ngày một đông, họ đi lễ chùa thì ít mà đi xem “Phật sống” thì nhiều. Họ nói xí xô xí xào quanh tôi. Tôi vẫn ngồi bất động. Có vài người xin tôi ban phước, tôi từ chối vì mình là khách, hãy để việc đó cho vị sư trụ trì chùa này.

Gia đình bên vợ đã được tin tôi tu đắc đạo, được Đại sứ Vương quốc Anh đưa đi nhiều nơi và hiện đang ở Luân Đôn, nên cha vợ tôi, ông Ibrahim, gởi đơn cho Toàn quyền Ấn Độ xin cho tôi được về gần gia đình. Trong đơn nói rõ tôi đã có vợ có con. Lúc đó, gia đình vợ tôi vẫn kinh doanh lớn ở Phnôm-Pênh như khi tôi còn ở nhà. Đơn xin cho tôi về thẳng Campuchia. Lúc ấy, ông Nêru là một chính khách nổi tiếng và có uy tín của Ấn Độ. Ông đang phất cao ngọn cờ cùng nhân dân đòi độc lập cho đất nước Ấn Độ. Vợ tôi gọi ông là dượng rể (vợ tôi và cố Thủ tướng I-đi-ra Gan-đi là chị em bạn con dì), có lẽ vì mối quan hệ này mà Toàn quyền Ấn Độ chấp thuận đơn của cha vợ tôi, để tôi được trở về Phnôm-Pênh sum họp gia đình.”

Được tin ông Danh sẽ trở về Phnôm-Pênh, cha vợ ông tiến hành cho xây dựng ngay một ngôi chùa riêng cho con rể trở về tu hành tại đó. Nhà vua Campuchia đứng ra bảo trợ cho việc xây dựng này. Hoàng gia Campuchia cử người đứng ra trông coi việc xây cất theo đúng nghi lễ và kiểu dáng cảnh chùa theo mẫu chung của đất nước chùa tháp. Ông Ibrahim đóng vào một khoản tiền khá lớn, còn lại là Hoàng gia Campuchia và nhân dân cúng dường. Cảnh chùa trở nên nguy nga và đẹp không thua gì cảnh chùa Phnom ở Phnôm-Pênh. Nhân dân Campuchia tâm niệm: một đất nước theo đạo Phật, mà có ông “Phật sống” để thờ thì vinh dự lắm!

Ông Lưu Công Danh  từ Luân Đôn trở về Phnôm-Pênh qua đường thủy đến bến Nhà Rồng. Sau đó Hoàng gia Campuchia đã cho một đoàn xe đón ông Danh về thẳng chùa Prệp Pra, nằm phía dưới Phnôm-Pênh, đường về Châu Đốc. Bấy giờ khoảng tháng chạp năm 1941. Khi về đến bến cảng Nhà Rồng, ông Danh đã biết được một số thông tin về đất nước Việt Nam và ông có nhiều tâm tư suy nghĩ đến gia đình,bà con…

Trong chương 6 HK của ông, có đoạn đã ghi:

“Tôi nhớ đến anh hai Lưu Quang Nên của tôi bị giặc Pháp giết. Tôi nghĩ đến gia đình, làng xóm sau hơn chục năm tôi đi biệt, không biết ai còn ai mất. Nước mắt tôi chực trào ra. Nhưng giờ đây, tôi là người tu hành, người ta tôn tôi là “vua Phật”, “Phật sống”, đi đâu cũng được đón đưa như vậy, hơn nữa tôi đang mang quốc tịch Ấn Độ, có mối ràng buộc với một gia đình chính khách, thì việc nói trở về quê hương giữa lúc loạn ly này đâu phải dễ.

Tôi vào chùa, không thể tưởng tượng được người ta làm các thủ tục, nghi lễ đón tôi - một “vua Phật”, bằng thịt bằng xương hiện hữu trước mặt họ. Hương hoa, cây trái và cả một dòng người dài như vô tận. Tất cả họ qùi, chắp tay xá, vợ tôi và thằng con Xô-Chim của tôi lẫn trong dòng người đó. Thời gian gần hai năm trời vợ tôi đi lễ chùa như mọi người, sau đó, tôi mới được gặp vợ tôi. Phong tục ở đây lạ lắm. Khi tôi được tôn là “vua Phật” thì người ta chọn những người con gái đẹp nhất đến xin được ngủ với tôi để lấy giống Phật. Họ cho tôi biết: Ba năm một lần, tuyển lấy ba cô gái đẹp đến chùa Prệp-pra của tôi để lấy giống Phật. Trong vòng sáu tháng, nếu cô nào có thai đẻ ra con trai thì đứa nhỏ đó được đi tu Phật. Nếu không có thai hoặc đẻ ra con gái là Trời Phật không nhận, những cô gái ấy trở lại sống cuộc đời dân dã, Khi tôi trụ trì chùa này, họ chỉ tuyển một lần, không biết các cô đó có sinh con không. Nhờ tục lệ này, vợ tôi mới được đến chùa ngủ với tôi mỗi lần hai ba đêm và tôi có thêm một đứa con trai tên Ta-Lép.

Một tục lệ khác cũng lạ, khi tôi tắm, người ta đem vô số chai lọ đến để xin nước tắm Phật về làm thuốc chữa bệnh. Nước này đem về, họ vừa uống vừa thoa bóp. Tiền của dân cúng lễ chùa không biết để đâu cho hết. Ban quản lý chùa xây thêm một căn nhà, đặt năm két sắt. Dân đến lễ chùa cúng dường chật kín hết các két sắt, phải mang đi gởi nhà băng. Sau đó, số tiền này, tôi cho xây một bệnh viện gần chùa, thuốc men cho người bệnh miễn phí, các y tá, bác sĩ được trả lương bằng tiền nhà chùa do dân đóng góp. Mỗi người tới chữa bệnh, đều được nhà chùa cấp cho một tấm thẻ để qua bệnh viện chữa miễn phí.

Tôi trụ trì ngôi chùa Prệp-Pra gần 5 năm (từ năm 1941-1945). Khi cách mạng tháng Tám thành công, người Pháp biết tôi trở về Việt Nam theo kháng chiến, họ cho ném bom ngôi chùa và bệnh viện này thành bình địa. Thực dân Pháp còn ra tuyên bố xử vắng mặt tôi. Vì lúc ấy ông Sơn Ngọc Minh cùng những người cách mạng Campuchia nổi lên chống Pháp, không cho chúng trở lại đặt ách nô lệ lên nhân dân Campuchia một lần nữa. Đạo quân của Sơn Ngọc Minh lấy tên là It-xa-ra. Người Pháp cho là ngôi chùa Prệp-pra là nơi để cho It-xa-ra đặt làm sào huyệt nên họ san bằng nó và xử tôi cùng với tội theo Việt Minh là thế”. 

Sau sự kiện Pháp cho ném bom ngôi chùa ông Danh trụ trì và xử tội vắng mặt ông, ông Danh không bình tâm ngồi thiền nơi cửa Phật nữa. Ông quyết định trở về quê hương; trở về với Tổ quốc Việt Nam sau hơn mười năm xa cách lòng đầy thương nhớ. Việc ông Danh trở về quê hương đi tham gia kháng chiến, ông không nói gì với gia đình bên vợ. Vì nói ra điều đó cho họ biết thì khó giải quyết việc rời bỏ tu Phật để đi kháng chiến chống giặc Pháp. Do đó ông đành im lặng ra đi. Ông thuê xe ô tô đi về biên giới Việt Nam đến Châu Đốc.  Bà con Châu Đốc vẫn lui tới Campuchia, có đi lễ chùa nên họ đã nhận ra ông. Thế là tin “Vua Phật” Lưu Công Danh về Việt Nam được lan đi. Anh em trong đội biên phòng Việt Nam nghi ngờ và giữ xe lại, nhưng không ai dám có ý kiến gì. Tất cả sự việc được báo cáo lên các cấp trên chờ ý kiến giải quyết. Ông Danh ở lại chờ đợi, nhưng ông cũng không bực tức than phiền gì mà ông nghĩ rằng, đã xa xứ sở và chờ đợi ngày về bao nhiêu năm thì giờ đây được đứng ngay trên đất mẹ, dù có chờ thêm đôi ngày có sao đâu!  Nghĩ thế mà lòng ông trào dâng nỗi vui mừng và xúc động... Sau đó, ông được Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam bộ mời lên gặp. Bấy giờ ông Ung Văn Khiêm phụ trách Công an đến gặp “Vua Phật” Lưu Công Danh. Ông Danh mừng lắm vì ông Danh đã nghe tiếng ông Khiêm từ lâu. Và qua cuộc chuyện trò, trao đổi ý kiến, ông Danh vẫn một mực đi tham gia kháng chiến cứu quốc chứ không đi con đường tu Phật nữa. Sau đó ông Danh được nhận nhiệm vụ mới của người cán bộ kháng chiến.

