Phép thiền định và các học phái


Hoang Phong chuyển ngữ
31/10/2013 19:30 (GMT+7)
Số lượt xem: 1462
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng



Thiền định là một phép luyện tập tâm thức. Dù cảm thấy việc thiền định thật hữu ích và nên làm, thế nhưng lắm khi chúng ta lại không làm, chẳng qua chỉ vì một vài xúc cảm, thói quen hay xu hướng nào đó ngăn cản không cho chúng ta làm...


Thiền định giúp chuyển hoá tâm thức đạt đến đời sống an lạc hạnh phúc

Lời giới thiệu của người dịch

            Trên bình diện tổng quát thì tất cả các tôn giáo - kể cả Phật Giáo dưới một vài hình thức biến dạng mang tính cách đại chúng - đều hướng vào chủ đích tạo ra một đối tượng nào đó cho con người bám víu. Ngược lại Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình, nhờ vào sức mạnh mang lại từ lòng quyết tâm tự biến cải chính mình. Sự biến cải đó gọi là thiền định.

            Một tập san Phật giáo vừa được ra mắt ở Pháp vào tháng 9 năm 2013 và trong số đầu tiên đã đặc biệt nêu lên chủ đề thiền định. Bài mở đầu do một học giả Pháp rất lỗi lạc là Philippe Cornu viết (đã được chuyển ngữ), nêu lên một vài nét chính yếu của phép luyện tập này, và tiếp theo đó là một loạt các bài viết khác xoay quanh cùng chủ đề. Tập san mang tựa là Regard Bouddhiste, có thể tạm dịch là Hướng nhìn Phật Giáo.

            Trong số các hướng nhìn khác nhau về thiền định nêu lên trong tập san, chúng tôi xin chọn ra ba bài đại diện cho Phật Giáo Tây Tạng, thiền học Zen và Phật Giáo Theravada. Tất nhiên là nội dung trong các bài báo ngắn không thể so sánh với những gì thật sâu sắc và chi tiết trong kinh sách và các bài khảo cứu, thế nhưng cũng có thể mang lại cho chúng ta một ý niệm nào đó về một phép luyện tập chủ yếu và không thể thiếu sót đối với những người tu hành chân chính. Ba bài này sẽ được lần lượt chuyển ngữ dưới đây:

            bài 1: Phỏng vấn nhà sư Ringou Tulkou Rinpoché (Lạt-ma Tây Tạng)

           bài 2: Zazen hay tư thế ngồi thiền (Thiền sư Pierre Dôkan Crépon)

            bài 3: Như một dòng nước yên lặng đang luân lưu (Tỳ-kheo Khất Sĩ Ajahn Chah)

Hình bìa tập sanRegard Bouddhiste

(số tháng 9 và 10 / 2013)

 

Bài 1

Phỏng vấn nhà sư

Ringou Tulkou Rinpoché

Ringou Tulkou Rinpoché (1952-)

            Ringou Tulkou Rinpoché sinh năm 1952 tại tỉnh Kham Tây Tạng, và sau khi Trung Quốc đánh chiếm Tây Tạng thì ông và cả gia đình vượt biên sang tị nạn ở Ấn Độ. Vừa năm tuổi ông đã được vị lãnh đạo học phái Ca Nhĩ Cư là Karmapa XVI thừa nhận là người tái sinh của một vị đại sư quá cố của tu viện Rigoul. Ông đỗ tiến sĩ triết học Phật Giáo và được đào tạo theo cả bốn học phái Phật Giáo Tây Tạng. Hiện nay cứ mỗi năm ông giảng dạy khoảng sáu tháng tại Pháp.

 

Phỏng vấn nhà sư Ringou Tulkou Rinpoché

Phải luôn ghi nhớ là thiền định gồm có ba phép luyện tập

Tập san Regard Bouddhiste: Kính chào vị Đáng kính, xin Ngài vui lòng giải thích ngắn gọn phép thiền định là gì.

