A.- Mở đề
Người
Phật tử, nếu chỉ thờ, lạy và cúng Phật, thì cũng chưa có thể gọi là
thuần thành. Người Phật tử thuần thành còn phải tụng kinh, trì chú và
niệm Phật. Vả lại nếu bỏ qua ba phần sau này, thì ba phần trước là thờ,
lạy và cúng khó có thể viên dung cả Sự và Lý được. Vì phần Lý là phần
cao siêu khó thực hành, mà nếu chúng ta không tụng kinh, niệm Phật để
cho tâm hồn được sáng suốt, tỏ ngộ các lý lẽ sâu xa huyền diệu trong
kinh đìển, thì chúng ta không làm thế nào để đạt được 4 phép lạy thuộc
về Lý là: Phát trí thanh tịnh lễ, biến nhập pháp giới lễ, chánh quán lễ,
thật tướng bình đẳng lễ và 5 món diệu hương để cúng Phật là: Giới
hương, Ðịnh hương, Huệ hương, Giải thoát hương, Giải thoát tri kiến
hương. Và nếu không thực hành được 4 phép lạy về Lý và cúng dường được 5
món diệu hương, thì sự lạy và cúng chỉ là phần "Sự" là phần hình thức,
và vì thế, kẻ tín đồ khó có thể tiến được trên đường Ðạo. Bỡi vậy, cùng
một lần với thờ, lạy và cúng Phật, chúng ta phải tụng kinh, trì chú và
niệm Phật. Ðó là những điểm căn bản tối thiểu mà một Phật tử thuần thành
không thể bỏ qua được.
B.- Chánh Ðề
I.- Ðịnh Nghĩa
1)
Tụng kinh: Tụng là đọc thành tiếng một cách có âm diệu và thành kính.
Tụng kinh là đọc một cách thành kính những lời Ðức Phật đã dạy trong
kinh điển, hợp với chân lý và căn cơ của chúng sanh.
2)
Trì chú: Trì là nắm giữ một cách chắc chắn. Chú là lời bí mật của Chư
Phật mà chỉ có Chư Phật mới hiểu được, chứ các hàng Bồtát cũng không
hiểu thấu. Các bài chú đều có oai thần và công đức không thể nghĩ bàn,
dứt trừ được nghiệp chướng, tiêu tai giải nạn và tăng trưởng phước huệ,
nên cũng gọi là thần chú.
3) Niệm Phật: Niệm là tưởng nhớ. Niêm Phật là tưởng nhớ danh hiệu Phật, hình dung Phật và đức hạnh của Phật, để luôn luôn cố gắng noi theo bước chân Ngài.
II.- Lý Do Phải Tụng Kinh - Trì Chú - Niệm Phật
1)
Vì sao phải tụng kinh? Chúng ta sống trong cõi dục, cho nên lòng dục
vọng của chúng ta không bao giờ ngừng nghỉ, cho đến trong giấc ngủ, cũng
còn chiêm bao cãi lẩy, cười khóc, vui buồn như lúc thức. Trong cảnh mê
mờ đầy dục vọng ấy, may thay, Ðức Phật vì đã thương xót chúng sanh mà
truyền dạy những lời vàng ngọc, có thể phá tan màng mây u ám của vô minh
và tội lỗi. Nhưng những lời lẽ cao siêu ấy, chúng ta nghe qua một lần ,
hai lần cũng không thể hiểu thấu và nhớ hết được. Cho nên chúng ta cần
phải đọc đi đọc lại mãi, để cho lý nghĩa thâm huyền được tỏa ra, và ghi
khắc trong thâm tâm chúng ta, không bao giờ quên được. Ðó là lý do khiến
chúng ta phải tụng kinh.