Trong chương 7 của HK, có đoạn đã ghi:

“Cử chỉ thân tình của một người đại diện cơ quan Nhà nước tiếp nhà tu như tôi, khiến tôi càng tin tưởng con đường mình quyết định chọn trở về gia nhập kháng chiến là đúng đắn. Anh Ung Văn Khiêm mời tôi uống trà, rồi mời cơm có thịt cá và món đặc sản mắm Châu Đốc. Tôi đã quyết định trở về đời thường, nên không ngần ngại ăn bữa cơm thân tình này. Tôi cũng không thể quên được buổi trò chuyện đầu tiên với anh Ung Văn Khiêm.

Đầu tiên anh hỏi tôi: “Pháp đã trở lại đánh chiếm nước ta và Lào, Campuchia. Nhà chùa mạo hiểm trở lại đây làm gì?”. Tôi nói với anh tôi xa quê gần 15 năm rồi, tôi nhớ nhà lắm! Nghe tôi nói vậy, anh Ung Văn Khiêm có vẻ cảm động. Anh hỏi tiếp quê quán. Tôi cho anh biết quê tôi ở Châu Thành - Rạch Giá. Từ Châu Đốc qua Hà Tiên, về quê tôi cũng gần. Trầm ngâm một chút, anh Ung Văn Khiêm cho tôi biết thêm một số tin tức về việc Pháp trở lại đánh chiếm nước ta. Anh nói: Pháp đã cho quân lính đổ bộ lên Rạch Giá bằng tàu qua đường biển. Chúng ta chuẩn bị cuộc kháng chiến lâu dài. Anh Ung Văn Khiêm khuyên tôi không nên trở về Rạch Giá nữa, mà nên trở lại Campuchia, ở nhà chùa tu hành vì anh biết tôi nổi tiếng là “Vua Phật”, được nhiều nơi biết. Anh hứa sẽ cho người hộ tống để tôi đi an toàn.

Tôi biết anh Ung Văn Khiêm lo cho sự an nguy của tôi, của một “Vua Phật” đang mang quốc tịch Ấn Độ. Tôi mạnh dạn nói với anh:

- Không. Tôi đi làm chi nữa. Quê hương tôi ở đây, thì tôi ở lại đây thôi.

Anh Ung Văn Khiêm nhìn tôi đầy trìu mến và nói nhẹ nhàng:

- Ở lại đây, anh sẽ phải đương đầu với giặc Pháp nguy hiểm và gian khổ vô cùng.

- Gian khổ chi bằng đi tu Phật ở tận Tây Phương. Còn nguy hiểm ư? Các anh và mọi người chịu đựng được thì tôi cũng chịu đựng được. Miễn sao ta đánh đuổi được bọn thực dân Pháp tàn bạo này, giành lại độc lập cho đất nước.

Thấy thái độ dứt khoát của tôi, chừng như anh Ung Văn Khiêm đã an tâm, không nói thêm gì. Nhưng anh đang nghĩ ngợi, không biết bố trí cho “Vua Phật” làm gì. Anh vỗ vai tôi, cử chỉ gần gũi như anh em quen đã lâu ngày: “Anh ở lại. Chúng ta như anh em một nhà. Cơ quan Mặt trận Việt Minh sẽ tập hợp mọi tầng lớp nhân dân theo cách mạng kháng chiến”.

Khi từ Campuchia trở về, ngoài chiếc xe hơi hiệu Renault đang dùng, tôi còn tặng cho cách mạng một vali bạc mà tôi dự định mang về quê giúp đỡ gia đình. Bây giờ, tôi thấy cách mạng, kháng chiến đang cần, tôi xin tặng hết cho cách mạng. Tôi nói với anh Ung Văn Khiêm: “Xem đây là tấm lòng của tôi, một đóng góp nhỏ của tôi cho cách mạng. Tôi cũng sẽ vì cách mạng, vì kháng chiến mà sẵn sàng xả thân”. Anh Ung Văn Khiêm hỏi tôi muốn ở cơ quan nào. Tôi nói:

- Cơ quan nào cũng là của cách mạng cả. Tôi đã tới đây thì ở lại đây cùng các anh.

Thật tình lúc này tôi chưa biết cơ quan của anh Ung Văn Khiêm là cơ quan gì. Với tôi, cơ quan nào, nhiệm vụ gì nếu được phân công thì đó là nhiệm vụ cách mạng. Tôi thay bộ áo cà sa và từ ngày 26/9/1945, tôi đã mặc những bộ đồ bà ba đen như mọi người mặc. Tôi đã trở thành một Lưu Công Danh của đời thường, Lưu Công Danh của cách mạng. Cũng trong ngày hôm đó, anh Ung Văn Khiêm và các anh ở Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam bộ cho tôi biết Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào Nam bộ. Cả nước đứng lên cùng Nam bộ kháng chiến. Chẳng bao lâu, Pháp đã tiến tới Châu Đốc bằng hai đường: Từ Cần Thơ, Long Xuyên tới, từ Tà Keo kéo xuống Tịnh Biên, có cả máy bay Đacôta thả quân nhảy dù xuống Tri Tôn để móc nối với bọn phản động đang ẩn náu tại đây, chuẩn bị tái chiếm Châu Đốc. Tất cả các cơ quan dân chính của tỉnh và Nam bộ được lệnh rút sâu vào cứ, chỉ để lại lực lượng quân sự và dân quân tự vệ cầm chân giặc. Các cơ quan kháng chiến, lực lượng thanh niên đang hừng hực khí thế cầm súng đánh giặc, không ai muốn theo cơ quan vào rừng sâu. Trong khi đó, có một số bị tình nghi là Việt gian, chưa điều tra rõ để kết luận, nên không thể đem họ theo các cơ quan, mà cũng chưa thể thả họ được, phải có giám thị để cai quản họ. Anh Ung Văn Khiêm tham khảo tôi có làm được việc này không? Tôi trả lời không ngần ngại:

- Cũng là việc của cách mạng. Nếu các anh thấy việc này hợp với tôi, thì tôi nhận.

Anh Ung Văn Khiêm tỏ vẻ hài lòng và giao việc làm giám thị, còn gọi là giám đốc trại giam cho tôi. Anh Ung Văn Khiêm cho hơn một tiểu đội dân quân tự vệ giúp việc. Tôi biết cách mạng đã tin dùng tôi. Chính anh Ung Văn Khiêm sau này đã nói:

- Tôi biết anh là người từng đi tu và hiền hậu chất phác, vô tư. Anh không thể làm hại ai và cũng không thể là người phản bội, nên công việc giám thị thích hợp với anh!

Tình hình ngày càng phức tạp. Pháp cho viện binh và đánh lan ra khắp Nam bộ. Dù đã chuyển vào rừng sâu, nhưng trại giam dân chính này quá sơ sài, nếu đánh chiếm được, quân Pháp sẽ thả hết phạm nhân, biết đâu, trong số đó có những tên nguy hiểm. Sau khi họp bàn thống nhất, tổ chức quyết định cho sáp nhập trại giam tôi đang phụ trách với trại tạm giam của quân sự, gọi là Đề lao binh, trực thuộc Bộ tư lệnh quân khu. Tôi tiếp tục được giao nhiệm vụ làm Giám đốc Đề lao binh và được phong Đại đội trưởng.