Ringo Tulkou Rinpoché: Tôi xin nói ngay đấy là một phép luyện tập, một phương pháp tập luyện nhằm biến cải chính mình bằng cách cải thiện những kinh nghiệm cảm nhận về con người của chính mình, và nhờ đó mình sẽ trở nên cao đẹp và nhân từ hơn, ích lợi cho người khác hơn: như thế gọi là thiền định. Thiền định không phải là một sự suy tư (meditation) mà gồm có ba phép luyện tập khác nhau, và chúng ta luôn phải ghi nhớ điều này. 

 

Phép luyện tập thứ nhất nhắm vào trí tuệ. Đấy là cách tập nhìn vào mọi sự vật và tìm hiểu mọi sự vật. Biết nhìn vào mọi sự vật một cách minh bạch và đúng đắn là một điều vô cùng quan trọng. Tóm lại phép luyện tập này dựa vào chủ đích tìm hiểu mọi sự vật là gì.

            Phép luyện tập thứ hai là cách phải tiếp cận với sự sống như thế nào? Tức là cách phải giữ một thái độ hành xử ra sao trên phương diện thân xác, ngôn từ và tâm thức của mình? Nhiều người gọi đấy là việc giữ gìn giới luật, thế nhưng thật ra thì không hẳn đúng như thế mà đơn giản chỉ là cách phải hành động như thế nào cho thật đúng đắn, tất cả đều nhờ vào trí tuệ: khi nào quý vị phân biệt được hành động nào mang lại hậu quả tích cực và hành động nào mang lại hậu quả tiêu cực, thì tất quý vị cũng sẽ hiểu rằng mình phải hành xử ra sao để mang lại hậu quả tích cực cho mình và cho kẻ khác.

            Phép luyện tập thứ ba là thiền định. Thiền định là một phép luyện tập tâm thức. Dù cảm thấy việc thiền định thật hữu ích và nên làm, thế nhưng lắm khi chúng ta lại không làm, chẳng qua chỉ vì một vài xúc cảm, thói quen hay xu hướng nào đó ngăn cản không cho chúng ta làm. Vì thế phải cải biến tâm thức mình khiến nó trở nên mềm dẻo và dễ bảo hơn. Dễ bảo có nghĩa là nếu quý vị bảo tâm thức "làm việc này" thì nó làm việc này, "không nên suy nghĩ quá nhiều" thì nó không suy nghĩ quá nhiều, "hãy suy nghĩ đi" thì nó suy nghĩ, "hãy tập trung tư tưởng" thì nó tập trung tư tưởng (tức là không phóng tưởng ra mọi hướng, chẳng hạn như không quay về quá khứ cũng không hướng vào tương lai, không nghĩ đến chuyện này, cũng không bắt sang chuyện kia), "hãy suy nghĩ một cách đúng đắn" thì nó suy nghĩ một cách đúng đắn (không suy nghĩ hay tưởng tượng xằng bậy). Sự dễ dạy của tâm thức thật vô cùng quan trọng đối với việc tu tập Phật Giáo, nếu không giữ được tâm thức dễ dạy thì nó sẽ trở nên bất trị, tương tự như một con khỉ phá phách hay một con voi đang lồng lộn. Muốn cho tâm thức dễ dạy thì phải để cho nó được yên và thư giãn. Tóm lại việc luyện tập thiền định là cách mang lại cho tâm thức sự thư giãn hầu giúp nó tìm về với thể dạng tự nhiên của nó.

            Tập san RB: Vậy làm thế nào để thực hiện việc ấy?

