Tuy nhiên, bất chấp điều đó, Bồ-tát vẫn kiên trì việc
thực hành thể hiện sự kính trọng của mình đối với mọi người. Cuối cùng ngài đạt
được giác ngộ, không chỉ cho riêng mình mà cũng dẫn dắt mọi người mà ngài gặp
đến bến bờ giải thoát.
Ảnh minh họa
Khi chúng ta
sống trong xã hội nơi sự bất dung và phỉ báng lẫn nhau đang gia tăng, hành xử
của Bồ-tát Thường Bất Khinh, như được mô tả trong kinh Pháp hoa, cung
cấp một hướng dẫn cụ thể cho đời sống hàng ngày của chúng ta. Chúng ta có thể
phát triển nhân tính như thế nào trong một xã hội đang ngày càng thiếu nhân
tính? Chúng ta có thể phản ứng và chuyển đổi môi trường thù địch bằng cách nào?
Phẩm “Bồ-tát Thường Bất Khinh” trong kinh Pháp hoa soi sáng những câu
hỏi quan trọng này.
Trọng tâm của việc thực hành Phật đạo
Phẩm thứ hai
mươi của kinh Pháp hoa, có tên “Bồ-tát Thường Bất Khinh”, là thuộc phần
kết của kinh Pháp hoa, được biết như là phần “phó chúc”. Các kinh sách
thường được giải thích gồm có ba phần: phần tựa, phần khai thị và phần phó
chúc. Phần tựa là phần giới thiệu, ở đó lý do thuyết giảng kinh được làm sáng
tỏ. Phần khai thị thảo luận về nội dung chính của kinh. Phần phó chúc, là phần
kết, giải thích những lợi ích của kinh và khuyến khích việc truyền bá kinh.
Phần phó chúc của kinh Pháp hoa được cho là bắt đầu với nửa sau của phẩm
“Phân biệt công đức” (phẩm 17) và đến hết phẩm cuối là “Phổ Hiền Bồ-tát khuyến
phát” (phẩm 28), phẩm được xem như là phần kết của kinh Pháp hoa.
Một phần của
phần phó chúc, phẩm “Bồ-tát Thường Bất Khinh”, giải thích cả lợi ích có được từ
việc truyền bá kinh Pháp hoa và quả báo không tốt đến với những ai phỉ
báng người hành trì kinh này. Ý nghĩa của phẩm “Bồ-tát Thường Bất Khinh”, tuy
nhiên, không chỉ nằm nơi sự liên hệ mật thiết của nó với phần phó chúc của
kinh.
Sự miêu tả của kinh về thái độ và hành xử của Bồ-tát Thường Bất Khinh ở
trong phẩm này được xem như hình mẫu cho những hành giả của kinh Pháp hoa.
Tinh thần và hành động của ngài tiêu biểu cho điều cốt tủy của kinh: chủ nghĩa
nhân đạo được dựa trên sự kính trọng tuyệt đối phẩm giá vốn có của con người.
Bồ-tát Thường Bất
Khinh là ai?
Sau đây là phần tóm tắt về phẩm “Bồ-tát Thường Bất
Khinh”: Trong đời quá khứ xa xưa, khi giáo pháp của Phật Oai Âm Vương đang bắt
đầu bước vào thời kỳ biến mất, có một vị Bồ-tát xuất hiện và thực hành giáo
pháp của Đức Phật này. Đồng thời, dân chúng cũng thực hành Phật pháp, nhưng họ
không thấy được mục đích và ý nghĩa chân thực của Phật pháp. Thêm nữa, bấy giờ
“các Tỳ-kheo tăng thượng mạn có rất nhiều thế lực”. Vị Bồ-tát đó, không bị ảnh
hưởng bởi những trường hợp này, tin tưởng vững chắc rằng mọi người đều có Phật
tính. Vì vậy, bất cứ khi nào nhìn thấy người khác, ngài nói với họ rằng: “Tôi
kính trọng ngài sâu sắc và không bao giờ dám khinh thường ngài. Vì sao?
