CHẾT LÀ LẼ ĐƯƠNG NHIÊN
Trời hửng nắng, ta trở dậy, mệt nhoài, như mới hôm qua ta
còn khoẻ, nói chuyện tới khuya, giờ đây mình đã ngã bệnh chỉ
sau một đêm. Bởi thế, nói đến vô thường ai cũng thấy buồn chán
và ngán ngẩm làm sao; chỉ trong chớp mắt, trong khoảnh khắc,
mọi việc đều đã thay đổi một cách nhanh chóng, mới thấy đó rồi
mất đó, cuộc sống quá mong manh, tạm bợ. Vì vậy, vô thường có
thể là một bài hát buồn đối với nhiều người. Có một câu
chuyện nói về sự vô thường như sau:
Thấy một chú tiểu đang tưới cây, một người khách hỏi,
“đã biết cuộc đời là vô thường, sao chú còn chăm sóc thứ ấy
làm gì cho tốn công, vô ích?”
Chú tiểu đáp, “dạ xin thưa, nếu mọi vật đều là thường, thì đâu cần chúng con chăm sóc để làm gì?”
Bởi vô thường nên mọi hiện tượng, sự vật trên cõi đời
này đều thay đổi, biến thiên theo thời gian. Mới hồi sáng thấy
tinh thần sảng khoái, dễ chịu, trẻ trung yêu đời, muốn làm gì
cũng được; ấy thế mà buổi chiều, mình lại xìu như bánh bao
chiều, mệt mỏi, chán chường, thất vọng, lo âu, sợ hãi. Chính vì
vậy mà Phật dạy, “cuộc đời là mộng huyễn”; còn chúng ta thì cho
rằng, cuộc đời này vốn là thường còn mãi mãi.
Vậy xin hỏi hết tất cả mọi người, thế gian này có phải
là mộng huyễn hay không? - Đời là một giấc mộng dài, là một
đám sương mù, là một làn điện chớp, có đó rồi không đó, tích
tắc rồi tan biến, nên Hoà thượng Trúc Lâm mới nói bài Mộng
như sau:
Gá thân mộng, dạo cảnh mộng,
Mộng tan rồi, cười vỡ mộng.
Ghi lời mộng, nhắn khách mộng,
Biết được mộng, tỉnh cơn mộng.
Đời người cũng vậy, và tất cả muôn loài vật cũng lại như
thế. Vô thường là một lẽ thật chung cho tất cả thế gian, không
phải của riêng ai, mọi người đều có quyền thấy biết, nhìn nhận
như vậy, không phải của người này, mà cũng không phải của
người kia. Bởi vô thường nên mọi sự vật có thể đổi thay, vì đổi thay
nên ta mới khổ.
Sống trên cõi đời, ai cũng muốn nắm giữ đủ thứ hết, giữ
không được thì sinh ra tiếc nuối, buồn khổ. Cũng từ vô thường, nên
thân này mới có sinh-già-bệnh-chết, rồi yêu thương xa lìa khổ,
oán ghét gặp nhau khổ, mong cầu không được khổ, và sự thịnh
suy của thân này cũng khổ. Do đó, Phật dạy, “cái gì có tướng
là hư hoại”. Ta gọi chung cho mọi sự thay đổi, hư hoại đó là vô
thường. Đức Phật dạy trong Kinh Kim Cang:
Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng huyễn bào ảnh,
Như sương, cũng như chớp,
Phải nên quán như thế.
Như Lai Thế Tôn nhờ tu chứng dưới cội Bồ Đề nên Ngài
thấy rõ ràng, từ con người cho đến muôn loài vật, như mặt trăng,
mặt trời, trái đất, núi rừng, ao hồ, sông suối, hoa lá, cỏ
cây…, đều phải theo một định luật chung muôn đời của vũ trụ, là
phải thay đổi, không có cái gì đứng yên hay trường tồn mãi mãi
trên thế gian này.
Ấy thế mà, vẫn có một số người quan niệm rằng, thế
gian này thường còn mãi, nên mặc tình đắm say, lao vào vui chơi,
hưởng thụ quá đáng, để rồi đánh mất đi nhân cách và phẩm
chất làm người, nên ngày càng rơi vào hố sâu tội lỗi; hạng
người này đáng thương hơn là đáng ghét. Chính vì vậy, hôm nay,
chúng tôi xin chân thành chia sẻ pháp thoại “biết sống trong vô
thường”.
Vậy vô thường có nghĩa là gì?
Thưa tất cả quý Phật tử, “vô” có nghĩa là không, “thường”
nghĩa là thường có. Vô thường có nghĩa là không thường còn,
không bền chắc lâu dài, dù nhỏ bé như hạt bụi, hoặc lớn như
mặt trời, mặt trăng, cũng đều phải chịu sự chi phối thay đổi,
tan rã, chuyển biến theo thời gian, hoặc chậm hay mau mà thôi. Vô
thường tạm chia thành ba loại: Thân vô thường, tâm vô thường,
hoàn cảnh vô thường.
Trước tiên, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thân vô thường xem nó như thế nào và chuyển biến ra sao.
Thân này từ đâu có? Theo lời Phật dạy, thân này muốn có
được phải hội đủ ba điều kiện: phải có cha mẹ quan hệ với
nhau, cùng kết hợp tinh cha với huyết mẹ và nghiệp thức của
một chúng sinh, chung hợp lại thành bào thai, bào thai lớn lên
nhờ sự nuôi dưỡng bằng máu huyết và hơi ấm của người mẹ, đến
khi mở mắt chào đời, hít thở khí trời, bú sữa mẹ hay sữa
hộp, rồi dần dần biết uống ăn và lớn khôn. Thân thể này sống
được là nhờ bốn đại giữ gìn, cộng với uống ăn và hít thở
khí trời mà sống còn.
