Cố vấn Ban đại diện Phật giáo huyện Tiểu Cần;
Trụ trì Tổ đình Trúc Lâm Cố Đô Huế
Viện chủ và khai sáng chùa Như Pháp, xã Hiếu Trung, huyện Tiểu Cần, Tỉnh Trà Vinh.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Kính bạch Chư Tôn Đức Tăng Ni,
Kính thưa quý vị Đồng Hương Phật tử :
Hôm nay, trong không gian trầm lắng, nỗi lòng thê lương
của bao tâm hồn nhân thế , như áng mây chiều vây phủ bầu trời Bến Cát ?
quê nhà ảm đạm buồn tênh, vẻ tiếc thương hiện trên mi mắt, nét âu sầu
đượm buồn trên từng khuôn mặt của hàng môn nhân tứ chúng; tiếng mõ
thưa chuông nhạt, hình ảnh tang thương của làn hương trầm phảng phất làm
thổn thức cõi một bậc cao tăng thạc đức, một pháp huynh khả kính của
chúng tôi, vừa xả bỏ báo thân trở về cõi Phật an nhiên.
Trúc Lâm buồn thương ngày tiễn biệt,
Hoa Kỳ ảm đạm buổi phân ly.
Pháp Huynh thuận thế quy Tây cảnh,
Tiểu đệ tùy duyên quỳ tưởng niệm
Kính bạch chư Tôn Đức, kính thưa quý vị !
Một cuộc đời trôi qua để lại cho bao người thương nhớ,
một bậc chân tu khi rời xa trần thế khiến lòng người ngậm ngùi luyến
tiếc khôn nguôi. Hôm nay chúng con thành kính tri ân tưởng niệm bậc tôn
trưởng của Phật giáo tỉnh nhà, một bậc tôn sư khả kính suốt cuộc đời
dấn thân vì đạo pháp, vì sự nghiệp giác ngộ nhân sinh.
Trong giờ phút thương kính khôn nguôi trước khi tiễn đưa
kim quan Hòa thượng thượng Nguyên hạ Chơn, hiệu Lưu Đoan đến bảo tháp,
nơi an nghỉ cuối cùng của nhục thân, chúng con xin phép cung tuyên tiểu
sử về cuộc đời và sự nghiệp của Hòa thượng.
Hòa thượng Thích Lưu Đoan, nhũ danh Phạm
Xuân, người làng Hiệp Phổ Trung, xã Hành Đức, huyện Nghĩa Hành, tỉnh
Quảng Ngãi. Thân phụ là cụ ông Phạm Tùng, thân mẫu là bà Trần Thị Toản.
Ngài sinh ngày 24/6/1943 (năm Quý Mùi) là con thứ trong gia đình trung
lưu có truyền thống hiếu đạo sùng kính Phật pháp. Tuổi trẻ thông minh
hiếu học, giữ gìn khuôn mẫu phép tắc, được bà con láng giềng thương mến.
Túc duyên sâu dày nên được sinh ra trong
gia đình có truyền thống Phật giáo. Do nương vào tâm đạo của cha mẹ,
Ngài thường lui tới chốn cửa thiền nghe kinh và tiếp xúc chư Tăng Ni,
nhờ đó hạt giống Phật đã chuyển mình chờ duyên lành sẽ nẩy mầm sinh
trưởng.
Duyên lành hội đủ, ngày 02 tháng 6 năm 1958 (Mậu Tuất)
Ngài được cha mẹ cho phép theo cầu pháp xuất gia với Hòa thượng Thượng
Tâm Hạ Hương hiệu Mật Hiển, trụ trì chùa Trúc Lâm Thành phố Huế, được
Hòa thượng thâu nạp và ban cho pháp danh là Nguyên Chơn, hiệu Lưu Đoan.
Từ đó, chốn cửa thiền chuyên tâm học đạo, công phu công
quả mọi bề được Thầy khen bạn mến. Đầu năm Tân Sửu, ngày 17/01/1961
Ngài được Hòa thượng bổn sư cho phép thọ Sa di giới tại giới đàn chùa
Trúc Lâm Thành phố Huế.