Bởi vì
ngài đang thực hành Bồ-tát đạo và sẽ thành Phật”. Bởi vì Bồ-tát luôn lặp đi lặp
lại những lời này, người ta đã gọi ngài là “Thường Bất Khinh”.
Người ta giận
dữ và phỉ báng ngài, nói rằng “Vị Tỳ-kheo vô trí này ở đâu đến, tự tin nói rằng
ông ta không khinh khi chúng ta, và còn thọ ký cho chúng ta sẽ thành Phật?
Chúng ta không cần những lời thọ ký hão huyền đó!” Một số người khác thì “lấy
gậy và gạch đá đánh đập và ném ông”. Nhưng Bồ-tát Thường Bất Khinh không từ bỏ
sự thực hành của mình và đạt được giác ngộ, đắc được công đức lục căn thanh
tịnh. Còn những người nhục mạ ngài thì đọa vào địa ngục Vô gián. Và sau khi thọ
tội xong, họ cuối cùng gặp lại Bồ-tát Thường Bất Khinh, được ngài giáo hóa và
chứng đắc Phật quả.
Thực hành lòng nhân trong cõi đời thực
Những tình
huống xoay quanh Bồ-tát Thường Bất Khinh là tương tự với những tình huống hiện
này của chúng ta ở một vài khía cạnh. Thêm nữa, những tư tưởng và hành động của
Bồ-tát đem đến cho chúng ta những hiểu biết có ý nghĩa về cách chúng ta có thể
thực hành Phật giáo ngày hôm nay. Tôi muốn thảo luận chín điểm then chốt liên
quan đến vấn đề này.
1. Trong
một thời đại quyền lực tôn giáo bị lạm dụng, thực hành Chánh pháp có nghĩa là
thẳng thắn nói sự thật
Một lý do tại
sao phẩm “Bồ-tát Thường Bất Khinh” hữu ích như một hướng dẫn đối với sự tu tập
ngày nay của chúng ta là rằng những tình huống ở đó Bồ-tát thực hành là tương
tự với những tình huống của chúng ta. Bản kinh mô tả thời điểm câu chuyện xảy
ra là như sau: “Khi Đức Oai Âm Vương Như Lai tối sơ đã diệt độ và sau thời
Chánh pháp biến mất, trong thời Tượng pháp, hàng Tỳ-kheo tăng thượng mạn có rất
nhiều thế lực”.
Đó là một thời điểm rất lâu sau Đức Phật diệt độ; đó
là một thời kỳ hỗn mang đối với giáo pháp Phật giáo. Lời dạy chân thực của Đức
Phật bị làm cho lu mờ, và thay vào đó, người ta thực hành một “Pháp tương tự”,
tức là một Phật giáo hình thức và thiên về nghi lễ cúng kiếng. Bản kinh giải
thích rằng chính “những Tỳ-kheo tăng thượng mạn” góp phần làm suy tàn Phật
giáo. Không biết về mục đích và ý nghĩa chân thực của Phật giáo và bị thao túng
bởi quyền lực tôn giáo, quần chúng không thể nắm bắt được cái cốt tủy của việc
thực hành Phật pháp và sự tận tâm của họ không có kết quả. Trong một thời kỳ
suy thoái và hỗn mang như vậy, Bồ-tát Thường Bất Khinh đã xuất hiện và tuyên bố
chân lý rốt ráo của Phật giáo - sự hiện hữu của Phật tính bên trong mọi người,
và đó là phẩm giá bình đẳng của tất cả mọi người.
2. Danh
phận được xác định bằng hành động
Tên thật của
Bồ-tát Thường Bất Khinh không được biết. Tên của ngài là một cái tên giễu mà
người ta cố gán cho ngài bởi vì ngài luôn lặp đi lặp lại câu “Tôi không bao giờ
dám khinh thường các vị, vì tất cả các vị chắc chắn sẽ thành Phật!”. Tên của
ngài có ý nghĩa ở đây. Trong kinh Pháp hoa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hỏi
đại chúng: “Vì lý do gì mà vị ấy có tên là Thường Bất Khinh?”. Tên của chúng ta
xác định chúng ta.