Thân này sống được nhờ bốn đại bên trong kết hợp với
bốn đại bên ngoài được đưa vào hằng ngày, như chất cứng gọi
là đất, chất lỏng là nước, nhiệt độ trong người gọi là lửa,
và sự hoạt động của thân là nhờ gió. Vì thế, sự hình thành
của thân này là một chuỗi dài vay mượn liên tục. Nếu chúng ta
thở ra mà không hít vào coi như chết. Vậy mà có người cho
rằng, thân này thường còn mãi mãi; nhưng thực tế có phải vậy
không? Chúng ta thử nhìn lại xem, trên đời này có ai trẻ mãi
không già, khoẻ mạnh hoài không đau bệnh, sống hoài mà không chết.
Chắc chắn là không! Tại sao vậy? Vì ai cũng phải chịu quy
luật của sự vận hành già-bệnh-chết chi phối. Chính đức Phật Thích
Ca Mâu Ni còn phải xả bỏ báo thân này khi Ngài 80 tuổi, huống
hồ là chúng ta.
Quy luật vô thường già-bệnh-chết không hẹn cùng ai,
giống như đoá hoa phù dung sớm nở, tối tàn. Phật dạy, muôn loài
vật ở thế gian này đều vô thường để mỗi người chúng ta biết mà
không quá chấp chặt, dính mắc vào xác thân này để làm khổ đau
cho mình và người.
Đã chịu sự chi phối của vô thường thì thân này đâu có
thật, do chúng ta lầm chấp thân này là ta, là tôi, là của tôi,
từ đó sinh ra tham lam, ích kỷ, tìm cách vơ vét về cho riêng mình
mà làm tổn hại người khác.
Đã làm người, ai có mặt trên cuộc đời này,
không ít thì nhiều luôn bị bất hạnh, khổ đau bám víu vào thân
phận con người. Cái mà tất cả mọi người đang lo sợ nhất chính
là cái chết; vì thế, một số người cố tìm cách luyện thuật
trường sanh bất tử để sống đời, nhưng có mấy ai được thoát
chết bao giờ đâu?
Thuở Phật còn tại thế, có một thiếu nữ dáng vẻ mảnh
khảnh, ốm yếu, nghèo khổ, sống tại thành Xá Vệ, tên là Kisa
(có nghĩa là cô gái ốm yếu). Khi lớn lên, cô cũng có chồng như
bao người con gái khác; nhưng bị mọi người bên chồng khinh khi,
coi thường, vì cô thuộc giai cấp hạ liệt, thấp kém, ở đợ, làm
mướn.
Từ khi đứa con trai đầu lòng ra đời, cuộc sống của cô
bắt đầu thay đổi, cô được mọi người bên chồng đối xử tốt đẹp
và quý mến hơn. Nhưng bất hạnh thay, chẳng được bao lâu, đứa con
của cô qua đời vì cơn bạo bệnh. Đứa con chết làm người con gái ấy
gần như điên loạn; dù đau khổ đến tột cùng, cô vẫn hy vọng sẽ
có người cứu được đứa con của mình sống lại, nên ôm xác con đi
tìm thầy cứu chữa.
Nhìn cảnh tượng thảm não, thất tha thất thểu lê từng
bước chân để tìm thuốc cải tử hoàn sinh cho con mình, mọi
người nhìn theo chỉ biết ngậm ngùi, thương tiếc; bởi việc cứu
sống đứa trẻ là điều không thể được mà người con gái ấy vẫn
nuôi hy vọng.
PHẬT CHỮA TÂM BỆNH
Có người vì quá xót thương, nên đã
hướng dẫn cô đến gặp Như Lai Thế Tôn, mong nhờ đức Phật tế độ.
Khi đến, cô tha thiết cầu xin Như Lai Thế Tôn cứu sống cho con
mình. Biết được nhân duyên sâu xa, đức Phật liền hứa sẽ giúp cô
cứu sống đứa trẻ. Nghe vậy, lòng cô dâng trào lên niềm hy vọng vô
biên, cô nghĩ con mình chắc chắn được cứu sống.
Chờ cho nhân duyên đã chín mùi, đức Phật liền chỉ dạy, “này
thiếu nữ, con hãy đến nhà nào chưa từng có người chết xin về
đây cho ta vài hạt cải, ta sẽ cứu sống đứa bé cho con. Tin chắc
rằng con mình sẽ được cứu sống nếu có được vài hạt cải
trong một gia đình không có người chết, cô liền phấn khởi ra đi,
trong lòng mừng thầm vô hạn. “Hạt cải nhà nào cũng có”, cô nghĩ
như thế, nên sung sướng đến tột cùng, lòng tràn đầy hy vọng,
vì trong chốc lát đây, con cô sẽ được cứu sống nhờ những hạt cải
nhiệm mầu ấy.
Hạt cải thì nhà nào cũng có, nhưng tìm nó trong một gia
đình không có người chết thì quả thật là không thể được. Bởi vì
sao? Vì nhà nào cũng có người chết. Cô thất tha, thất thểu đi
hết làng trên xóm dưới, từ làng này qua xóm nọ, cô đi khắp
hang cùng hốc hẻm, nhưng không tìm ra một gia đình nào không có
người chết như yêu cầu của Như Lai Thế Tôn.
Quá thất vọng và mệt mỏi, cô ngã quỵ bên lề đường,
trên tay vẫn còn ôm chặt xác con của mình. Thế là bao nhiêu hy
vọng không còn nữa. Cô nhìn con với lòng trìu mến, dù xác đứa
bé đã cứng đờ. Lúc này, cảm giác rùng rợn cùng với sự
thương tâm phủ đầy trong lòng cô; bỗng nhiên, tâm trí cô loé lên
một tia sáng, cô hiểu rằng, trên đời này, ai rồi cũng sẽ chết,
chỉ đến sớm hay muộn mà thôi, đau thương mất mát là một sự
thật của kiếp người, yêu thương mà phải xa lìa đó là một nỗi
khổ, niềm đau, có hợp phải có tan, đó là định luật nhân duyên
quả của cuộc đời.