Khi quyết định rời bỏ cuộc sống hiện tại để về quê nhà và quyết tâm đi theo kháng chiến, tôi không một chút vấn vương gì cuộc sống của một con người mà mọi người suy tôn là “Vua Phật”, cũng không màng giàu sang, danh lợi. Thế nhưng, trong thâm tâm tôi luôn nghĩ: Tôi sẽ phải trải qua một thử thách nào đó của tổ chức (lẽ tất nhiên thôi), vì tôi xa đất nước gần mười lăm năm, nếm trải bao thăng trầm và hiện vẫn còn mang quốc tịch nước ngoài, là nhà sư… Vậy mà, mọi diễn biến nhanh đến không ngờ. Mới hai ngày trước, tôi còn mặc áo cà sa; hôm sau, mặc bộ quần áo bà ba, cũng lội bùn, cũng ăn cơm với mắm sống như mọi người. Mười ngày sau tôi đã có trong tay một tiểu đội, làm giám thị trại giam rồi tiếp tục làm giám đốc Đề lao binh, Đại đội trưởng. Quê hương mở rộng vòng tay đón một đứa con lưu lạc trở về. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của toàn dân đã kết chặt mọi người dân Việt Nam yêu nước thành một khối thống nhất, tạo nên sức mạnh để đánh thắng quân thù, đáp lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến ngày 19-12- 1946 của Hồ Chủ Tịch. Chính điều này đã xóa mọi băn khoăn trong tôi. Và khi được giao nhiệm vụ, tôi dặn với lòng quyết tâm hoàn thành tốt để không phụ lòng tin của tổ chức, mà người đại diện giúp đỡ tôi lúc đó là anh Ung Văn khiêm.

Đề lao binh do tôi phụ trách có những đặc điểm mà nhiều anh em hiểu biết lúc đó cho rằng trên thế giới không có một trại gam nào giống như kiểu Đề lao binh này. Hai trung đội quân nhân và gần một trăm “phạm nhân” trông ai cũng như ai: người quần áo bà ba, người quân phục đen. Trại không có hàng rào, không có lính gác. Có một số súng trường chỉ khi nào tập quân sự mới dùng đến. Hàng ngày, mọi người đi làm ruộng, làm rẫy, bắt cá, trồng rau cải thiện đời sống. Tối đến cùng hò hát. Khi đi lao động, “can phạm” tự mình đi bộ hoặc đi xuồng đến một tổ lao động nào đó (cày cấy, đắp nền nhà, đào đìa giúp dân, đắp cản ngăn sông gây chướng ngại vật, không cho tàu giặc vào vùng giải phóng; đi lao động cải thiện bữa ăn…), khi nào Ban giám thị hỏi thì trình giấy tờ.Sở dĩ có chuyện tạm giam và gởi tại Đề lao binh lúc đó là do chánh quyền cách mạng còn rất non trẻ. Trình độ anh em cán bộ cấp lãnh đạo, chỉ huy lúc đó có người học vấn thấp, không có trình độ lý luận. Những thanh niên theo cách mạng lúc đó rất vô tư, nhiệt huyết và xốc nổi. Nhiều lúc anh em có thái độ dân chủ quá trớn, hay cãi lại cấp chỉ huy, có khi sẵn sàng cầm lệnh tới trại giam để chờ phân xử xem “chân lý thuộc về ai”. Từ đó có thông tư của cấp trên là: Cấp trên có quyền tạm giam cấp dưới ở mức độ nào đó. Trong một tuần thì tạm giam tại đơn vị; từ một tháng tới sáu tháng thì được phép gởi lại Đề lao binh; trên 6 tháng thì báo cáo Bộ tư lệnh, giao phòng Quân pháp xem xét trình Bộ tư lệnh để có thể đưa ra xét xử tại Tòa án binh. Tất cả “can phạm” kiểu này cần tạm giam để răn đe.Công việc của tôi ở Đề lao binh không yêu cầu tham gia xử lý những trường hợp tạm giam các “phạm nhân”, mà chỉ tập trung hướng dẫn anh em tham gia sản xuất, cải thiện đời sống. Khi anh em đau ốm, đích thân tôi chữa trị bằng các bài thuốc kinh nghiệm, nếu không đủ điều kiện, khả năng thì đưa anh em đi quân y viện…

Cuối năm 1947, tôi được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Đó là một ngày thiêng liêng, đáng nhớ nhất trong đời tôi. Lúc đó tôi đã bước vào tuổi 47, mà tôi lại thấy mình thật trẻ trung. Năm 1997, nhà văn Tường Hạnh đến thăm tôi, Hạnh nhỏ hơn tôi hơn chục tuổi, người đã thay mặt tổ chức viết bản lý lịch cho tôi năm 1953 khi tôi học lớp chỉnh huấn của Quân khu ở Đầm Dơi, Cà Mau, do các anh Nguyễn Kim Cương, Hà Huy Giáp, Dương Quốc Chính giảng; nên chúng tôi rất thương nhau”.

Thời gian ông Danh phụ trách quản lý trại giam của quân đội (Đề lao binh), ông xin phép tổ chức được liên lạc với gia đình. Ông gửi thư về thăm ba má và vợ con ông ở quê. Trong thư ông viết tỉ mỉ cho gia đình biết chuyện ông lưu lạc ở xứ ngoài hơn mười mấy năm, đến nay còn sống trở về nước tham gia kháng chiến. Nhưng có lẽ bức thư bị thất lạc nên ông cũng không biết rõ được tình hình hoàn cảnh của gia đình ông hiện nay ra sao. Bao nỗi băn khăn cứ dồn dập hiện ra trong đầu óc, làm ông thổn thức, nhớ thương… Những hình ảnh về gia đình, bà con, quê hương lại hiện ra trước mặt ông như cuộn phim quay ngược lại thời gian với bao điều kỷ niệm đậm đà, thân yêu.

Trong chương 8 của HK, có đoạn đã ghi:

Viết thư cho cha mẹ, lòng tôi bùi ngùi khôn tả. Tôi nghĩ, ngần ấy năm tôi xa quê, có biết bao biến cố, chiến tranh ly loạn, gia đình tôi ai còn, ai mất. Mẹ tôi đã mất hai người con là anh hai và em trai kế tôi, nay đến tôi đi biền biệt, chắc bà đau khổ lắm. Còn vợ tôi, không biết có còn chờ đợi tôi không, hay đã đi lấy chồng. Nếu cô ấy đi lấy chồng, tôi cũng không có lý do gì trách móc. Tôi cảm thấy mình có lỗi khi ngần ấy năm, để vợ tôi một nách ba con thơ, chịu bao cay đắng, tôi có bù đắp bao nhiêu vẫn chưa đủ, vì cuộc sống tha hương nơi đất khách tôi cũng đã có vợ có con. Tôi lương tâm dày vò cắn rứt... Tôi chỉ viết thư cho ba má tôi, để khi gặp lại gia đình tôi kể ngọn ngành… 

“Tôi muốn nói rõ hơn điều này để không tủi vong hồn cả hai người phụ nữ nặng ân tình với tôi, đều là vợ của tôi, cùng sinh con cái cho tôi.Đoạn đầu tôi có nói về Lê Thị Ngân, người con gái cũng ở xứ Mốp Giăng - Mỹ Hiệp Sơn, do cha mẹ tôi cưới hỏi. Cô ấy sinh cho tôi ba người con, hai trai là Lưu Kiếm và Lưu Khỏe, một gái là Lưu Thị Hằng. Khi tôi trốn nhà ra đi, vợ tôi ở lại với cha mẹ tôi, làm dâu và nuôi ba đứa con còn nhỏ dại của tôi.