Ở đây bản kinh cho thấy rằng nhân dạng của một hành giả kinh
Pháp hoa được xác quyết bằng chính những việc làm của người đó. Điều này
phù hợp với truyền thống Phật giáo là luôn nhấn mạnh vào hành động của chúng
ta, chứ không phải vào địa vị hay tài sản của ta, những điều thường được coi là
cốt tủy trong việc xác định danh phận chúng ta.
Một trong các
bài kệ của kinh Pháp cú viết rằng: “Ðược gọi Bà-la-môn/ Không vì đầu bện
tóc/ Không gia đình, dòng tộc/ Ai thật chân, chánh, tịnh/ Mới là Bà-la-môn.”
Một Bà-la-môn là thành viên của đẳng cấp cao nhất trong những người Hindu. Các
Bà-la-môn được xem như là giai cấp quyền quý nhất của xã hội Ấn Độ.
Thông điệp
của Đức Phật ở đây là rằng, một người trở thành cao quý không phải vì địa vị
hay hình ảnh, mà bằng chính việc làm của người ấy. Tương tự, nếu chúng ta muốn
đồng nhất chúng ta với Bồ-tát Thường Bất Khinh, chúng ta chỉ có thể hành động
theo cùng cách như vậy: thừa nhận và kính trọng Phật tính ở trong tất cả mọi
người. Những suy nghĩ, ngôn từ và hành vi của chúng ta quyết định chúng ta là
ai. Sau hết, những gì chúng ta xem là “tự ngã” thì không có gì khác hơn sự tổng
hợp những nghiệp tích lũy của chúng ta. Và nghiệp có nghĩa là “hành vi” - những
suy nghĩ, lời nói và việc làm của chúng ta.
Do đó, chúng ta về cơ bản tự do
định hình nên danh phận của mình chính xác theo cách chúng ta muốn. Việc thực
hành Phật pháp của chúng ta đưa ra một phương tiện mạnh mẽ cho việc tạo nên và
xác định chúng ta. Chúng ta đề cập đến tiến trình mà ngang qua đó chúng ta thực
hiện điều này như là cuộc “cách mạng con người” của chúng ta.
3. Mục
đích của việc thực hành đạt đến quả vị Phật
Tại sao chúng
ta thực hành Phật pháp? Những câu hỏi đơn giản nhất thường là quan trọng nhất
và khó trả lời nhất. Khi Bồ-tát Thường Bất Khinh xuất hiện vào thời kỳ “Tượng
pháp” của Đức Phật Oai Âm Vương, mặc dù Phật giáo được biết rộng rãi, quần
chúng hoàn toàn không biết ý nghĩa đích thực của việc thực hành Phật giáo. Sự
mù mờ của quần chúng về Phật giáo được biểu thị bằng nhận xét của họ đối với
Bồ-tát: “Vị Tỳ-kheo vô trí này ở đâu đến, tự tin nói rằng ông ta không khinh
khi chúng ta, lại còn thọ ký cho chúng ta sẽ thành Phật? Chúng ta không cần
những lời thọ ký hão huyền đó!”. Phản ứng của họ là vô minh trong ý nghĩa rằng
chúng là trái ngược với mục đích Phật giáo.
Quần chúng bị
mê hoặc bởi tầng lớp Tăng lữ quyền uy để tin rằng họ cứ thực hành mà không cần
giác ngộ. Tùy thuộc vào quyền lực tôn giáo, do đó, trở thành mục đích của họ.
Đó là trạng thái thực hành Phật giáo quen thuộc. Chúng ta thực hành Phật giáo
để khai mở chúng ta thành những vị Phật. Khi quần chúng trở nên mù mờ về ý
nghĩa nền tảng này của Phật giáo, họ chắc chắn rơi vào một trạng thái nô lệ
tinh thần.