Trong sự đau khổ tột cùng, cô đã nhận ra, có sinh là có
chết, ai rồi cũng phải lần lượt như vậy, chỉ đến sớm hay muộn mà
thôi. Từ nhận thức sáng suốt đó, cô không tìm hạt cải nữa, mà
đem xác con mình vào rừng Thi Lâm (theo phong tục, tập quán Ấn
Độ, xác người chết đem bỏ vào rừng cho thú ăn), rồi thanh thản
trở về bạch Phật, “Kính bạch Thế Tôn, con đã tìm ra hạt cải
của sự vô thường rồi, con đã đưa xác đứa bé bỏ vào rừng. Bây
giờ con cảm thấy trong lòng thoải mái và nhẹ nhõm hơn”.
Nhân đó, đức Phật khai thị đạo lý duyên sinh trong cuộc
sống cho cô nghe, “trên đời này, có sinh là có tử, yêu thương xa lìa
khổ, không có cái gì là cố định cả, tuỳ theo nhân duyên, tuỳ
theo điều kiện mà nó đổi thay sớm hay muộn mà thôi”.
Ngang đây, cô chứng được quả Dự Lưu, tức đã vào dòng
Thánh, từ nay về sau không còn đoạ vào ba đường ác: địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh. Sau đó, cô phát tâm xin đức Phật cho xuất gia
làm Tỳ kheo ni; nhờ luôn siêng năng, tinh tấn tu hành, cuối cùng cô
đã chứng quả A-La-Hán.
Khổ đau luôn bám víu thân phận con người, khổ đau về vật
chất như thiếu cơm ăn, áo mặc, rồi đến cái khổ vì
già-bệnh-chết, nên ngày xưa người ta hay cố gắng luyện thuật
trường sinh bất tử để sống đời, nhưng có ai không chết bao giờ đâu?
Như ông Bành Tổ sống đời,
Tám trăm tuổi thọ nay thời còn đâu.
Ngày xưa, người ta đồn rằng, ông Bành Tổ bên Trung Hoa do luyện
được trường sinh bất tử, nên mạng sống được kéo dài đến 800 tuổi. Đó là
truyền thuyết của thời xa xưa, nhưng trên thực tế thì hiếm thấy và ít
có.
Trong nhà Phật không quan trọng sống lâu hay chết yểu, nếu sống
100 năm mà không làm gì được lợi ích cho ai, thì sống như vậy cũng không
có giá trị gì về kiếp nhân sinh. Một ngày chúng ta có mặt trong cuộc
đời là một ngày ta biết buông xả tham lam, sân hận, si mê, và sẵn sàng
bố thí, cúng dường, giúp đỡ, sẻ chia khi có nhân duyên; thấy người khó
khăn, thiếu thốn ta sẻ chia hay nâng đỡ, thấy người bệnh ta chăm sóc,
hỏi han, động viên, an ủi... Khổ đau được chia ra làm hai phần:Khổ
về thân, khổ về tinh thần.
Thân thì phải sinh-già-bệnh-chết nên khổ. Tâm thì yêu
thương xa lìa khổ, oán ghét gặp nhau khổ, mong cầu không được
khổ. Chúng ta không thể diễn tả hết được nỗi khổ, niềm đau của
kiếp người. Có thân là có khổ, không ít thì nhiều, ai cũng
đều phải như vậy. Thế mà chúng ta ít có ai nghĩ đến điều này.
Khi mới sinh ra thì ta khóc, mọi người cười. Cái khổ trước tiên
là người mẹ phải mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày, đến ngày sinh nở
trông cho mẹ tròn con vuông, đó cũng là một nỗi khổ, niềm đau.
Già thì da nhăn, mắt mờ, tai điếc, đi đứng khó khăn, đa số sống
phải nhờ vào sự chăm sóc của con cháu; nếu thiếu tu thì phiền não, trách
móc con cháu, nên nói già hay sanh tật là vậy đó.
Bệnh thì mình mẩy đau nhức ê ẩm, chân tay rã rời, nếu nhẹ thì
còn tự chăm sóc được, nặng thì phải nhờ đến cháu con ,tốn tiền, hao của,
mất công cho gia đình, người thân.
Chết là một nỗi ám ảnh lớn nhất của kiếp con người, ai cũng ham
sống sợ chết; khi sống thì không làm những điều thiện lành, tốt đẹp, đến
khi gần chết thì lo lắng, sợ hãi, không biết mình sẽ đi về đâu?
Rồi cho đến yêu thương mà xa lìa khổ. Nhờ sự giáo hoá tài
tình của Như Lai Thế Tôn, người con gái ấy đã nhận ra chân lý
cuộc đời, cô quyết lòng từ bỏ hết tất cả để trở về, quay trở
lại với chính mình. Đây chính là pháp Thiền Hạt Cải mà xưa kia
Như Lai Thế Tôn đã trao cho người con gái ấy.
Ngay tại đây và bây giờ, thân vật lý này vẫn còn hiện
hữu nơi mọi người chúng ta. Học đạo lý năm xưa để ta tự chiêm
nghiệm lại chính mình. Mất mát, đau thương, buồn tủi là một sự
thật, hễ có được là có mất, sự ra đi của người thân luôn để
lại cho ta nỗi nhớ, niềm thương, và cuộc đời vốn dĩ là như thế.
Cuối cùng, mỗi người chúng ta ai cũng phải đối diện
với cái chết, chỉ đến sớm hay muộn mà thôi. Chết là một nỗi ám
ảnh lớn lao nhất đối với con người, nên nhiều người không dám
nói đến từ này, họ nói thay từ chết bằng từ thọ, thậm chí
khi đã tắt thở, mua hòm về nhà rồi vẫn còn gọi là cái hòm
thọ ( tức cái hòm sống).