Trong thời gian tôi trốn ở Long Xuyên, Châu Đốc, có một gia đình chứa chấp tôi là gia đình ông Quảng Sào. Ông có người cháu ruột là Huỳnh Thị Tổng, góa chồng, có hai con trai nhỏ. Sợ tôi trốn mãi rồi sẽ bị bắt, ông Quãng Sào khuyên tôi ở lại ông sẽ bảo lãnh, giúp vốn cho làm ăn sinh sống, ông sẵn sàng gả đứa cháu gái của mình cho tôi. Gia đình này đã cưu mang tôi trong thời gian nguy khó. Lửa tình yêu đã bén trong tôi và Huỳnh Thị Tổng từ đây. Nhưng rồi tôi cũng phải ra đi nơi đất khách quê người. Để rồi đến ngày sum họp này, có hai người phụ nữ tôi cùng có trách nhiệm là vợ tôi ở quê và Huỳnh Thị Tổng.

Trong khi chưa liên lạc với cha mẹ và người vợ ở quê, thì Huỳnh Thị Tổng nghe tin tôi còn sống và đang ở chiến khu Đồng Tháp Mười, nên đã lặn lội từ Cao Lãnh vào thăm tôi. Tôi thật sự bất ngờ và cảm động. Cô ấy đã chờ đợi tôi hơn mười năm bằng một lời hẹn ước năm xưa. Còn tôi, tôi cứ nghĩ hoàn cảnh chiến tranh loạn lạc hơn mười năm như vậy, có thể vợ tôi và cả cô ấy đều đã có chồng, có nơi nương tựa. Nay cô ấy đến tìm tôi trong hoàn cảnh gian khổ của cuộc sống kháng chiến nơi bưng biền, nhớ ơn nghĩa xưa…, tôi quyết định báo cáo với tổ chức đây là vợ của tôi. Huỳnh Thị Tổng chấp nhận cuộc sống kháng chiến, cùng ở lại với tôi trong trại Đề lao binh.

Hạnh phúc đã tuột khỏi tầm tay bao lần, giờ đây, như gương vỡ lại lành, tôi trân trọng hạnh phúc hiện tại. Song lòng tôi vẫn khôn nguôi nghĩ đến gia đình và người vợ cha mẹ cưới ở quê. Nàng cũng vì tôi vất vả nuôi ba đứa con. Nếu nàng đã có hạnh phúc, tôi đỡ băn khoăn, day dứt; nếu nàng vẫn còn sống như vậy chờ đợi tôi thì tôi là người có lỗi. Tôi cũng nghĩ đến Anna Mari và gia đình ông Ibrahim. Không phải vì tiếc nuối cuộc sống của “Vua Phật”, mà nghĩ một ngày cũng nghĩa vợ chồng, hơn nữa, ông Ibrahim là một ông chủ tốt của tôi khi tôi sa cơ lỡ vận và cũng là người cha vợ nhân hậu mà tôi rất quý trọng. Đạo lý làm người và những năm tháng đi tu Phật gian khổ trong rừng sâu đã giúp tôi có cuộc sống giản dị, hướng tới cái thiện, cái tâm của con người. Tôi tâm niệm hãy sống vì con người, điều gì có ích cho con người thì làm, đừng bao giờ hại ai dù là điều vô tình rất nhỏ. Từ khi trở lại cuộc đời thường, tôi không bao giờ từ nan chuyện giúp đỡ mọi người, huống chi những người thân thiết, gắn bó với cuộc đời mình, làm sao tôi có thể vô tâm cho được?

Tôi mang những điều này tâm sự với Huỳnh Thị Tổng, cô ấy hiểu ra và chia sẻ cùng tôi chứ không ghen tức, ích kỷ. Tôi càng quý tấm lòng nhân hậu của cô. Cuối năm 1948, con gái đầu lòng của tôi và Tổng ra đời tại trại Đề lao binh Khu 8, Đồng Tháp Mười. Cô ấy giao cho tôi quyền đặt tên con. Tôi đếm các con chung, riêng của tôi và Tổng từ trên xuống và đặt đứa con này là Lưu Thị Bảy”….

“Năm 1950, vợ tôi - Huỳnh Thị Tổng- sinh thêm một đứa con gái, cháu được đặt tên Lưu Thị Nga…. Năm 1953, vợ tôi vào quân y sinh đứa con trai út...”

Anh chị em trong cơ quan đến chúc mừng cháu trai tròn tháng. Ông Danh lấy hai viên ngọc quý giá do thầy trụ trì chùa Tây Phương kỷ niệm đem trao tặng cho vợ. Hai viên ngọc này rất đặc biệt: một viên biết uống sữa mẹ (tức khi bỏ viên ngọc đó vào chén có sữa mẹ thì sau một đêm nó hút hết); còn viên ngọc kia thì biết bò (đặt viên ngọc ấy tại một chỗ trong cái khay. Sau một đêm nó sẽ lăn sang một chỗ khác). Thực ra chuyện này cũng có thể giải thích được bằng khoa học chứ không phải thần thánh gì cả.

Khi trại Đề lao binh được lệnh giải thể, Bộ tư lệnh cho phép, anh em nào muốn trở về đơn vị cũ thì Phòng Tham mưu có trách nhiệm ký giấy cho anh em về. Ai muốn đi đơn vị khác cũng được giải quyết theo nguyện vọng. Ai không muốn đi đâu thì ở lại Đề lao binh để chuyển sang một đơn vị làm kinh tế cho Quân khu. Ông Danh được giao nhiệm vụ phụ trách đơn vị kinh tế này. Hầu hết anh em đều muốn ở lại. Một phần vì tình cảm gắn bó giữa người quản lý trại và anh em, một phần vì những năm tháng ở Đề lao binh anh em quen lao động và lao động rất giỏi. Lúc ấy có phong trào “Thực túc binh cường” - tăng gia sản xuất, nuôi quân đánh giặc, cũng là một nhiệm vụ quan trọng. Vào giữa năm 1953, ông Danh đã tìm cách liên lạc được với gia đình. Ông rất mừng và xúc động khi biết rõ về hoàn cảnh của cha mẹ và vợ con ông.

 Phần cuối chương 8 của HK, có đoạn đã ghi:

“Giữa năm 1953, sau khi dự lớp Chỉnh huấn ở Cà Mau xong, tôi trở về đơn vị, tiếp tục phụ trách đơn vị kinh tế như trước. Tôi đã liên lạc được với gia đình ở Mỹ Hiệp Sơn. Lúc này cha mẹ tôi đã qua đời. Tôi ngậm ngùi vì không được nhìn thấy cha mẹ lần cuối. Mấy người em gái tôi kể lại toàn bộ chuyện gia đình từ khi tôi trốn đi. Gia đình tôi chạy loạn gần như phá sản hết. Người vợ trước của tôi và các con đang giữ phần đất cha mẹ tôi để lại.Tội nghiệp vợ trước của tôi, thật ra, bà ấy đã hay tin tôi còn sống đi theo kháng chiến và đã có vợ con nên không đi tìm tôi. Suốt thời gian tôi xa quê, kinh tế gia đình khánh kiệt, vợ tôi đã phải bươn chải nuôi cha mẹ già và các con. Những năm yên giặc, vợ và các con tôi ở lại giữ phần đất hương hỏa này. Các em tôi hay tin tôi có vợ, thúc giục vợ tôi đi tìm tôi hỏi cho ra lẽ, nhưng bản tính dịu dàng, vợ tôi chấp nhận hy sinh, thiệt thòi về mình, bà ấy không tìm tôi để tôi khỏi phải khó xử. Còn tôi, trong thâm tâm và tình cảm mình, Lê Thị Ngân vẫn là người vợ đầu tiên do cha mẹ cưới, là người vợ tôi rất quý trọng”.