Quyết tâm nỗ lực không ngừng trên đường học đạo, ngày 16 –
18 tháng 7 năm 1965 (Ất Tỵ), Ngài được thọ Tỳ kheo giới tại Giới đàn
Vạn Hạnh (tổ chức ở chùa Từ Hiếu, do Hòa thượng Thượng Giác Hạ Nhiên
hiệu Trừng Thủy làm Đàn đầu Hòa thượng ).
Thể hiện sự cầu tiến và quyết tâm nối truyền mạng mạch
Phật pháp, Ngài còn xin phép Thầy đi tham học các nơi như Đà Nẵng, Tp
Huế ... với các bậc danh tăng thạc đức đương thời.
Năm 1967, Ngài dự thi tuyển vào Trường Cao đẳng chuyên
khoa Phật học tại chùa Linh Quang Thành phố Huế, kết quả thi đậu vào
trường thuộc loại giỏi,.
Để chuẩn bị tư lương trên bước đường hoằng pháp lợi sanh,
ngoài nội minh Phật giáo, Ngài còn tham học và thông hiểu các pháp thế
gian như dịch lý toán số, địa lý phong thủy... với tinh thần tùy
duyên hòa hợp nhằm thích ứng hoàn cảnh và đem lại lợi ích cho việc
hoằng pháp sau này.
3- Hóa duyên hành đạo :
Năm 1971 Ngài tốt nghiệp Cao đẳng chuyên khoa Phật học
nhưng vẫn tiếp tục tham vấn các bậc cao minh về Phật học và gần gũi Bổn
sư, được truyền khế ấn Mật tông.
Năm 1972, Ngài tiếp nhận sự phân bổ của GHPG về tỉnh Vĩnh
Bình làm nhiệm vụ Sứ giả Như Lai , Đặc ủy Hoằng pháp kiêm Giám học và
Giáo thọ sư tại Phật học viện Khánh Hòa, chùa Phước Hòa.
Sau đó, Tăng Ni trong tỉnh Vĩnh Bình thỉnh Ngài làm Chánh
đại diện Phật giáo huyện Châu Thành (nay là Thị xã Trà Vinh) và làm
Phó Trụ trì chùa Long Khánh, trụ sở Giáo Hội Phật giáo tỉnh Vĩnh Bình.
Ngoài công tác Phật sự được Giáo hội giao phó, Ngài còn
được Tăng Ni Phật tử thỉnh giảng tại các Trường Hạ và các đạo tràng
trong tỉnh.
Năm 1974, chấp nhận gian nan thử thách với muôn vàn khó
khăn giữa mưa bom bão đạn của chiến tranh tàn khốc, Ngài đến xứ Bến Cát
xã Hiếu Tử huyện Tiểu Cần, tỉnh Vĩnh Bình (nay là tỉnh Trà Vinh) theo
lời thỉnh mời của Phật tử kiến lập khai sơn chùa Như Pháp , hầu dem ánh
từ quang của Phật thắp sáng tâm mê chúng sanh nơi vùng thôn quê hẻo
lánh.
Sau 1975, Ngài tiếp tục công việc Phật sự tại tỉnh Trà Vinh và Chùa Như Pháp.
4-Phục hưng Phật giáo Tỉnh Trà Vinh:
Kể từ sau 1975, Ngài vẫn dõi theo từng bước thời gian
nhằm tìm thời cơ thuận lợi phát dương quang đại giáo pháp Như Lai .
Sau khi Trà Vinh được tách ra từ tỉnh Cửu Long năm 1993,
Ngài cùng chư Tôn đức Tăng Ni tích cực vận động, xin phép thành lập
Giáo hội Phật giáo tỉnh Trà Vinh. Khi Giáo hội tỉnh được thành lập, Ngài
được thỉnh làm Phó Ban Trị sự kiêm Trưởng ban giáo dục Tăng Ni và cố
vấn ban Đại diện Phật giáo huyện Tiểu Cần xuyên suốt 4 nhiệm kỳ.
Cũng trong năm 1992, lo hậu sự cho Hoà thượng Bổn sư
thượng Mật hạ Hiển viên mãn, Ngài được huynh đệ Tăng Ni Phật tử trong
hệ phái Trúc Lâm và Chư Tôn Đức các tự viện trực thuộc môn phái Tây
Thiên suy cử làm Trụ trì Tổ đình Trúc Lâm thành phố Huế, kế thừa tổ
nghiệp của Bổn sư.