PHÁP THIỀN HẠT CẢI
Thế Tôn là bậc đại y vương, là vua của các thầy thuốc,
nGài tuỳ theo bệnh mà cho thuốc, phương thuốc của Ngài rất nhiệm
màu, đơn giản và hết sức thực tế. Nỗi khổ, niềm đau về sự yêu
thương xa lìa khổ, mất mát, đau thương, buồn tủi, khiến cho thân tâm
chúng ta mê muội, bằng mọi giá ta quyết giành lại sự sống, nhưng
sự sanh ly, tử biệt là lẽ đương nhiên; hạt cải vốn là như vậy
chứ không có tác dụng gì để đổi chết thành sống. Nhờ đi tìm
hạt cải đã giúp cho người con gái nhận ra đạo lý vô thường của
sự sống, cái chết có thể đến với tất cả mọi người bất cứ lúc
nào, và không loại trừ một ai.
Sống trên cõi đời này, ai sáng suốt nhận ra được điều ấy
gọi là giác ngộ, là thấy rõ sự thật của kiếp người. Sự mất
mát, đau thương là lẽ đương nhiên, không có gì làm cho ta phải
quá buồn khổ và đau lòng.
Con đường đi tìm hạt cải của người con gái ấy là một quá
trình thiền quán về sự vô thường, bởi vô thường nên từ con người
cho đến vạn vật đều biến thiên, thay đổi theo thời gian, không
có gì là cố định cả. Chính nhờ nguyên lý vô thường, con người mới thay
đổi và tiến bộ được; vì sự sống muôn màu, muôn vẻ, con người
cần có ý chí mãnh liệt mới có thể vượt qua được cạm bẫy cuộc
đời.
Do bị vô minh, mê muội che lấp, chúng ta chưa nhận chân
được vô thường là gì, từ đó tham ái phát sinh, và khổ đau bắt
đầu có mặt. Khi ta biết rõ thế gian này là vô thường, mình sẽ có
cái nhìn sáng suốt và chín chắn hơn, mình không bi quan yếm thế,
không chán nản, không thất vọng, để làm mình và người khổ đau.
Chúng ta phải tự tin hơn nữa để làm chủ bản thân, làm chủ cuộc
đời bằng sự ý thức làm lành, lánh dữ.
Nhờ thấu suốt được nguyên lý vô thường của vạn vật,
chúng ta sẽ an nhiên, bất động trước mọi hoàn cảnh với vô vàn
sự đổi thay. Mỗi người Phật tử chúng ta bắt chước làm theo sự chỉ
dạy của đức Phật cho người con gái ấy, đi tìm hạt cải để trị tâm
bệnh cho chính mình.
Chúng ta vẫn biết, hạt cải là vật vô tri không thể cải
tử hoàn sinh, nhưng Như Lai Thế Tôn đã chỉ dạy cho người con gái ấy
một pháp Thiền Hạt Cải, để rồi cuối cùng nàng nhận ra nguyên lý vô
thường của kiếp người. Ngày nay, người Phật tử chân chính có cơ
hội học tập và hành trì pháp Thiền Hạt Cải ấy. Tuy hạt cải
không có giá trị cứu sống đứa bé, nhưng nó đã tác động đến
tâm tư của người mẹ, giúp nàng nhận ra phép lạ của sự tỉnh
thức về nỗi mất mát đau lòng đang diễn ra trong từng phút giây.
Người con gái ấy đã thấy rõ, hạt cải chỉ là hạt cải, đứa bé
chỉ là đứa bé, có duyên thì được sinh ra làm con, hết duyên
thì trả về nguyên thuỷ của nó. Chết là một sự thật hiển
nhiên không ai có thể chối cãi được.
Sự đến đi của một con người là do nghiệp lực thúc đẩy
và chi phối, khi ta làm điều tốt lành thì được hưởng quả an
vui, hạnh phúc, làm điều xấu ác thì phải chịu sa đoạ, khổ đau.
Nó đến và đi là tuỳ theo duyên ngắn hay dài, chậm hay mau mà
thôi. Do người con gái ấy lầm chấp mình là ta, rồi dẫn đến bám
víu vào sở hữu của ta, là con ta, tài sản của ta, nên nàng mới
phải khổ đau đến cùng tột như vậy.
Khổ đau lúc nào cũng có mặt, chỉ vì chúng ta là người
phàm mắt thịt, nên không nhìn thấy hết nguyên nhân sâu xa của nó
mà thôi. Do tham ái, luyến tiếc, bám víu, cho rằng cái gì cũng
là thật có, từ đó chúng ta sinh tâm chấp giữ, bảo thủ, bám víu
vào đó, khi được thì càng thêm tham, tham không được thì đau lòng,
khốn khổ mà sinh ra hận thù, oán giận.
Mất mát, xa lìa là lẽ đương nhiên trong cuộc đời, vậy mà
có người dám nói rằng, thà chịu khổ chớ không chịu lỗ. Sống
một mình, vui vẻ, hạnh phúc không chịu, phải đi tìm người bạn đời để
tâm sự, sẻ chia, cuối cùng đường ai nấy đi, dù có thương yêu
cách mấy cũng không thể giúp được nhau trong giờ lúc sanh ly, tử
biệt.
Bởi do chấp trước và bám víu vào thân này, nên chúng ta
luôn sống trong đau khổ lầm mê, để rồi oán trời, trách đất sao
quá bất công đối với con người. Người đời thì luôn tham muốn vô
cùng tận, tham được thì càng thêm tham, tham không được thì sanh
ra buồn khổ, hận thù, tìm cách trả đũa. Trên thế gian, cái gì có
được rồi cũng sẽ mất, không có cái gì bền chắc, lâu dài mãi
mãi, thương yêu mà xa lìa là một nỗi khổ, niềm đau của kiếp con người.
KHỔ DO CHẤP CHẶT
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không
phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày,
kéo xe, chưa chắc là khổ; bị đoạ làm súc sanh, quỷ đói, chưa
chắc là khổ, mà cái khổ lớn nhất của con người là vô minh, mê
muội, không biết lối đi mới thật là khổ.
Những cái khổ thiếu ăn, thiếu mặc, đói rét, hay con trâu,
con bò kéo cày, hoặc làm quỷ đói, cho đến khi trả hết nghiệp
khổ thì cũng có ngày thoát ra khỏi; còn chúng ta sống trong vô
minh mê lầm mà không biết lối đi, không biết được sự thật của cuộc
đời mới là khổ.