Từ một cách
nhìn, việc làm của Bồ-tát Thường Bất Khinh là để giải thoát con người ra khỏi
sự mê mờ ấy và thức tỉnh cho họ biết mục đích chân thật của Phật giáo. Kinh Pháp
hoa dạy chúng ta rằng ở vào một thời kỳ hỗn mang, chúng ta trước hết phải
làm sáng tỏ những gì mà những Phật tử chắc hẳn sẽ hỏi khi họ bắt đầu thực hành:
Tại sao tôi thực hành? Không trả lời được câu hỏi này một cách đúng đắn, sự
thực hành của chúng ta sẽ trở thành điều mà ngài Nhật Liên mô tả là “một sự
hành xác đớn đau vô cùng tận”.
4. Kính
trọng người khác là một phương tiện khai mở Phật tính của chúng ta
Từ những hành
động của Bồ-tát Thường Bất Khinh, chúng ta tìm thấy chìa khóa để nhận ra hạnh
phúc của chính mình. Bồ-tát chứng minh rằng nếu chúng ta muốn thấy Phật tính
của chúng ta và khai mở nó, chúng ta cũng phải thấy nó ở nơi đời sống của người
khác. Không có chuyện là đạt lấy giác ngộ cho riêng mình trong khi không nhìn
thấy khả tính như vậy ở nơi người khác.
Về điều này, ngài Nhật Liên, thông qua
sự loại suy khéo léo, giải thích: “Có một sự đồng nhất căn bản của ta và người.
Do đó khi Bồ-tát Thường Bất Khinh cung kính lạy bốn chúng, Phật tính ở trong
bốn chúng tăng thượng mạn cúi lạy lại Bồ-tát Thường Bất Khinh. Điều này giống
như cách khi một người cúi đầu trước một cái gương, hình ảnh phản chiếu trong cái
gương cúi đầu trở lại”.
Nếu thái độ của
chúng ta là “tôi sẽ đối xử với mọi người đúng đắn với điều kiện mọi người đối
xử với tôi đúng đắn”, thì có nhiều khả năng chúng ta sẽ đánh mất sự kính trọng
và chân thực của chúng ta và đẩy người khác ra xa. Hay có thể nói rằng một thái
độ như vậy tự nó là nguyên nhân cho việc thất kính và nghi ngờ lẫn nhau. Ngược
lại, nếu chúng ta cố gắng nhìn thấy vị Phật nơi người khác, chúng ta sẽ thấy
một sự thay đổi đặc biệt nơi đời sống của chúng ta và cả nơi đời sống của người
khác. Thực hiện trước việc kính trọng những người xung quanh ta vì Phật tính
của họ là đem lại ích lợi hỗ tương. Trong ý nghĩa này, Bồ-tát Thường Bất Khinh
thực hành sự cung kính không chỉ vì lợi ích của người khác, mà cũng vì lợi ích
của chính mình.
Tin vào Phật
tính - của chính chúng ta và người khác - là điều khó khăn. Đây là tại sao hành
động của Bồ-tát Thường Bất Khinh là quá cao cả và hy hữu. Nhưng đồng thời, việc
thực hành là ở bên trong tầm tay của bất cứ ai. Mọi người có thể tôn trọng
người khác; điều chắc chắn không khó như bay lên trên một hội chúng và trèo lên
trên một ngôi tháp đồ sộ lơ lửng giữa không trung - những hành động được mô tả
ở nơi khác trong kinh. Không giống như những việc làm này, việc làm của Bồ-tát
Thường Bất Khinh là có thể đối với tất cả chúng ta.
Trong ý nghĩa này, ngài
Nhật Liên giải thích: “để tin rằng Phật tính tồn tại bên trong loài người là
điều khó khăn nhất - khó như tin rằng lửa tồn tại trong nước hay nước ở trong
lửa. Bồ-tát Thường Bất Khinh nhìn thấy Phật trong mọi người ngài gặp, và Thái
tử Tất-đạt-đa là người đã thành Phật. Những tấm gương này giúp bạn có niềm
tin.”