Năm 1998, Ngài được GHPG Việt Nam tấn phong lên hàng Giáo phẩm Thượng tọa.
Với chí nguyện lo cho sự phát triển của Phật pháp, Ngài
cùng chư tôn giáo phẩm trong tỉnh Trà Vinh tích cực vận động tái thiết
lại trường Phật học Trà Vinh, cái nôi của Phật giáo Miền Nam trong thời
chấn hưng Phật giáo.
Năm 1999, trường Cơ bản Phật học Trà Vinh (nay là trường
Trung cấp Phật học) được phép thành lập tại chùa Phước Hòa , Ngài được
đề cử làm Phó Hiệu trưởng kiêm Giám luật và Giáo Thọ sư phụ trách giảng
dạy Luật giới cho Tăng Ni xuyên suốt 3 khóa học.
Ban Trị sự Tỉnh hội Phật Giáo Trà Vinh khai Đại Giới đàn
Khánh Hòa năm 2002, Đại Giới đàn Huệ Quang năm 2005, Đại Giới đàn Khánh
Anh năm 2008 Ngài đều được thỉnh làm Yết-ma A-xà-lê để truyền trao
giới pháp cho Tăng Ni tu tập.
Cũng trong năm 2002, GHPG Việt Nam tấn phong Ngài lên hàng giáo phẩm Hòa Thượng.
Năm 2005, Ngài trùng tu lại chùa Như Pháp với quy mô lớn
và toàn diện, làm chỗ nương tựa vững chắc cho môn đồ tứ chúng tu tập
lâu dài.
Năm 2007, Ngài được GHPG Việt Nam suy cử làm ủy viên Hội đồng Trị sự TƯ GHPG Việt Nam.
Với uy tín đức độ và sự hy sinh chịu khó, Ngài không chỉ
thực hiện các Phật sự lớn nhỏ trong tỉnh mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến
các tỉnh khác.
Đệ tử xuất gia của Ngài gồm 26 vị hiện đa số đã là trụ
trì các tự viện trong, ngoài tỉnh, tham gia và tổ chức các hoạt động
Phật sự của Giáo hội Phật giáo tỉnh Trà Vinh, Phật tử tại gia trong và
ngoài nước hơn 6.000 vị .
Sau gần nửa thế kỷ hoằng pháp lợi sanh, vì tuổi cao sức
yếu nên Hòa Thượng đã lâm trọng bệnh, mặc dù đã được môn đồ pháp quyến,
thế quyến, tập thể Y- Bác sĩ tận tình cứu chữa nhưng Hòa Thượng đã
thuận thế vô thường , thâu thần thị tịch vào lúc 7 giờ 45 phút ngày 16
tháng 10 năm 2010 (nhằm ngày mùng 9 tháng 9 năm Canh Dần), trụ thế 68
năm , hạ lạp 46 năm.
Cuộc đời là mộng huyễn, nhưng tinh thần phục vụ dân tộc,
sự hi sinh cống hiến trọn đời cho đạo pháp của Ngài vẫn mãi mãi khắc
ghi trong lòng Tăng Ni Phật tử hôm nay và mai sau. Dầu nhục thân của
Hòa Thượng đã thật sự vắng bóng từ đây nhưng tấm gương đạo hạnh của
Ngài vẫn mãi sáng ngời và là kim chỉ nam cho hàng thất chúng đệ tử
noi theo.
Chúng con xin thành tâm cung kính đảnh lễ Ngài, nguyện
cầu giác linh Ngài cao đăng Phật quốc, tuỳ duyên Ta Bà hoá độ chúng
sinh.
Nam mô từ Lâm Tế chánh tông tứ thập tứ thế , Cố đô Huế
Trúc Lâm Đại Thánh Tự trụ trì, Trà Vinh tỉnh khai sơn Như Pháp Tự huý
Thượng Nguyên Hạ Chơn, hiệu Lưu Đoan Hoà Thượng giác linh.
-------------------------------