Đã làm người, ai không một lần vấp ngã, nhưng khi vấp
ngã chúng ta có chịu đứng lên hay không? Chúng ta vấp ngã ngay nơi
đất, thì cũng từ nơi đất mà đứng lên. Đạo Phật không bắt buộc một ai
phải đi theo mà chỉ hướng dẫn cho tất cả mọi người thấy biết
đúng sự thật, tốt biết tốt, xấu biết xấu, còn làm được hay
không là do sự quyết tâm của mỗi người. Chúng ta có quyền chọn
lựa vì chính mình là thượng đế tối cao của chính mình, không ai
có quyền chen vô hay ban phước, giáng họa cho ta. Đến chỗ này, chúng
ta phải thầm nhận, tự nhận, không nên chần chừ nữa, mà hãy
một phen chuyển mình để nhận ra tính biết sáng suốt ngay nơi thân
này.
Phật dạy, ai cũng có chân tâm sáng suốt, tại sao chúng ta
không chịu thừa nhận để rồi mình cứ mải mê chạy theo vui chơi,
hưởng thụ dục tính, làm chính mình khổ luỵ ngày càng thêm chồng
chất?
Vua Trần Thái Tông là một vị vua cư sĩ. Khi tu hành ngộ
đạo, Ngài cảm thông cho kiếp người sao quá ngu si, khờ dại, nên
sáng tác ra bài thơ như sau:
Lang thang làm khách phong trần mãi,
Ngày cách quê hương muôn dặm trình.
Phật dạy, “ai cũng có tâm Phật, tâm sáng suốt, chỉ vì ta
không chịu thừa nhận, nên phải chịu trôi lăn mãi trong lục đạo,
luân hồi”. Ta là nam nhi đại trượng phu, Phật đã thoát ly sanh tử,
còn ta dại gì mà đi lang thang mãi cho đến khi gối mỏi, chân dùn
mà ngồi đó than thân, trách phận, chờ đến khi khát nước mới
đào giếng thì làm sao hết khát được đây?
Vậy thành Phật là thành cái gì? Chúng ta phải nhận rõ
chỗ này, thành Phật là thành cái tâm sáng suốt, thanh tịnh,
chớ không phải thành cái thân năm,bảy chục ký lô này. Cái tâm
sáng suốt, thanh tịnh ấy ngay nơi mắt thì thấy biết rõ ràng,
tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế.
Có một ông vua hỏi Thiền sư, “thành Phật là thành cái gì?”
Thiền sư đáp, “dám bảo bệ hạ đã quên”.
Chỉ một câu nói “dám bảo bệ hạ đã quên” đã làm nhà vua
sáng tỏ, hài lòng. Do không nhận cái mình thực có, nên chúng
ta đành cam chịu sống trong đau khổ, lầm mê.
Đạo Phật ra đời đã mở ra trang sử mới, một trang sử huy
hoàng nhất trong lịch sử nhân loại, chưa từng có từ trước tới
nay. Đạo phật đã chỉ cho chúng ta biết cách làm chủ bản thân, nhờ biết
quay lại chính mình; mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu
khổ đau, không ai có quyền ban phước giáng họa cho ta; nên đạo Phật
là đạo của tình thương, là đạo của tỉnh thức, là đạo của sự giác ngộ,
giải thoát, là đạo của con người, vì con người, vì lợi ích của
nhau, bằng trái tim hiểu biết trên tình thần đoàn kết, yêu thương, giúp
đỡ lẫn nhau.
Phật là danh từ chung, không dành cho riêng ai như các quan
niệm khác của thời xa xưa. Ai cũng có thể thành Phật được, nếu
quyết tâm chịu bắt chước buông xả và tu tập như Ngài, thì chúng
ta cũng sẽ thành Phật trong tương lai.
Sở dĩ, chúng ta không thành Phật và phải chịu khổ đau trong
luân hồi sinh tử là vì mình không thừa nhận nhận mình có tính biết sáng
suốt. Chỉ vì mình chẳng chịu thừa nhận chính mình có hạt châu
vô giá ngay nơi thân này, mắt thấy sắc nhưng rõ ràng thường biết,
tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế, tại ta không chịu lấy ra xài mà
thôi.
Điều đầu tiên đức Phật đã chỉ là biết khổ do chấp trước
sai lầm, chấp là gốc của sự khổ đau; biết được khổ từ nguyên
nhân chấp trước, bám víu, tham ái, nên chúng ta phải tìm cách
chuyển hoá, buông xả cái khổ lớn nhất của con người là sợ
chết, vì tham sống nên sợ chết.
Chúng ta luôn tham muốn thân này luôn sống đời mãi mãi, nên
mọi người coi cái chết là việc cấm kỵ nhất. Do đó, khi gặp
người thân thăm hỏi nhau, chúc mừng nhau, chúng ta đều luôn cầu
chúc cho nhau mạnh khoẻ, sống lâu, mà ta không biết phải gieo
nhân nào để được sống thọ. Nhân sống thọ là không sát sinh, hại
vật, bởi mạng sống từ con người cho đến muôn loài vật, ai cũng đều ham
sống sợ chết, ta muốn sống thọ mà cứ giết hại hoài, thật “thất nhơn ác
đức” làm sao! Vì sợ chết nên ai cũng tìm cách tránh né danh từ
chết, và hình như từ chết đã ám ảnh con người thành nỗi sợ
hãi lớn, thậm chí đến khi tuổi già, bệnh gần chết, khi mua
hòm về vẫn nói là hòm thọ “tức là hòm sống.”
Cho nên, đã làm người trong trời đất thì trước sau gì ai cũng
phải chết, chỉ đến sớm hay muộn mà thôi, dù là vua chúa hay người dân
dã, bình thường. Do đó, với sanh thì mau lớn trong từng giây,
phút như một em bé khi mở mắt chào đời, chỉ bằng cùm tay, ấy
thế mà sẽ lớn lên với nhiều thay đổi; sanh cũng có nghĩa là
sự sống đang tăng trưởng, thay đổi và phát triển.