            R.T.R.: Có một giai thoại về bài thuyết giảng đầu tiên về thiền định của Đức Phật như sau: Ngài ngồi giảng bên bờ sông Hằng, các đệ tử bao quanh và lắng nghe. Thế nhưng bỗng dưng Ngài ngưng giảng và sai một đệ tử xuống sông múc một chậu nước mang lên. Đức Phật hỏi người đệ tử rằng: "Nước ấy có uống được không? Có sạch không?" Người đệ tử trả lời: "Bạch Thế Tôn, nước không uống được vì đầy bùn đất và mọi thứ cáu bẩn, thật không sạch tí nào". Đức Phật lại bảo như sau: "Tốt lắm, vậy cứ đậy chậu nước lại và để yên đấy, không nên chạm vào nữa". Đức Phật lại tiếp tục thuyết giảng. Một lúc thật lâu sau đó Đức Phật mới bảo với các đệ tử rằng: "Vậy hãy xem chậu nước bây giờ ra sao". Nhìn vào chậu nước một đệ tử thốt lên: "Ồ! chậu nước có vẻ sạch và có thể uống được rồi". Đức Phật bèn bảo rằng: "Trước đây nước không sạch, không uống được, bây giờ thì có thể uống được". Người đệ tử lại nói tiếp: "Trước đây nước xao động nên đục vì hòa lẫn với đủ mọi thứ. Nhờ để yên nên các thứ này lắng xuống, phẩm tính hay bản chất tự nhiên của nước nhờ đó đã hiện ra. Bản chất tự nhiên của nước mang tính cách tinh khiết và uống được".

            Đức Phật lại giải thích thêm: " Cũng tương tự như thế, tâm thức chúng ta trong lúc này đang xao động khiến nó bị rối loạn, hoang mang và vướng vào mọi thứ xúc cảm, lo tính cũng như tình trạng căng thẳng (stress). Nếu chúng ta để nó thư giãn, giúp nó giữ được trạng thái tự nhiên, tức để yên không quấy rầy nó, thì phẩm tính đích thật của nó tất sẽ hiện ra. Một khi phẩm tính ấy hiện ra thì tâm thức cũng sẽ trở nên an bình, hân hoan, thân thiện và cởi mở hơn". Nếu muốn thực hiện được điều ấy thì phải giữ tâm thức thư giãn, không quấy rầy nó, không để nó rơi vào sự xao lãng (suy nghĩ hết chuyện này lại bắt sang chuyện khác), ngầy ngật hay mơ màng, có nghĩa là phải giữ tâm thức tỉnh táo và thư giãn (tuy nhiên trên thực tế việc ấy không phải dễ thực hiện. Khó khăn thứ nhất là không mấy ai trong chúng ta tự nhận mình đang sống trong tình trạng lo nghĩ, hoang mang và sợ sệt, trái lại luôn tự xem mình là sáng suốt, bình tĩnh và có lý..., và đấy cũng là lý do mang lại khó khăn và đớn đau cho mình và cho kẻ khác mà mình không ý thức được. Chỉ khi nào ngồi xuống trong yên lặng, chăm chú nhìn vào tâm thức mình để phân tích các xúc cảm đang hiện ra trong tâm thức thì mới nhận thấy tình trạng bấn loạn ấy đang chi phối mình thật nặng nề. Chỉ khi nào ý thức được thể dạng bị chi phối ấy thì mình mới hiểu rằng phải làm mọi cách để giữ cho tâm thức bình tĩnh, thư giãn và trong sáng. Tạo ra cho mình thể dạng bình lặng đó là khó khăn thứ hai: lúc đầu thể dạng đó cũng chỉ là một sự "tưởng tượng", sau đó và nếu cố gắng thì dần dần chúng ta sẽ "hé thấy" được nó, nếu tiếp tục "tập cho quen dần" (tiếng Tây Tạng gọi là gompa) với sự "hé thấy" ấy thì nó cũng sẽ hiện ra rõ ràng và thăng bằng hơn). Nếu quý vị giữ được thể dạng ấy trong một khoảng thời gian nào đó, thì tâm thức cũng sẽ trở nên mềm dẻo, dễ dạy và mình cũng sẽ dễ sống với nó hơn. Tóm lại thiền định cũng chỉ là như thế.

Sự chú tâm và một tâm linh luôn tỉnh thức là hai công cụ giúp chúng ta hành thiền

Thiền định cũng chỉ cần đến hai công cụ ấy!

            Tập san RB: Thưa vị Tôn kính, kinh sách thường nói đến hai thể dạng tâm thức thật chủ yếu là nepa và gyurwa. Vậy hai thể dạng ấy giữ vai trò như thế nào đối với việc hành thiền?