Nhân dân cả nước nô nức mừng chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định đình chiến Giơ-ne-vơ (20.7.1954). Đất nước ta chia thành hai miền Nam -Bắc lấy sông Hiền Lương làm ranh giới. Lúc bấy giờ đơn vị Hoạt động kinh tế của ông Danh được lệnh của Bộ tư lệnh giải thể. Tất cả tập trung học tập các Nghị quyết của Đảng về tình hình và nhiệm vụ mới. Sau đó chuẩn bị mọi tiến trình để đi tập kết. Số anh được phân công đi tập kết hay được phân công ở lại miền Nam, đều cần một ít tiền chi tiêu.Vì vậy, tất cả được chia đều ra, anh em vui vẻ nhận phần mình. Vì đó là công sức lao động của chính họ. Bấy giờ, đơn vị nào cũng giải quyết như vậy.

Lúc ấy, sôi nổi và thời sự nhất vẫn là chuyện "đi cũng vinh quang, ở lại cũng vinh quang". Người đi tập kết có trách nhiệm xây dựng lực lượng, học tập để phục vụ cho miền Nam sau này. Người ở lại có trách nhiệm đấu tranh với kẻ thù, bảo vệ Hiệp định Giơ-ne-vơ giữ vững hòa bình, thực hiện tổng tuyển cử, xây dựng cơ sở, để sau hai năm người đi và người ở sẽ sum họp, cùng nhau xây dựng đất nước. Người ra đi thì náo nức được học tập, được gặp Bác Hồ, được thưa với Bác chuyện chiến đấu ở miền Nam. Người ở lại, luôn tự dặn với lòng mình luôn kiên cường đấu tranh, thủy chung, son sắt với người ra đi. Chuyện cứ râm ran tưởng chừng như không dứt ra được. Nhiều câu chuyện thật xúc động: Mẹ chuẩn bị tiễn con đi, vợ chuẩn bị tiễn chồng, cha chuẩn bị tiễn con… Ông Lưu Công Danh cũng  được may mắn gặp được những người vợ con của mình để chia tay lên đường đi tập kết.

Ở phần đầu chương 9 của HK, có đoạn đã ghi:

“Tôi còn nhớ, một anh đi tập kết cùng chuyến, quê ở Bến Tre, kể lại câu chuyện người vợ tiễn chồng đi tập kết gói theo nắm đất. Sau này câu chuyện cảm động ấy được đưa vào thơ ca, như chuyện bà má Năm Căn, mũi Cà Mau gởi ra Hà Nội cây vú sữa tặng Bác Hồ. Bài thơ "Gói đất miền Nam" bầu bạn với tôi nhớ mãi suốt những năm sống trên miền Bắc yêu thương:

Đưa anh tập kết lên đường,
Gói theo nắm đất tình thương gởi cùng.
Đất này lấy ở bờ sông,
Nơi em chiến đấu gài chông giữ làng.
Đất này là đất vinh quang,
Đánh lui tám trận Tây càn bủa vây.
Bạn bè ngã xuống nằm đây,
Hy sinh. Vĩnh biệt. Đất này phủ lên.
Làng ta như đất vững bền,
Anh đi ruộng lúa bờ kênh nhắn lời.
Dù cho núi đổi sông dời,
Đất này là đất của người Việt Nam.
Trao anh nắm đất anh cầm,
Bữa nay, mười bốn mai rằm, đã xa.
Em thề với đất làng ta,
Anh đi em quyết ở nhà đấu tranh.

Theo qui định chung lúc bấy giờ, cán bộ cấp đại đội đi tập kết được mang theo vợ con. Nhưng lúc ấy vợ tôi mới sinh con chưa tròn một tuổi, hai đứa lớn, một sáu tuổi, một bốn tuổi, nên tôi bàn để vợ tôi ở lại, tôi động viên bà ấy chỉ hai năm xa cách, rồi nước nhà thống nhất, gia đình sum họp. Vợ tôi an tâm ở lại. Tôi về quê Mỹ Lâm viếng mộ ông bà, cha mẹ tôi. Thăm mẹ con Lê Thị Ngân. Rất mừng là ba đứa con vợ trước tôi đã khôn lớn. Vẫn đức tính đảm đang, dịu dàng, chịu đựng hy sinh. Vợ tôi đã nuôi dạy các con tôi ý thức sống cần cù, lao động tốt. Phần đất cha tôi khai phá, nay vợ và các con tôi canh tác mỗi năm đều rất trúng. Do đó, đời sống của vợ và các con tôi khá ổn định. Tôi an tâm ra đi, càng thấy thương và khâm phục người phụ nữ tôi luôn nặng nợ ân tình.

Trở về khu tập kết ở Chắc Băng, một điều bất ngờ và thật cảm động đến với tôi. Đó là người vợ Ấn Độ, Anna Mari từ Campuchia đến thăm tôi. Bà ấy cho biết nhờ quân tình nguyện Việt Nam, Chính phủ kháng chiến Campuchia mà bà được qua vùng giải phóng Long Xuyên, Châu Đốc để xuống Chắc Băng thăm tôi. Lúc đó, mẹ con Huỳnh Thị Tổng cũng đang có mặt để chờ tiễn tôi đi. Hai người phụ nữ một là nông dân chân quê của Việt Nam, một là nhà quí tộc Ấn Độ đều gắn bó với cuộc đời tôi, cùng có mặt trong những ngày lịch sử này. Điều đó đã không làm tôi khó xử, vì cách cư xử của họ rất đẹp.

Anna Mari không thể ở lại đây lâu với tôi, nên tôi và bà ấy đã sống một đêm nghĩa tình. Tôi đã giải thích choMari hiểu vì sao tôi bỏ cuộc sống tu Phật để đi theo kháng chiến.Mari không hề trách tôi vì đã bỏ mẹ con bà gần mười năm trời, mà trái lại, người phụ nữ có học thức này còn khuyến khích tinh thần yêu nước của tôi. Giải thích vì sao bà không trách tôi đã ra đi không một lời từ biệt, Ana Mari nói đi theo Phật, pháp tăng là hướng tới chân tâm, thánh thiện của con người, giác ngộ đi theo cách mạng cũng hướng tới những điều ấy, mà còn có ý thức lớn hơn là giải phóng đất nước và dân tộc.Mari đã chịu ảnh hưởng gia đình của nhà chính khách Nê-ru (dượng rể của vợ tôi). Ông Nê-ru cũng đã lãnh đạo nhân dân Ấn Độ giành độc lập cho Ấn Độ. Những ý nghĩ tiến bộ và lời nói của Anna Mari làm tôi thấy bà gần gũi hơn không chỉ là tình vợ chồng, mà còn có cả tình đồng chí trong sự đồng cảm và sẻ chia sâu sắc.

Trong bữa cơm chia tay "đại gia đình" (tôi và hai bà vợ) tôi làm phiên dịch tiếng Việt và tiếng Ấn Độ cho hai người nói chuyện với nhau. Thỉnh thoảng có những tiếng cười rất vui. Hôm sau,Mari trở ra Rạch Giá, xe hơi của người nhà đón tại Tân Hiệp, để trở lại Phnôm-Pênh. Tôi nhờ Mari chuyển lời hỏi thăm sức khỏe, xin lỗi và cảm ơn của tôi đến cha mẹ vợ ở Phnôm-Pênh”.