Còn đối với già thì sao? Da nhăn, tóc bạc, mắt mờ, tai
điếc, ăn uống, đi đứng khó khăn theo từng năm tháng, ai rồi cũng
sẽ phải già.
Với bệnh thì thân thể tiều tụy, đau nhức hoành hành, làm ta
đau khổ; sức khỏe dần hồi hao mòn, suy kém, làm cho ta tốn tiền, hao
của.
Khi chết thì con người không còn cựa quậy, hoạt động như
bình thường, mà nhắm mắt xuôi tay, co cứng, rồi rã rời, thối
rửa.
Vì lẽ ấy, đức Phật mới nói với vua Ba Tư Nặc rằng, có
bốn sự việc mà người thế gian không thoát khỏi được, đó là
sinh-già-bệnh-chết.
Chứng minh cho lời Phật dạy là chân lý, đúng với lẽ thật
thế gian là vô thường, chúng ta thường đau khổ khi có người thân
qua đời, nhất là người đó đã từng nuôi nấng, thương yêu, chăm sóc,
lo lắng cho ta được đầy đủ về mọi phương diện. Ngày nay, nếu chúng ta
chịu khó theo dõi tin tức trên các phương tiện báo chí, chúng ta
sẽ thấy, không biết bao nhiêu là cảnh sinh ly tử biệt luôn xảy
ra hằng ngày, chết chóc do chiến tranh, loạn lạc, thiên tai, lũ
lụt, hạn hán, sóng thần, động đất, tai nạn, già bệnh v.v…
Nào là khi mới sanh ra, chưa kêu tiếng khóc chào đời,
hoặc mới chập chững biết đi đã xa lìa cha mẹ, mới ngày nào
mẹ mẹ, con con, mà giờ đây không còn nữa; rồi tai nạn giao thông
chết tức tưởi, làm con người trong phút chốc đã trở thành
người thiên cổ. Những nỗi đau thương, mất mát luôn rình rập
chúng ta trong từng giây, từng phút trên thế gian này. Hiện nay,
tai nạn giao thông đã làm cho biết bao người đang khoẻ mạnh bị
chết tức tửi, rồi bệnh tật tấn công, kẻ chết non, người chết
bất đắc kỳ tử, cái chết không tha thứ bất kỳ một ai, không phải
chúng ta sinh ra chờ đến già, bệnh mới chết.
Mọi người nên nhớ rằng, cái chết đến với chúng ta rất bất
ngờ, không báo trước, không chờ đợi, không hẹn hò, không phải ai
cũng đến già, bệnh rồi mới chết. Cái chết đến với chúng ta
thiên hình vạn trạng không sao kể hết, người chết trẻ, kẻ chết
già, người chết sông, kẻ chết suối, kẻ chết bụi, người chết
bờ… người chết vì súng đạn, gươm đao, kẻ chết vì thiên tai, lũ
lụt, người chết vì thiếu thốn, đói khát, lại có người vì
uất hận, vì bức xúc mà quyên sinh, bức tử. Tóm lại, cái chết
không ai có thể thoát khỏi và trốn được. Trong kinh Pháp Cú,
đức Phật dạy như sau:
Dầu trốn giữa hư không,
Ở biển khơi, núi rừng,
Không một nơi nào cả,
Trốn thoát được cái chết.
Thời đức Phật còn tại thế, có bốn vị ngoại đạo tu chứng được ngũ thông:
_ Thứ nhất là thiên nhãn thông, thấy được tất cả người
và vật, dù có vật cản hay vật không cản, đều thấy rõ ràng,
thông suốt.
_ Thứ hai là thiên nhĩ thông, nghe được tất cả âm thanh lớn, nhỏ dù gần, hay xa.
_ Thứ ba là tha tâm thông, biết được tâm ý người đó đang suy nghĩ gì và muốn làm gì.
_ Thứ tư là thần túc thông, biến hoá lớn nhỏ tuỳ ý,
thăng thiên độn thổ, lên trời, xuống đất, tuỳ ý biến hoá vô
ngại.
_ Thứ năm là túc mạng thông, nhớ được vô số kiếp về
trước đang làm gì, ở đâu, và cuộc sống ra sao đều nhớ rõ giống
như người nhớ chuyện ngày hôm qua vậy.
Bốn vị ngoại đạo này đều biết trước còn bảy ngày nữa
là con quỷ vô thường đến đòi mạng, nên hợp lại cùng nhau bàn
cách trốn tránh và đến trình với vua Ba Tư Nặc, qua bảy ngày
sau sẽ trở lại thăm vua.
Vị thứ nhất dùng thần thông bay lên núp trên đám mây xanh,
người thứ hai dùng thần thông chui sâu vào lòng núi, vị thứ ba
dùng thần thông chui xuống biển sâu, vị thứ tư dùng thần thông
chui vào lòng đất. Thế là bốn vị yên trí rằng, mình sẽ trốn
được con quỷ vô thường và tin chắc là như vậy; nhưng đến giờ
thần chết đến, vị trốn vào hư không từ mây rớt xuống nát thây,
vị thứ hai bị đá đè bẹp dúm, vị thứ ba bị chết ngộp dưới
nước, khi nổi lên bị sóng xô vào bờ, vị thứ tư ở trong lòng
đất, bị đất sụp chôn vùi thân xác.
Đây là quy luật tất yếu từ ngàn xưa cho đến nay, dù có
tu luyện đến mức độ nào như bốn vị ngoại đạo ấy, tuy chứng
được ngũ thông, nhưng cũng không thể nào trốn tránh được cái
chết. Do đó, sự ra đời của đạo Phật đã giúp ích cho nhân loại
thấu suốt được nguyên lý vô thường, để mỗi người chúng ta tự
tỉnh thức, đừng lầm chấp cái gì cũng là thường còn mãi mãi,
để rồi gây thù, chuốt oán cho nhau, mà làm khổ đau cho nhân
loại.