2)
Vì sao phải trì chú? Chú có công năng phi thường, nếu người thành tâm
trì chú, thì được nhiều hiệu lực không thể tưởng tượng. Chẳng hạn thần
chú "Bạc nhứt thế nghiệp chướng căn bổn đắc sinh Tịnh độ Ðà la ni" có
hiệu lực tiêu trừ được hết gốc rễ
nghiệp chướng, làm cho người được vãng sanh về Tịnh độ. Thần chú "Tiêu
tai kiết tường" có hiệu lực làm cho tiêu trừ các hoạn nạn, tai chướng,
được gặp những điều lành. Thầ chú "Lăng Nghiêm" thì phá trừ được những
ma chướng và nghiệp báo nặng nềv.v... Thần chú "Chuẩn Ðề" trừ tà, diệt
quỷ. Thần chú "Thất Phật diệt tội" có công năng tiêu trừ tội chướng của
chúng ta từ nhiều đời nhiều kiếp v.v... Vì thế nên chúng ta phải trì
chú.
3)
Vì sao phải niệm Phật? Tâm chúng ta bị vô minh làm mờ đục, chẳng khác
gì nước bị bùn nhơ làm ngầu đục. Muốn cho nước đục kia hóa ra trong,
không có phương pháp nào hay hơn là gia một chút phèn vào, thì các chất
dơ bẩn ngầu đục kia dần dần lắng xuống, bấy giờ nước đục trở nên trong
sạch. Phương pháp niệm Phật cũng vậy, có công năng trừ phá các vọng niệm
đen tối ở nơi tâm của chúng ta, làm cho tâm mê muội, mờ ám trở nên sáng
suốt, chẳng khác gì chất phèn làm cho nước trở nên trong vậy.
Vì sao niệm Phật lại làm cho tâm mê muội trở nên trong sáng ? Vì lý do rất dễ hiểu sau đây:
Tâm
chúng ta rất điên đảo, không bao giờ dừng nghỉ. Kinh thường nói: "Tâm
viên, ý mã", nghĩa là "tâm" lăng xăng như con vượn nhảy từ cành nầy qua
cành khác, và "ý" như con ngựa chạy lung tung luôn ngày suốt buổi. Làm
sao cho tâm ý chúng ta đừng nghĩ xằng bậy? Chỉ có một cách là bắt nó
nghĩ những điều tốt lành, hay đẹp. Niệm Phật chính là nhớ nghĩ đến những
Vị hoàn toàn tốt đẹp, những hành động trong sáng, những đức tánh thuần
lương. Càng niệm Phật nhiều chừng nào, thì ít niệm ma chừng ấy. Ma ở đây
là tất cả những gì xấu xa đen tối, làm hại mình hại người. Vì thế chúng
ta nên luôn luôn niệm Phật.
III.- Phải Thường Tụng Những Bộ kinh Nào, Trì Chú Gì Và Niệm Danh Hiệu Phật Nào ?
1.-
Các kinh thường tụng. Phàm là kinh Phật thì bộ nào tụng cũng được cả,
vì kinh nào cũng có công năng thù thắng là phá trừ mê mờ, khai mở tâm
trí sáng suốt cho chúng sanh, nếu chúng ta chí thành đọc tụng. Nhưng vì
căn cơ của chúng ta không đến, nên chúng ta phải lựa những bộ kinh nào
thích hợp với căn cơ và sở nguyện của chúng ta mà đọc tụng.
Thông
thường, các Phật tử Việt Nam, từ xuất gia cho đến tại gia đều trì tụng
những kinh như: Di-Ðà, Hồng Danh, Vu-Lan, Phổ Môn, Dược Sư, Ðịa Tạng,
Kim Cang, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa v.v...
Nhiều người có quan niệm, chọn bộ kinh cho thích hợp với mỗi hoàn cảnh, mỗi trường hợp để tụng, như lúc:
-
Cầu siêu thì tụng kinh Di-Ðà, Ðịa Tạng, Vu Lan v.v...; - Cầu an thì
tụng kinh Phổ Môn, Dược Sư v.v...; - Cầu tiêu tai giải bịnh thì tụng
kinh Kim-Cang, Lăng-Nghiêm v.v...; - Cầu sám hối thì tụng kinh
Hồng-Danh.
Cái
quan niệm lựa chọn như thế cũng có phần hay là làm cho tâm chuyên nhất
sẽ được hiệu nghiệm hơn. Nhưng chúng ta không nên quên rằng về mặt giáo
lý cũng như về mặt công đức, bất luận một bộ kinh nào, nếu chí tâm trì
tụng, thì kết qủa cũng đều mỹ mãn như nhau cả.