Mọi sự dàn xếp cho người ở lại, người ra đi tập kết đã kết thúc. Ông Danh và đồng đội đi vào chuyến cuối năm 1954 trên chiếc tàu Kilinski của Ba Lan. Vào đầu năm 1955, tàu này cập bến Sầm Sơn. Các đơn vị tập kết lên tập trung ở Thanh Hóa để học tập tình hình nhiệm vụ mới. Sau đó, các anh em miền Nam gom lại lập những xí nghiệp thủ công nghiệp và về Khu 4 thành lập các nông trường. Ông Danh về công tác tại nông trường cà phê Thanh Hóa. Hồi đó các đơn vị quân đội miền Nam tập kết giải ngũ chuyển ngành đóng ở địa bàn Thanh Hóa thuộc quyền quản lý của Sư đoàn 330 của miền Đông Nam bộ, do ông Đồng Văn Cống làm Tư lệnh. Ông Cống về thăm nông trường và biết được ông Danh là đã từng đi tu đắc dạo ở Ấn Độ, nay trở về tham gia kháng chiến cứu quốc. Ông Cống báo cáo tình hình hoàn cảnh của ông Danh về Tổng cục chính trị. Sau đó, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị cho người về nông trường cà-phê tại Thanh Hóa đón ông Danh ra Hà Nội. Điều đó làm ông Danh vừa mừng lại vừa lo. Ông mừng vì nghĩ rằng cấp trên sẽ ưu đãi cho đi học thêm nghiệp vụ; lo là vì không biết tuổi tác và trình độ bản thân có học được hay không? Còn lo nhiều thứ lắm....

Trong chương 9 của HK có đoạn đã ghi:

“ Nhưng tại sao tôi lại được gọi về Hà Nội đột ngột, hay là khiMari về Phnôm-Pênh nói với cha vợ tôi, tôi đi tập kết, cha vợ tôi lại nhờ sứ quán Ấn Độ can thiệp để được gặp tôi, như ông từng làm trước đó, lúc tôi ở Anh quốc?

Tôi đang suy nghĩ mông lung, thì Đại tướng Nguyễn Chí Thanh hỏi tôi về nguồn gốc gia nhập quân đội. Vị tướng trẻ tuổi và tài năng này có giọng nói trầm ấm và có cái nhìn cương nghị nhưng trìu mến, đã tạo cho tôi cảm giác đầy tin cậy khi trò chuyện. Tôi đã kể lại tường tận việc đi tu phật của tôi trên đất nước Ấn Độ và chuyện riêng tư của tôi. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh hỏi tôi:

- Anh có muốn trở lại Ấn Độ không? Ấn Độ ngày nay đã giành được độc lập, không còn dưới thời nô lệ như xưa nữa. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh cũng cho tôi biết về tình cảm của Bác Hồ chúng ta và thủ tướng Ấn Độ Nê-ru, tình đoàn kết giữa nhân dân hai đất nước. Tôi trả lời:

- Tôi vì hoàn cảnh mà phải xa đất nước, rồi đi tu Phật cũng do bế tắc về phương hướng cuộc đời mà đi. Tôi là người Việt Nam. Giờ đây tôi đang ở đất nước mình. Tôi muốn được làm việc gì cho ích nước lợi dân. Điều này trong kinh Phật cũng có dạy. Tôi cởi áo cà sa để khoác áo kháng chiến. Tôi đã thề dưới cờ Đảng một lòng tận trung với nước, với lý tưởng Đảng. Tôi trở về Ấn Độ để làm gì?

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh nhìn tôi trìu mến, niềm xúc động ánh lên trong tia nhìn ấy. Suy nghĩ một lát, đại tướng hỏi tôi:

- Anh có muốn đi học không?

Tôi mừng quá. Tất nhiên là tôi muốn và rất muốn nữa là đằng khác. Tôi trả lời ngay là muốn. Tôi chưa từng được học qua một trường lớp nào đàng hoàng. Từ nhỏ sống lênh đênh trên sông nước, học lóm bạn bè, học thực tế từ công việc là nhiều, đi tu phật thì học kinh kệ. Tôi tự biết mình trình độ còn thấp kém. Muốn phục vụ tốt cho cách mạng, cho đất nước, phải học tập.

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh nghe vậy rất vui. Theo cách Đại tướng Nguyễn Chí Thanh nghĩ thì cấp bậc đại úy như tôi lúc đó, trong quân đội đang còn hiếm. Cấp này phải bố trí chức vụ lãnh đạo Trung đoàn, ít nhất cũng là Tiểu đoàn trưởng.Thỏa thuận việc đi học trước tiên như thế.

Chẳng bao lâu, tôi được cấp hộ chiếu để đi tu nghiệp ở Liên-Xô, tại Học viện quân sự và chính trị của quân đội Xô-viết. Được đi học tập trên đất nước của cách mạng Tháng Mười vĩ đại và đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa, là niềm khát khao và vinh dự lớn đối với tôi. Tôi đã có may mắn này, thì phải ra sức học tập để phục vụ tốt hơn cho đất nước.

Nhưng việc học tập của tôi không suôn sẻ. Gần một năm trời ở Học viện hầu như tôi không tiếp thu được những bài học liên quan đến lý luận, khoa học quân sự, cái cơ bản để người lính chiến đấu thắng lợi ở chiến trường. Đại sứ quán ta ở Liên-xô được nhà trường thông báo tình hình học tập của tôi. Lúc ấy đại sứ tại Liên-xô là anh Nguyễn Văn Kỉnh. Anh tìm hiểu việc học của tôi rồi hết sức động viên tôi. Lúc ấy, chiến dịch "Tố cộng" và "Diệt cộng" của Mỹ-Diệm, máy chém được lê đi khắp miền Nam. Các anh băn khoăn không biết có phải vì nghe tin đồng bào, cán bộ, chiến sĩ ở miền Nam đang bị giặc đàn áp khốc liệt và đang quật khởi vùng lên, tôi có thể vì thế mà nóng lòng, không an tâm học tập. Anh Nguyễn Văn Kỉnh động viên và giải thích: Học cũng là một nhiệm vụ, học để sau này về chiến đấu, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Lời anh nói thấm vào gan ruột tôi. Nhưng thêm một học kỳ nữa, tất cả là ba học kỳ, trong các buổi thi, tôi chưa bao giờ bắn được một viên đạn thật trúng vào mục tiêu; thi lại lần thứ hai cũng như thế. Tôi đã học thuộc và chuẩn bị trước giáo trình, nhưng cũng không trình bày được một trận đánh nào có sẵn trong giáo trình, kể cả thế trận trình bày trước sa bàn. Nghĩa là mọi thứ có liên quan đến trận mạc, đánh chác, đều trôi tuột trong đầu tôi. Tôi đã thật lòng báo cáo với lãnh đạo là: Tôi đau đớn vì ở quê nhà kẻ thù sát hại đồng chí, đồng bào ta. Tôi đã nghe vụ thảm sát chợ Được, Vĩnh Trinh, vụ đầu độc tù nhân Phú Lợi, tôi đã quyết tâm học tập, để tham gia chiến đấu, trả thù cho quê hương, đồng bào, đồng chí, chứ không phải tôi học thiếu tập trung.

Cuối cùng, tôi được quyết định về nước, để chuyển hướng đào tạo khác. Mấy anh em quen thân gặp tôi băn khoăn chuyện này, sợ tôi sẽ bị kỷ luật, mất Đảng. Nhưng tổ chức đã không hành xử với tôi như vậy. Tôi luôn áy náy vì mình không hoàn thành nhiệm vụ. Tâm sự của tôi được anh em có trách nhiệm báo cáo lên cấp trên”.