Từ quan niệm sai lầm đó, một số người cứ mãi đam mê, say
đắm trong lạc thú trần gian, cố chấp bảo rằng, cuộc sống này là
trường tồn mãi mãi, cho nên mặc tình gây tạo nhiều tội lỗi,
đến khi phước hết, họa đến, ngồi đó mà than phân, trách phận, đổ thừa
tại-bị-thì-là. Cũng nhờ vô thường đổi thay, nên chúng ta mới tu
được; xưa là đồng hoang cỏ cháy, nay là mái chùa thân yêu thắm
đượm tình người.
Nhờ vô thường mà mọi sự vật mới phát triển và đổi thay,
nhờ vô thường mà chúng ta mới tu được; nếu mọi thứ đều cố
định như quan niệm của thời xa xưa: trời chết sanh trời, người
chết sanh người, thú vật chết sanh thú vật, thì chúng ta tu
hành đâu có lợi ích gì?
Tâm tham-sân-si của con người cũng vô thường, nên chúng ta
mới có thể thay đổi được; mình có thể chuyển xấu thành tốt,
chuyển mê thành ngộ; không có một cái gì trên đời này mà cố
định cả, tất cả mọi hiện tượng, sự vật là một dòng chuyển biến
liên tục, thay đổi đến không thể ngờ.
Một Thiền sư Việt Nam sau khi ngộ đạo đã nói về thân này như sau:
Thân như bóng chớp có rồi không,
Cây cỏ xuân tươi thu héo tàn,
Mặc cuộc thịnh suy không sợ hãi,
Thịnh suy ngọn cỏ hạt sương đông.
Đời người dài lắm cũng đến trăm năm là cùng, như một
giấc mộng dài, mới hôm nào ta còn bé nhỏ vui đùa, chạy nhảy
hồn nhiên, nay đầu tóc đã bạc phơ, lưng còng, gối mỏi, chân dùn.
Đời sống con người là như thế, mới qua thời tuổi trẻ mà giờ đây
đã thấy già nua.
Còn vạn vật thì sao? Bốn mùa thay đổi, Xuân, Hạ, Thu,
Đông, mới thấy cành hoa đẹp, giờ đã tàn. Thật đúng với câu
“phù dung sớm nở tối tàn”. Cuộc đời là như vậy, luôn biến
chuyển đổi thay, biết được như thế, chúng ta sẽ không còn bất
an, sợ hãi trước bao nỗi thăng trầm của kiếp nhân sinh.
Có thịnh ắt có suy, có sinh ắt có tử, sống chết là lẽ
đương nhiên, có gì phải lo, phải sợ, bởi thấy được như vậy,
nên các vị Thiền sư luôn tự tại trước nỗi sống chết vô thường,
“sanh như đắp chăn bông, tử như cởi áo hạ.” Sống chết là lẽ đương
nhiên, là sự thường tình của thế gian, điều quan trọng là khi
sống, ta làm được việc gì đó thật sự có lợi ích thiết thực cho
nhân loại hay không.
Đây là điều thiết yếu quan trọng mà người con Phật cần suy
nghĩ cho thấu đáo về cuộc sống của mình, ta luôn phải thăng hoa
trên bước đường tu tập, mang lại niềm an vui, hạnh phúc cho mình
và người. Sau đây, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về sự vô thường của
tâm.
TÂM VÔ THƯỜNG
Trước khi đi sâu vào tâm vô thường, chúng ta cũng cần tìm
hiểu, xác thân này do đâu mà có? Phải chăng do ta điên đảo vọng
tưởng mà có thân này? Đức Phật đã chỉ rõ, con người do vô minh
vọng động, bám víu trần cảnh, tham đắm sắc dục, chạy theo
gió nghiệp thức, chấp chặt vào đó, tạo ra ý thức hệ, nên nỗi
khổ, niềm đau bắt đầu có mặt.
Chính vì vậy, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về tâm vô
thường. Nói về tâm thì ai cũng cho rằng, cái hay suy tư, nghĩ
tưởng là tâm mình, nhưng nhìn kỹ lại thì tâm suy nghĩ đó khi
có, khi không. Bình thường thì tâm hay suy tư, nghĩ tưởng lăng xăng
đó lúc nào cũng quấy rầy chúng ta, nhưng khi nhìn lại, tìm kiếm
chúng thì không thấy đâu. Bởi tâm luôn thay đổi và biến dạng, khi
thì buồn thương, giận ghét, buổi sáng nghĩ chuyện này, buổi
chiều nghĩ chuyện kia, lúc nhớ về quá khứ, khi nghĩ đến tương
lai, còn hiện tại thì bồn chồn, lo lắng, tính toán đủ thứ, cho
nên không được yên.
Vì thế, đức Phật gọi “tâm viên ý mã” là vậy, nó giống
như con khỉ chuyển cành, hay con ngựa chạy rong. Như hai vợ
chồng nọ sống với nhau rất hạnh phúc, được ba mặt con, hai vợ
chồng gây cãi nhau suốt ngày không thể nào khuyên can; mặc dù đã
được ban tư vấn hôn nhân hạnh phúc gia đình nhiều lần hoà giải,
nhưng hai vợ chồng vẫn nhất quyết ly hôn.
Trước lúc xa nhau, người vợ hỏi ba đứa con, “nay ba mẹ
không thể sống cùng nhau được, các con bây giờ muốn theo mẹ hay
cha?”
Đứa con thứ nhất nói “con theo mẹ”. Đứa con thứ hai cũng
nói “theo mẹ”, đến thằng cu Tí nhỏ nhất chẳng chờ mẹ hỏi,
nó nói “con theo mẹ à”. Nghe đến đây, người chồng liền nói, “ba
đứa tụi nó theo bà thì tôi cũng theo em luôn”.