2.-
Các chú thường trì. Ở chùa, chư Tăng hằng ngày, trong thời khóa trụng
khuya, trì chú Lăng Nghiêm, Ð5i Bi, Thập chú hay Ngũ Bộ chú v.v... còn ở
nhà, phần nhiều cư sĩ trì chú Ðại Bi và Thập chú, bỡi hai lẽ: một là
thời giờ ít ỏi, vì còn phải lo sinh sống cho gia đình; hai là chú Lăng
Nghiêm đã dài, lại thêm chữ âm vận, trắc trở khó đọc, khó thuộc. Nhưng
nếu cư sĩ nào có thể học hết các thần chú, trì tụng được như chư Tăng
thì càng tốt.
3.-
Các hiệu Phật thường niệm. Ðúc Phật nào cũng đủ cả 10 hiệu, đồng một
tâm toàn giác, từ bi vô lượng, phước trí vô biên, thương chúng sanh vô
cùng vô tận, nên chỉ niệm danh hiệu một Ðức Phật nào cũng đều được cảm
ứng đến tất cả Chư Phật, công đức cũng đều vô lượng vô biên.
Nhưng
đứng về phương diện trìng độ và hoàn cảnh mà luận, thì hiện nay, chúng
ta là người ở thế giới Ta Bà, nhằm quốc độ của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni
giáo hóa, lẽ cố nhiên chúnng ta phải niệm danh hiệu của Ngài. Dụ như dân
chúng ở trong nước nào, phải nhớ nghĩ đến ơn nhà cầm quyền chính trị
sáng suốt ở trong nước đó.
Nếu
Tín đồ nào tu theo pháp môn Tịnh Ðộ, thì thường ngày phải niệm danh
hiệu Ðức Phật A-Di-Ðà. Pháp môn này được thành lập do lời dạy sau đây
của Ðức Phật Thích Ca: "Ở cõi thế giới Ta Bà này, đến thời kỳ mạc pháp,
cách Phật lâu xa, chỉ có pháp "Trì danh niệm Phật", cầu vãng sanh về Tây
phương cực lạc là quốc độ của Ðức Phật A-Di-Ðà, thì dễ tu dễ chứng hơn
hết". Ngoài ra, cũng có người niệm danh hiệu Ðức Phật Di-Lặc, để cầu
sanh về cõi trời Ðâu Xuất; hoặc niệm danh hiệu Ðức Phật Dược Sư, để cầu
cho khỏi tật bịnh.
Tóm lại, tín đồ phải niệm đủ Tam thế Phật:
a) Niệm Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, là niệm Ðức Phật hiện tại, cũng là Ðức Phật Giáo chủ của chúng ta.
b) Niệm Ðức Phật A-Di-Ðà, là niệm Ðức Phật đã thành từ quá khứ xa xưa, mà cũng là Ðức Phật tiếp dẫn chúng ta về Cực Lạc.
c) Niệm Ðức Phật Di-Lặc, là niệm Ðức Phật vị lai.
IV.- Lợi Ích Của Sự Tụng Kinh - Trì Chú - Niệm Phật
1.-
Lợi ích của sự tụng kinh. Những lời giáo hóa trong ba tạng kinh điển
của Phật, đều toàn là những lời hiền lành, sáng suốt do lòng từ bi và
trí tuệ siêu phàm của Phật nói ra. Kinh Phật, vì thế, có phần siêu việt
hơn tất cả những lời lẽ của thế gian. Nếu chúng ta chí tâm trì tụng,
chắc chắn sẽ được nhiều lợi ích cho mình, cho gia đình và những người
chung quanh:
a)
CHO MÌNH: Lúc tụng niệm, hành gỉa đem hết tâm trí chí thành đặt vào văn
kinh để khỏi sơ xuất, nên sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý không
còn móng lên mười điều ác nữa, mà chỉ ghi nhớ những lời hay, lễ phải.
b)CHO
GIA ÐÌNH: Trước khi sắp sửa tụng kinh, những người trong nhà đều dứt
các câu chuyện ngoài đời và khách hàng xóm đến ngồi lê đôi mách cũng tự
giải tán. Trong gia đình nhờ thế được thanh tịnh, trang nghiêm, hòa
thuận.
c)CHO
NGƯỜI CHUNG QUANH: Trong những lúc đêm thanh canh vắng, lời tụng kinh
trầm bỗng theo với tiềng mõ nhịp đều, tiếng chuông ngân nga, có thể đánh
thức người đời ra khỏi giấc mê, đưa lọt vào tai kẻ lạc lối những ý
nghĩa thâm huyền, những lời khuyên dạy bổ ích, chứa đựng trong kinh mà
hành giả đang tụng.