Sau khi ông Danh sang học tại Học viện Quân sự Liên Xô không đạt kết quả, ông đã trở về nước với tâm trạng lo buồn. Nhưng cấp trên đã thông cảm cho hoàn cảnh của ông nên Ban tổ chức đã chuyển cho ông bổ sung công tác tại Hội Phật giáo Việt Nam. Ông được đưa đến tạm trú tại chùa Quán Sứ Hà Nội. Lúc bấy giờ ông trình bày với cấp trên rằng ông không muốn đi tu một lần nữa. Sau đó người ta đưa ra một danh sách các chức trách công tác để ông chọn. Thế là ông nhận một chức vụ phù hợp với trình độ quản lý của ông. Đó là làm chủ nhiệm hợp tác xã đóng xe ba gác vận chuyện vật liệu tại bãi Phúc Xá bên bờ sông Hồng, Hà Nội. Hợp tác xã này có nhiều anh chị em miền Nam, miền Bắc. Họ sống với nhau như anh em trong một gia đình, rất đoàn kết quý mến nhau. Hồi đó, biết ông Danh có nhiều kinh nghiệm chữa bệnh bằng thuốc Nam nên Ban chủ nhiệm tạo điều kiện cho ông có thời gian tìm kiếm các vị thuốc Nam để chữa trị bệnh cho đồng bào, cán bộ. Thời gian đầu chỉ chữa bệnh cho một số người, nhưng rồi về sau càng đông người đến chỗ làm việc và chỗ ở của ông Danh tại Phúc Xá để xin thuốc và chữa bệnh. Ông Danh khám bệnh, chữa bệnh, cho thuốc đều không lấy tiền. Ông chỉ là từ thiện giúp dân chữa các bệnh thường gặp như cảm mạo, thương hàn, gãy chân, tay, đau khớp, đau gan... Sau một thời gian làm nghề tay trái chữa bệnh bằng thuốc Nam đã có uy tín lan truyên khắp nơi. Dân chúng kéo nhau đến xin chữa trị rất đông. Bấy giờ Bộ Y tế cử người đến kiểm tra và về sau có biện pháp giải quyết thích hợp tạo điều kiện cho ông Danh sang công tác ở Ban nghiên cứu Đông y, Bộ Y tế. Điều đó rất hợp với sở trường của ông nên ông Danh đã phát huy được khả năng, sở trường của mình để làm thuốc cứu người bị bệnh có hiệu quả.

Trong chương 9 của HK, có đoạn đã ghi:

“Bộ Y tế đã cử người đến kiểm tra, họ thấy tôi không có giấy phép hành nghề; các món thuốc chỉ là các loại lá cây khô, dồn vào mấy cái bị lớn nhỏ đủ cỡ. Có ý kiến cho rằng tôi là lang băm bịp người. Đến khi tìm hiểu cặn kẽ, họ biết tôi làm việc tại hợp tác xã xe ba gác, tôi trị bệnh hết cho rất nhiều người và không lấy tiền, họ mới báo cáo cụ thể cho Bộ trưởng Bộ Y tế, lúc đó là bác sĩ Phạm Ngọc Thạch. Bộ trưởng giao trách nhiệm cho Vụ dược chính và Ban đông y tới làm việc với tôi. Các cán bộ chuyên môn này làm việc cẩn trọng. Họ lấy toàn bộ các loại lá cây tôi dùng chữa bệnh, kêu tôi dịch ra tiếng Việt, thì tôi không biết tên, chỉ nhớ theo trí nhớ của mình khi trị bệnh trong rừng, biết đó là cây có vị thuốc tên Ấn Độ còn tên Việt là gì thì tôi không biết.

Tôi nghĩ việc chữa bệnh của tôi bằng lá cây chắc chấm dứt từ vụ kiểm tra này, nhưng không phải vậy. Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch đã chỉ thị cho Vụ dược chính cử một cán bộ chuyên môn theo tôi lên rừng, chụp hình các loại thuốc tôi đã hái, dịch tên Ấn Độ qua tên Việt Nam, vào sổ thành một danh mục cẩn thận và qui trình tôi sử dụng nó như thế nào vào việc chữa trị các loại bệnh. Tôi thật mừng. Vì công việc chữa bệnh cứu người bằng cây lá không tốn kém tiền bạc của tôi đã được cơ quan chuyên môn (Bộ Y tế) chấp nhận và quan tâm, giúp đỡ. Từ đây, "việc giúp cho đời" của tôi không có gì trở ngại nữa. Hay tin này, anh chị em đồng hương miền Nam khuyến khích tôi lắm. Nhiều người bệnh được tôi chữa khỏi, đã tích cực tìm cây thuốc giúp tôi. Bạn bè đi công tác ở vùng cao cũng nhờ dân địa phương tìm giúp, kho thuốc của tôi vì thế mà nhiều và phong phú thêm.

Năm 1962, tôi bước vào tuổi sáu mươi hai, tôi không làm chủ nhiệm hợp tác xã xe ba gác nữa, tôi được chuyển qua cơ quan nghiên cứu đông y của Ban đông y, Bộ Y tế. Nói là nghiên cứu thì phải có các bài viết đúc kết kinh nghiệm thực tiễn về chữa trị bệnh bằng phương pháp đông y có hiệu quả và còn hạn chế như thế nào hoặc có công trình nghiên cứu về các loại cây thuốc nam v.v… nhưng tôi vốn không phải là người viết lách giỏi ở lĩnh vực này, nên công việc chủ yếu của tôi là chữa bệnh bằng kinh nghiệm thực tế. Tình hình thuốc Tây còn kham hiếm, hơn nữa đất nước vẫn còn nghèo, một nửa đang chiến tranh, cần sự chi viện, hỗ trợ của hậu phương miền Bắc, nên miền Bắc phải thắt lưng buộc bụng vì miền Nam. Vì vậy, chữa bệnh bằng cây thuốc nam có hiệu quả, là đã tiết kiệm được một phần ngân sách cho Nhà nước. Tôi thấy công việc mình làm có ý nghĩa như vậy, nên rất vui vẻ, không nhận thù lao, không nhận bất cứ đồng bạc nào của bệnh nhân. Bệnh nhân thì nhiều, không sao nhớ hết, nhưng có những trường hợp cảm động, khiến tôi nhớ mãi”....

“Tôi nói với anh em và cả các con nuôi của tôi:

- Làm gì giúp ích cho con người thì cứ làm. Đừng đòi hỏi hay mong chờ người ta báo đáp, đừng lợi dụng nghề nghịệp mà bóc lột bệnh nhân là không có đạo đức.Từ mấy ca bệnh hiểm nghèo này được tôi chữa khỏi, có người kêu tôi kể cho họ nghe để họ viết bài, gởi báo y học thế giới lãnh nhuận bút xài, tôi cũng nói lại lời đã nói với các cháu tôi. Sau đó một linh mục đến gặp tôi, nhờ tôi chữa bệnh cho một cha xứ ở khu 4 (Thanh Hóa) bị bệnh tràng nhạc (nổi hạch độc quanh cổ), đây là một dạng ung thư. Tôi đã trị khỏi. Vị cha xứ này nói:

- Nếu ông cần mua một căn nhà ở Hà Nội, tôi mua ngay để đền ơn ông. Tôi nói với ông ấy: "Tôi ở nhà Nhà nước và Nhà nước phát lương cho tôi. Tôi biết trị bệnh là trị cho dân, trách nhiệm của tôi".

Vị linh mục này biết tôi từng đi tu phật, nên sau khi cảm ơn và chia tay tôi, ông đã nói: "Các bậc chân tu thánh thiện của Phật giáo hay Thiên Chúa giáo đều muốn làm cho đẹp đời, đẹp đạo, đều vì con người và cứu người". Tôi không giải thích gì, nhưng cảm thấy mừng vì trong nhận thức, người ta không còn phân biệt giữa hệ tu này, tu khác, mà đã nhận ra chân tu là hướng cái tâm về chân, thiện, mỹ”.

Đến năm 1964, ông Danh nghỉ hưu và chuyển về ở Nghĩa Đô, Hà Nội. Thời đoạn này, giặc Mỹ đánh phá miền Bắc nước ta. Nhà ông Danh là điểm hẹn của nhiều cán bộ miền Nam tập kết chuẩn bị đi về Nam hoạt động. Họ gặp nhau chuyện trò vui vẻ và hát hò, đọc thơ, nghe đài về tin tức diễn biến thời thế ở miền Nam và thế giới... rồi cùng nhau chia sẻ niềm vui, nỗi buồn diễn ra hàng ngày trên quê hương đất nước. Thời gian nghỉ hưu ông Danh có nhiều bệnh nhân tìm đến chữa trị và nhều bệnh nhân đã khỏi bệnh, họ rất sung sướng tạ ơn ông. Ông cảm thấy vui với nghề lương y của mình đã làm được nhiều điều tốt cho nhân dân, cho cán bộ an lành.