Những gì có thể
khiến chúng ta hành động theo cách mà Bồ-tát Thường Bất Khinh đã làm, ngài Nhật
Liên dạy ở đây, là không có gì khác hơn niềm tin của chúng ta vào tính phổ quát
của Phật tính. Và để tiếp tục công việc của chúng ta, chúng ta cần niềm tin
mạnh mẽ - mạnh mẽ đủ để không thoái chí bởi những phản ứng nông nổi từ người
khác. Bất cứ khi nào chúng ta nhận ra và kính trọng Phật tính của người khác,
quả vị Phật của họ đang đảnh lễ trở lại, bất chấp bề ngoài họ đang phản đối
chúng ta. Do đó ngài Nhật Liên khuyên chúng ta cần có can đam để chính chúng ta
thực hành trước, chứ không chờ đợi một cách vô ích hình ảnh ở trong tấm gương
cúi lạy trước.
5. Bao
dung thật sự xuất phát từ niềm tin vào nhân tính
Bồ-tát Thường
Bất Khinh, bất chấp sự phỉ báng gay gắt mà ngài phải chịu, không hề tức giận
hay từ bỏ việc thực hành của mình. Bản kinh mô tả sự kiên nhẫn của ngài như
sau: “Trải qua nhiều năm như vậy, vị Tỳ-kheo này thường xuyên chịu sự phỉ báng
và sỉ nhục. Tuy nhiên ngài không sân hận mà vẫn luôn nói: “ngài chắc chắn sẽ
thành Phật”. Trong phần kệ tụng của phẩm “Thường Bất Khinh”, bản kinh lặp lại
điểm này: “Khi người nghe điều này/ họ bèn chế giễu ngài/ phỉ báng, sỉ vả ngài/
Nhưng Bồ-tát Bất Khinh/ Nhẫn nhục chấp nhận cả.
Gốc rễ lòng bao
dung của Bồ-tát Thường Bất Khinh đối với người khác nằm ở nơi niềm tin sâu sắc
của ngài vào nhân tính. Bất chấp những phản ứng thô lỗ và tàn nhẫn mà ngài đã
hứng chịu từ những người ngài gặp là gì, niềm tin của ngài vào khả tính Phật là
không hề bị dao động. Ngài thật sự tin tưởng vững chắc vào chân lý được Phật
giáo tuyên thuyết này nên không oán hận hay mất đi sự nhẫn nhục. Ngài tin chắc
rằng ngài đứng cùng với chân lý, và điều này đã giúp ngài vượt qua bất kỳ cảm
xúc thông thường nào mà đôi khi ngài có thể đã cảm nhận.
Lòng bao dung được
biểu thị bởi Bồ-tát Thường Bất Khinh không phải là lòng bao dung thông thường.
Đó không phải là lòng bao dung tiêu cực: chấp nhận cả những gì mình biết là
sai, nhưng vẫn làm nhằm bảo vệ nơi chốn bình yên của mình và tránh sự xung đột
hay đương đầu. Ngài tìm sự tương tác với người khác và tự do thể hiện niềm tin
của mình. Sự kiên trì của ngài trong việc truyền tải thông điệp của ngài đến với
người khác đã khiến họ vô cùng bực bội. Rõ ràng những người đương thời với ngài
đã xem ngài như là một người vô trí không để họ yên.
Tuy nhiên, bỏ mặc mọi
người trong sự hỗn mang không phải là một hành động bao dung; mà đó là thiếu từ
bi. Bồ-tát Thường Bất Khinh chấp nhận vô điều kiện mọi người trên nền tảng khả
tính Phật của họ. Lòng bao dung của ngài là tích cực - lòng bao dung đem đến
một sự thay đổi thực sự trong cuộc đời.