Như
vậy rõ ràng tụng kinh chẳng những có lợi ích cho mình, cho gia đình, mà
còn cho những người chung quanh nữa. Ðó là mới nói những điều ích lợi
thông thường có thể thấy được, ngoài ra tụng kinh còn có những điều lợi
ích, linh nghiệm lạ thường, không thể giải thích được, ai tụng sẽ tự
chứng nghiệm mà thôi.
2.-
Lợi ích của sự trì chú. Các thần chú tuy không thể giải nghĩa ra được,
nhưng người chí tâm thọ trì, sẽ được công hiệu thật là kỳ diệu, khó có
thể nghĩ bàn, như người uống nước ấm, lạnh thì tự biết lấy. có thể nói:
một câu thần chú, thâu gồm hết một bộ kinh, vì vậy, hiệu lực của các
thần chú rất phi thường. Khi gặp tai nạn, nếu thực tâm trì chú, thì mau
được giải nguy. Như thuở xưa, Ngài A-Nan mắc nạn, Ðức Phật liền nói thần
chú Lăng Nghiêm, sai ngài Văn Thù Sư Lợi đến cứu, thì Ngài A-Nan liền
được thoát nguy.
Ngày
nay có nhiều trường hợp mà người thành tâm niệm chú thấy được hiệu
nghiệm rõ ràng. Theo lời Bác sĩ Thiện Thành nói lại, thì vào năm 1946,
giữa lúc loạn ly, BS ở trong một vùng rừng sâu, núi hiểm tại Trung việt.
Một lần Bs bị một chứng bịnh nan y, mặc dù lương dược Ðông, Tây sẵn có
trong tay, cũng không làm sao trị được. Bác sĩ tưởng sẽ bỏ mình trong
xóm người Sơn cước, không ngờ lúc còn ở dưới mái nhà cha mẹ, thường đêm
nghe thân phụ trì chú "Công Ðức Bảo Sơn", BS liền đem thần chú ấy ra áp
dụng. Trong lúc ấy, các người nuôi bịnh cũng xúm lại hộ niệm cho BS suốt
đêm. Sáng hôm sau, quả thật BS lành mạnh trở lại một cách dễ dàng, làm
cho tất cả các bạn đồng nghiệp đều ngạc nhiên.
3.-
Lợi ích của sự niệm Phật. Niệm Phật công đức lại còn to lớn hơn nữa, vì
một câu niệm Phật có thể gồm thâu cả 3 tạng kinh điển, hết thảy thần
chú, cùng là các pháp viên đốn, như tham thiền, quán tưởng v.v...
Ðức
Phật Thích Ca Mâu Ni có dạy rằng: "Sau khi Phật nhập diệt , về thời kỳ
mạt pháp, đến kiếp hoại, các kinh sẽ bị tiêu diệt hết, chỉ còn kinh
Di-Ðà lưu truyền lại độ trăm năm rồi cũng diệt luôn. Lúc bấy giờ chỉ còn
một câu niệm Phật gồm 6 chữ "Nam mô A-Di-Ðà Phật", mà đủ năng lực đưa
chúng sanh về cõi "Cực-Lạc".