            R.T.R.: Nepa có nghĩa là tâm thức yên tĩnh, gyurwa có nghĩ là tâm thức đang vận hành, tức là đang trong thể dạng hoạt động. Tóm lại là tâm thức hoặc ở trong tình trạng yên tĩnh hoặc ở trong tình trạng năng động. Yên tĩnh có nghĩa là thư giãn, bình lặng, không suy nghĩ quá đáng và cũng không quá xao động, thể dạng này gọi là nepa. Gyurwa có nghĩa là tâm thức trong tình trạng năng hoạt, nói cách khác là nó đang làm việc, tư duy nổi lên, xúc cảm hiện ra, tâm thức tìm hiểu hết chuyện này đến chuyện kia... Những gì trên đây cho thấy sự khác biệt giữa hai thể dạng nepa và gyurwa. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể sử dụng thiền định khiến cho tâm thức phải trở nên dễ dạy hơn dù là đang trong thể dạng bình lặng nepa hay thể dạng năng độnggyurwa cũng thế. Phải cố gắng thực hiện được điều đó. Chúng ta không thể lúc nào cũng ở trong tình trạng tĩnh lặng được, chuyện đó không thể thực hiện được. Vì thế mỗi khi tâm thức bình lặng thì cứ để yên cho nó trong thể dạng thư giãn ấy, và hãy cảm nhận sự an bình và hân hoan hiện ra với mình. Dầu sao cũng không thể giữ mãi được sự bình lặng ấy, do đó chúng ta cũng phải cố gắng tạo ra cho mình một sự thăng bằng nào đó cho tâm thức mỗi khi nó rơi vào tình trạng năng động. Chúng ta có thể tạo ra thể dạng thăng bằng trên đây bằng cách ý thức được là tâm thức mình đang làm việc. Mặc dù nó đang bận rộn và đang làm đủ mọi thứ chuyện thế nhưng chúng ta vẫn có thể giữ được sự tỉnh thức (pleine conscience / mindfulness / sự trầm tĩnh và cảnh giác không cho những sự suy nghĩ của tâm thức lôi kéo mình vào các thể dạng xúc cảm bấn loạn), chúng ta vẫn giữ được một chút chú tâm nào đó về những gì đang xảy ra, tương tự như mình vẫn kiểm soát được tâm thức dù chỉ được một chút nào đó (dù chỉ kiểm soát tâm thức được "một chút", thế nhưng "một chút" ấy chính là điểm khởi đầu giúp mình "tập luyện thêm cho quen dần", bởi vì đến một lúc nào đó "một chút" ấy sẽ trở thành quan trọng hơn và mình sẽ kiểm soát và canh chừng được việc làm của tâm thức hiệu quả hơn). Thật hết sức quan trọng là phải biết lợi dụng cả hai thể dạng bình lặng và năng động trên đây trong mục đích biến cải tri thức mình và giúp mình tiếp tục tiến bước trên con đường tu tập (nếu tâm thức trong tình trạng bình lặng thì thật tốt, nên lợi dụng ngay những lúc ấy để tận hưởng sự an vui và hân hoan trong lòng, nếu nó đang cật lực làm việc thì nên canh chừng xem nó làm những việc gì, sự canh chừng đó sẽ giúp mình "quen dần" trong việc kiểm soát nó. Sự canh chừng và quen dần ấy chính là phép hành thiền, và hành thiền cũng có nghĩa là mình đang bước trên con đường đưa đến Giác Ngộ. Tu tập với cờ quạt phất phới, chuông mõ vang rền chỉ là cách dừng lại trên con đường để giải trí và vui chơi mà thôi).

 

            Tập san RB: Vậy vai trò của sheshin và drenpa (tiếng Tây Tạng) là gì đối với sự chuyển đổi giữa  hai thể dạng bình lặng và năng động?

            R.T.R.: Drenpa có nghĩa là tâm linh tỉnh thức (pleine conscience / mindfulness), sheshinlà sự chú tâm. Sự chú tâm và tâm linh tỉnh thức là hai công cụ giúp chúng ta hành thiền. Thật ra chúng ta cũng chỉ có hai công cụ ấy thôi (nhà sư Ringou Tulkou mỉm cười).

Bures-Sur-Yvette, 30.10.13

Hoang Phong chuyển ngữ




Âm lịch

Ảnh đẹp