6. Thực
hành bất bạo động là để mạnh mẽ hơn và trí tuệ hơn
Bồ-tát Thường
Bất Khinh là một hình mẫu đại diện cho tinh thần bất bạo động. Ngài đã thể hiện
sự tận tâm đối thoại của mình như là phương tiện duy nhất để nói về những khác
nhau giữa người và người. Ngài không bao giờ viện đến bạo lực với bất cứ lý do
gì bởi vì những người phỉ báng ngài không hề là kẻ thù của ngài. Ngài xem họ
như chính mình, tất cả đều có tiềm năng cao quý, điều ngài đã nhận thấy nơi
chính đời sống của mình.
Tuy nhiên, điều
quan trọng là làm cách nào ngài có thể giữ được tinh thần bất bạo động trong
một xã hội bạo động mà không hy sinh nạn nhân cho bạo động. Ngài có thể làm như
vậy bởi vì ngài đủ trí tuệ và dũng lực để tránh những tấn công bạo lực, tuy
nhiên vẫn giữ một sự tiếp xúc đủ gần với những người phỉ báng ngài để tiếp tục
truyền bá niềm tin vào Phật tính cho họ. Bản kinh giảng giải: “Khi ngài nói như
vậy, một số người lấy gậy và gạch đá đánh đập và ném ngài. Nhưng lúc ấy ngài
chạy ra xa, và đứng ở xa tiếp tục nói lớn rằng ‘Tôi không hề dám khinh thường
các vị, vì các vị chắc chắn sẽ thành Phật!’”
Ngài không quá
khờ khạo hay bất cẩn để khiến mình trở thành nạn nhân của những kẻ bạo lực.
Ngài đủ khôn ngoan để bảo vệ bản thân. Ở đây, kinh Pháp hoa dạy chúng ta
rằng để thực hành bất bạo động trong cõi đời thực, chúng ta phải có trí tuệ,
tránh trở thành nạn nhân trong một xã hội ngược đãi. Bồ-tát Thường Bất Khinh
dường như bảo chúng ta rằng chớ trở thành nạn nhân của người khác trong việc
thực hành lòng bao dung và bất bạo động trong thế giới ngày hôm nay.
7. Thanh
tịnh lục căn thông qua giúp đỡ người khác
Như một kết quả của việc tu tập đúng đắn, Bồ-tát
Thường Bất Khinh đã đạt được nhiều công đức. Ví dụ, bên cạnh việc kéo dài thọ
mạng của mình, ngài có thể thanh tịnh các căn để nhận thức thế giới một cách
đúng đắn hơn. Bản kinh giảng giải rằng: “Ngài liền đắc nhãn căn thanh tịnh và
nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý căn thanh tịnh…”.
Từ một cách
nhìn, những gì chúng ta gọi là lợi ích trong Phật giáo đến từ những mối liên hệ
tích cực mà chúng ta tạo ra, tức là sự liên hệ của chúng ta với môi trường, với
người khác và với những sự việc mà chúng ta đối diện trong cuộc sống. Để tạo ra
những mối liên hệ tích cực, chúng ta phải nhận thức sự việc một cách đúng đắn
để có thể hành động một cách có trí tuệ. Nếu chúng ta nắm bắt những điều xung
quanh một cách rõ ràng, chúng ta có thể tạo ra những giá trị tích cực, hạnh
phúc và niềm vui. Còn nếu nhận thức của chúng ta tối tăm, có nhiều khả năng
chúng ta mang lại khổ đau cho chính mình.
8. Chân
thành là sự biện thuyết chân thật
Bồ-tát Thường
Bất Khinh cũng đắc được sự chân thành, lòng tốt và an tịnh như bản kinh đã
giảng giải: “Bấy giờ, những Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, những
người trong hàng tứ chúng tăng thượng mạn đã từng khinh chê và đặt tên ngài là
Thường Bất Khinh, thấy ngài đắc đại thần thông lực, có được năng lực biện
thuyết vô ngại, có được năng lực đại thiện và an tịnh, khi nghe lời ngài nói,
tất cả họ đều tín thuận và mong muốn trở thành đệ tử”.