Lời
Phật nói không sai, bằng chứng là có nhiều nhân vật chuyên trì một câu
niệm Phật, mà biết được ngày giờ và thấy được điềm lành trước khi vãng
sanh. Như Tổ Huệ Viễn, trong 10 năm niệm Phật, 3 lần thấy Ðức Di-Ðà rờ
đầu; trong hội Liên xã, có 123 người chuyên tu phép "Trì danh niệm
Phật", đều lần lược được Phật rước về cõi Tịnh Ðộ. Gần đây ở Nam phần
VN, vào năm 1940, có 3 vị sĩ quan Pháp là Ðại úy Touffan, Trung úy
Retourna, Thiếu úy Brillant đồng lái một chiếc thuỷ ohi cơ bay từ đảo
Côn Lôn về Sài gòn. Giữa đường, chiếc phi cơ hư, , rơi xuống biển. Thiếu
úy Brillant (người Pháp lai Việt) niệm Phật cầu cứu. Chiếc thủy Phi cơ
lửng thửng trên mặt biển suốt 3 giờ , mới gặp một chiếc tàu đánh cá của
người Nhật đến cứu. Khi 3 vị vừa bước sang tàu, thì chiếc phi cơ chìm
ngay xuống biển. Ai nấy đều lấy làm lạ, hỏi nhau: Tai sao khi nãy có 3
người ngồi nặng, phi cơ lại nổi, mà bây giờ không có người nó lại chìm
ngấm? Chỉ có thiếu úy Brillant mới giải thích được sự lạ lùng ấy. Ông kể
lại cho mọi người nghe sự linh ứng của pháp niệm Phật mà ông thường áp
dụng, và lần nầy là lần thứ hai ông được thoát nạn nhờ phép niệm Phật
ấy. Ðại úy Touffan và trung úy Retourna hết lòng tin tưởng, nên khi về
đến Saigon, hai vị sĩ quan
ấy chung nhau một số tiền, cất một cái am đẹp đẽ ở Cát lái, làng Thạnh
Mỹ Lợi, tỉnh Gia Ðịnh để thờ Phật gọi là tỏ lòng tri ân. Ðây chỉ là một
câu chuyện trong muôn ngàn câu chuyện về sự lợi ích của phép niệm Phật.
C.- Kết Luận
Khuyên
Phật Tử Tụng kinh Niệm Phật Và Trì Chú Cả Sự Lẫn Lý Cho D(ược Viên Dung
. Tụng kinh, trì chú, niệm Phật là 3 phương pháp tu hành gồm đủ cả Sự
và Lý. Dù tại gia hay xuất gia, dù tiểu thừa hay Ðại thừa, tiêu cực hay
tích cực, không ai có thể rời 3 phương pháp nầy được. Bỡi thế, Phật tử
cần phải học tụng kinh, niệm Phật và trì chú choSự,Lý đi đôi, lời nói và
việc làm phù hợp, mới có được kết quả tốt đẹp.
Ba
pháp môn tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tuy không đồng mà kết qủa đều
thù thắng. Phật tử có thể tùy theo trình độ, hoàn cảnh của mình mà tu
một, hai hay cả ba pháp ấy. Thí dụ như người biết chữ và mạnh khoẻ, công
ăn việc làm hằng ngày không bận rộn lắm, thì nên tụng kinh, trì chú,
niệm Phật đủ cả ba pháp môn. Còn người tuổi gìa, sức yếu, mắt mờ, răng
rụng, miệng lưỡi phều phào, thân thể mỏi mệt, nếu tụng kinh , trì chú
không nổi, thì phải chuyên tâm niệm Phật, đi đứng nằm nồi, túc nào cũng
phải niệm Phật. Nhưng các Phật tử nên nhớ, khi miệng tụng kinh, trì chú,
niệm Phật, tay gõ mõ, đánh chuông, lần chuỗi, thì tâm trí phải gột rửa
hết bao ý nghĩ bất chính, những ham muốn đê hèn, và đạc vào dấy hình ảnh
của Ðấng Từ Bi. Rồi phải noi gương Ngài, mở lòng thương rộng lớn, nghĩ
đến nỗi thống khổ của muôn loài và phát nguyện đem sức mình ra, ban vui
cứu khổ cho tất cả. Ðến khi thôi tụng niệm, trở lại tiếp xúc việc đời,
thì phải làm thế nào cho những hành động của mình cũng được từ bi như tư
tưởng và lời nói của mình vậy.
Người tụng kinh trì chú và niệm Phật, làm đúng như thế, thì chắc chắn sẽ được chứng qủa Thánh không sai.
HT. Thích Thiện Hoa
Nguồn link: http://www.sangdaotrongdoi.vn/story/y-nghia-cua-tung-kinh-tri-chuniem-phat-thich-thien-hoa