       Ở phần cuối chương 9 HK của ông đã ghi:

“Thấy bệnh nhân hết bệnh vui, tôi cũng vui lây. Vào thời điểm này, thuốc đã hết và nhiều vị thiếu, vì bệnh nhân đến chỗ tôi ngày càng đông. Hay tin này, nhiều anh em đi công tác các tỉnh vùng núi, trung du, trong đó có những bệnh nhân tôi điều trị khỏi, đã xung phong đi tìm thuốc giúp tôi, để tôi có thời gian trị bệnh. Có người gùi đến cả bao. Thấy vậy, tôi đòi trả tiền công, họ kêu lên:

- Trời ơi! Ông bỏ công trị bệnh cho mọi người, không lấy của ai một xu, chúng tôi giúp ông tìm thuốc mới đúng đạo lý con người chớ!

Nhờ có nguồn thuốc mới này, tôi trị được cho vài chục bệnh nhân nữa, trong đó có một ca khi gặp tôi đã trăn trối:

- Anh Ba ơi! Chắc em không trở về miền Nam được rồi! Hai đứa con em còn ở lại miền Bắc, có gì anh thay mặt em, dạy bảo các cháu! Đứa nào có vợ, anh làm chủ hôn…

Nghe anh ta nói vậy, tôi đến xoa lên cái bụng đang sưng to như cái trống chầu của anh và đùa:

- Sao, có thai tháng thứ mấy, tôi đỡ đẻ cho. Nói vậy chớ bệnh của anh tôi cho uống 150 thang thuốc, 149 thang cũng không khỏi.

Hai người con trai anh này vừa tốt nghiệp trường sĩ quan ra. Thấy ba mình bệnh, mặt hai cậu buồn rũ. Tôi an ủi:

- Hai cháu cứ về đơn vị làm việc. Để ba cháu lại bác nấu cho đủ 150 thang thuốc để ba cháu uống xong là vượt Trường Sơn về Nam cùng bác.

Người bệnh đặc biệt này của tôi hiện còn sống ở thành phố Hồ Chí Minh. Thỉnh thoảng kêu các con chở về Rạch Giá thăm tôi. Lần gần nhất, cách đây cũng bảy năm rồi.Lần chữa bệnh này được xem là lần cuối cũng trên đất Bắc, thật đặc biệt và xúc động. Hôm ấy khoảng giữa tháng Chạp năm 1974, có một đoàn sĩ quan cao cấp trong Quân đội đến nhà tôi, trong đó có một số anh em đồng hương miền Nam. Thấy tôi đang nấu thuốc cho bệnh nhân, anh em chào tôi và nói:

- Miền Nam thắng lớn như chẻ tre. Anh truyền nghề cho một số anh chị em ở tại miền Bắc, còn anh thì chuẩn bị về miền Nam, ngày giải phóng miền Nam gần lắm rồi!

Trong nhà tôi có treo một bản đồ Việt Nam. Hàng ngày, tôi theo dõi trên đài, giải phóng tới đâu, tôi lấy bút chì đỏ tô màu đến đó. Người con nuôi của tôi là kiến trúc sư, mỗi lần về thăm tôi, đều mang sách báo viết về miền Nam cho tôi đọc. Tôi thích tập thơ Nước non ngàn dặm của anh Tố Hữu. Tôi đọc hoài đến thuộc làu. Nghe anh em nói vậy, tôi liền đọc mấy câu thơ Tố Hữu nói đúng tâm trạng mình:

Nửa đời tóc ngả màu sương

Nhớ quê anh lại tìm đường thăm quê

Đường về như tỉnh như mê

Đường ra phía trước đường về tuổi xanh

Đã đi muôn dặm xa gần

Nay về Nam cũng bước chân bồi hồi

Sông Bến Hải bên bồi bên lở

Cầu Hiền Lương bên nhớ bên thương…

Anh em đồng thanh đọc với tôi. Mấy anh em quê miền Nam rơm rớm nước mắt. Vì là bí mật quân sự, hơn nữa tôi biết anh em đang chuẩn bị đi chiến trường nên tôi không hỏi bất cứ tên ai trong đoàn, tôi nói với tất cả:

- Tôi biết anh em mình đã được kiểm tra sức khỏe đặc biệt trước khi đi đánh một trận cuối cùng giành thằng lợi quyết định. Bây giờ anh em nào cần tôi giúp gì, khó khăn như thế nào tôi cũng sẽ làm được.

Một anh cho biết có chứng mất ngủ cả chục năm nay; anh khác bị viêm đầu thống, anh thì bao tử, anh thì đại tràng, anh khác tiểu gắt, bệnh thận… Tất cả đều đã được chữa trị ở nước ngoài. Nhìn những gương mặt gọi là bệnh nhân mà tươi rói ấy, tôi biết các anh đang nóng lòng về miền Nam để "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào" để Bắc Nam sum họp như mong ước của Bác Hồ xóa nỗi đau đất nước bị chia cắt 20 năm.

Bệnh viện Y học cổ truyền. Ảnh minh họa

Lần chữa bệnh ấy, anh em chia tay nhau. Sau này, tất cả anh em có liên hệ lại và cho tôi biết, bệnh của họ đã khỏi ngay sau lần trị đó nên tất cả đều phấn khởi và mong gặp tôi tại thành phố mang tên Bác.Đúng như lời hẹn ước trong lần chữa bệnh cho anh em đi chiến đấu ở miền Nam, ngày 30/4/1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước toàn thắng. Tôi vẫn là người không có tài sản, chỉ có tấm lòng đi theo Đảng và một nghề làm thầy thuốc chữa bệnh cứu người nên một tháng sau ngày giải phóng, tôi một thân một mình, nhảy xe theo bạn bè về Nam.

Hai mươi năm trên đất Bắc, hậu phương lớn nuôi tôi và những đứa con miền Nam, bằng những hạt gạo ân tình còn sẻ nửa cho miền Nam chiến đấu. Vì miền Nam lớp lớp thanh niên miền Bắc "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước". Nôn nao nỗi nhớ quê nhà hai mươi năm xa cách, nhưng xa nơi gắn bó hai mươi năm, lòng lại bồi hồi, thật khó tả. Người ta nói "đất hóa tâm hồn" đúng là vậy!”

Sau ngày hòa bình thống nhất đất nước Việt Nam, ông Lưu Công Danh về lại quê nhà sinh sống và tiếp tục làm thầy thuốc Đông y chữa trị cho đồng bào và cán bộ với tinh thần làm phúc cứu dân mà không màng tiền bạc, trả ơn….

Sau đó, ông đề nghị với Tỉnh Kiên Giang và Ty Y tế cho lập Phòng trị bệnh thuốc nam trực thuộc Ty Y tế, góp phần thành lập Bệnh viện Y học Dân tộc của tỉnh. Bệnh viện Y học Dân tộc hoạt động được có uy tin và ông Danh cũng đã đóng góp nhiều kinh nghiệm chữa bệnh của mình cho Bệnh viện này. Vì tuổi cao, sức kiệt, ông không còn ở lại được lâu với trần thế nữa.

Vào lúc19 giờ ngày 31-5-2003, Lưu Công Danh đã từ trần, thọ 103 tuổi. Ông Lưu Công Danh đã để lại niềm thương tiếc vô cùng lớn lao đối với tất cả mọi người.

- o0o -

NHT

Phước Vĩnh, Huế, tháng 3 năm 2013

__________________________

Ghi chú: Tài liệu tham khảo:

 -Sách Hồi ký “Phật sống” Lưu Công Danh.(Nhà văn Triệu Xuân Diên. NXB Văn học, 2003. Tái bản, 2005).

-Ký sự “Phật thánh” Lưu Công Danh đi kháng chiến (Nhà văn Phạm Tường Hạnh- Báo Nhân dân, XB. Năm 1997).




Âm lịch

Ảnh đẹp