Trong một ý
nghĩa, dường như rằng ngài bất ngờ đạt được khả năng biện tài, có được lòng tốt
và sự an tịnh. Tuy nhiên, có lẽ đúng hơn để kết luận rằng, sự chân thành kiên
trì của ngài trong việc truyền bá tính phổ quát của Phật tính cuối cùng đã chạm
đến trái tim của những người đã từng phỉ báng ngài. Sự chân thành của ngài đã
khai mở nhãn thị của họ, và vì lần đầu họ nhìn thấy sự vĩ đại của người mà họ
đã từng phỉ báng. Ở đây bản kinh đề xuất rằng, sự biện tài đến từ sự chân
thành, điều cuối cùng vượt qua khỏi sự kiêu mạn và thành kiến.
9. Trả
nghiệp
Ở đây bản kinh giải thích nguyên tắc “trả nghiệp”
mà ngài Nhật Liên đã diễn tả bằng đoạn văn sau: “Bồ-tát Thường Bất Khinh bị phỉ
báng và sỉ nhục, bị ném đá và bị đánh đập bằng gậy gộc không phải không có lý
do. Có thể trong quá khứ ngài đã từng phỉ báng Chánh pháp. Đoạn văn trong kinh
cho thấy rằng, nhờ Bồ-tát Thường Bất Khinh gặp phải sự ngược đãi, ngài có thể
diệt trừ những ác nghiệp trong các kiếp trước”. Ở đây ngài Nhật Liên nói với
chúng ta rằng tất cả những khó khăn mà chúng ta trải qua trong việc truyền bá
Phật giáo không bao giờ uổng phí. Chúng là những thử thách giúp chúng ta chuyển
đổi một cách tích cực ác nghiệp của chúng ta, và làm nền tảng vững chắc cho
hạnh phúc lâu dài.
Bản kinh nói rằng những người phỉ báng và sỉ nhục
Bồ-tát Thường Bất Khinh đã phải chịu khổ đau lâu dài và cuối cùng đạt được giác
ngộ: “Hàng tứ chúng… thời đó, do đã dùng lòng sân hận khinh chê ta (Bồ-tát
Thường Bất Khinh), trong 200 ức kiếp đã không được thấy Phật, không được nghe
Pháp, và không gặp được Tăng. Trong 1.000 kiếp ở tại địa ngục Vô gián để thọ
khổ não cùng cực. Sau khi đã thọ xong tội báo, họ lại gặp Bồ-tát Thường Bất
Khinh và được ngài giáo hóa để đạt đến Vô thượng chánh đẳng chánh giác”.
Như vậy, ngay những người phỉ báng Bồ-tát cũng có
duyên với kinh Pháp hoa nên cuối cùng nhận chân được Phật tính của họ,
điều mà chính họ đã kịch liệt phủ nhận.
Kết luận: can đảm kính trọng người khác
Mặc dù có nhiều
điểm quan trọng trong phẩm “Bồ-tát Thường Bất Khinh” được nhấn mạnh, khi so
sánh cuộc đời của vị Bồ-tát này với cuộc đời của ngài Nhật Liên, ta thấy có một
phẩm chất mà cả hai cùng chia sẻ - đó là sự can đảm. Cả hai can đảm nói về chân
lý và kính trọng tất cả mọi người. Can đảm thật sự là điều có thể giúp họ hoàn
thành những gì họ đặt ra bất chấp những phỉ báng mà họ gánh chịu.
Kinh Pháp hoa giải thích điểm này như sau:
“Ở trong bốn chúng ngài thuyết pháp với tâm không sợ hãi”. Ngài Nhật Liên cũng
nhấn mạnh tầm quan trọng của sự can đảm trong việc thực hành Phật pháp. Để sử
dụng việc làm của Bồ-tát Thường Bất Khinh như một hướng dẫn cho việc tu tập
hàng ngày, bước đầu tiên là phát triển sự can đảm để tìm kiếm sự chói sáng của
quả vị Phật ở trong đời sống của người khác cũng như ở trong chính mình.