Bởi tâm con người luôn thay đổi, khi thì suy nghĩ chuyện
này, lúc lại suy nghĩ chuyện kia, không bao giờ ngừng nghỉ. Như hai
vợ chồng nọ, ai cũng muốn mình có quyền quyết định mọi thứ
trong nhà, chẳng ai nhường nhịn ai. Làm chồng thì có nghiệp
của người nam, làm vợ thì có nghiệp của người nữ, không ai giống
ai, vì nghiệp của người nam và nữ khác nhau, ta không thể buộc mọi
người theo ý riêng của mình.
Vì vậy, vợ chồng cần phải biết thông cảm và tha thứ
lẫn nhau, ai cũng có tốt, có xấu lẫn lộn, ta chỉ một bề tận dụng
cái tốt cho nhau. Nhìn chung, từ cuộc sống cá nhân, gia đình, cho
đến quan hệ xã hội, không thể có khuôn mẫu giống nhau được.
Người nam thì lúc nào cũng cứng rắn, mạnh mẽ, còn người nữ thì
yếu mềm, dịu dàng; do đó, nam và nữ gặp nhau rất khó mà hòa
hợp với nhau được.
Khi hình thành một gia đình, một bên cương, một bên nhu
và bất đồng như vậy, nên muốn hoà hợp, tạo hạnh phúc, không
phải là chuyện dễ dàng. Theo lời Phật dạy, cả hai vợ chồng
cần phải biết thông cảm, tha thứ cho nhau, chồng nói vợ nghe,
vợ khuyên chồng biết hối cải thì mới được, chứ vợ chồng không
chịu nhường nhịn lẫn nhau, cứ ngấm ngầm bất đồng quan điểm,
cho đến khi “tức nước vỡ bờ”, dẫn đến ly thân, ly dị là điều
không tránh khỏi.
Như vậy, con người sống trong thế gian không thể có hạnh
phúc tuyệt đối. Vậy mà ai cũng đòi được an vui, hạnh phúc, mà
chúng ta không chịu nhường nhịn nhau. Tâm con người lúc nào cũng
tham muốn đủ thứ, lúc thì muốn cái này, khi thì muốn cái kia.
Người nam thường quan niệm rằng, mình là trụ cột gia
đình, vợ chỉ là người tuân theo, nếu không làm theo đúng ý mình
thì chửi mắng, hành hạ, đánh đập. Bởi vì người nam thường cho
rằng, mình là phái mạnh, là trụ cột gia đình, có quyền quyết
định tất cả theo quan niệm khi xưa của thời phong kiến, “chồng chúa
vợ tôi”.
Đó là nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình, gây đau khổ và
làm tan vỡ hạnh phúc. Vì vậy, sống trong cõi đời này, chúng ta
phải biết tu tập để thấy rõ được nguyên nhân sâu xa của nó, cố gắng
vượt qua những bất hạnh, khổ đau do hai vợ chồng không biết thông cảm
và tha thứ cho nhau. Trong cuộc sống hiện tại của một số gia đình,
tuy dường như thấy hạnh phúc, nhưng hạnh phúc trong gượng gạo,
không phải là thứ hạnh phúc chân thật và lâu bền.
Do đó, để tạo được hạnh phúc thật sự trong cuộc sống
gia đình, mọi người phải biết nhường nhịn lẫn nhau, chồng nói vợ
nghe, chồng giận vợ nhịn, vợ khuyên thì chồng phải biết hối
cải, mỗi người phải biết cảm thông, bao dung và tha thứ. Cho nên,
ca dao Việt Nam có câu:
Chồng giận thì vợ bớt lời,
Cơm sôi, bớt lửa, mấy đời cơm khê.
Nhân duyên nói về tâm vô thường, tôi kể câu chuyện trên để
chúng ta cùng nhau suy ngẫm lời Phật dạy. Tâm con người luôn thay
đổi và biến dạng, không lúc nào ngừng nghỉ; vì vậy chúng ta
phải khéo tu, nhờ tu mà mình dễ dàng cảm thông và tha thứ cho
nhau.
Như trường hợp hai vợ chồng trong câu chuyện trên, đã
quyết chí ly hôn dù nhiều người khuyên nhủ, cả hai người vẫn
khăng khăng trước sau như một, nhất quyết ra toà ly dị, nhưng khi
người vợ hỏi mấy đứa con theo ai, ba đứa đều trả lời theo mẹ.
Lúc đó, người chồng nghe ba đứa con nói vậy nên chìu theo ý mấy
đứa con, “chúng nó theo bà, thì tôi cũng theo em luôn.” Thế là
từ đó về sau, hai vợ chồng chung sống với nhau rất hoà thuận và
hạnh phúc, nhờ biết cảm thông và nhường nhịn lẫn nhau.
Cũng nhờ tâm con người vô thường, luôn thay đổi, chúng ta
mới tu được, mới chuyển hóa được những ý nghĩ xấu xa, hại người
vật, thay vào đó là những tâm tư thiện lành, tốt đẹp, có tính cách
giúp đỡ, an ủi nhau. Trong kinh Phật dạy rằng, “tâm phàm phu cứ
lén lút đi một mình, rất xa, vô hình dạng, như ẩn náu hang sâu,
nếu điều phục được tâm thì thoát khỏi khổ đau, mê lầm từ muôn
kiếp.”
Có một chú tiểu xuất gia với thầy mình, nguyên là cậu
ruột ngoài đời, vị thầy này đã chứng quả A-La-Hán. Một hôm,
chú tiểu được thí chủ cúng dường cho hai xấp vải. Chú mừng
quá, nhanh chân đi về chùa để cúng dường lại cho thầy, nhưng
chú năn nỉ mãi mà thầy vẫn không nhận, buồn quá, chú nản chí,
không muốn tu tập nữa.
Hôm nọ, chú đang đứng quạt hầu thầy, trong lòng vẫn còn
buồn về chuyện thầy không chịu nhận hai xấp vải, chú mơ màng
để tư tưởng trở về với dòng đời: Mình mồ côi cha mẹ từ thuở
nhỏ, chỉ có cậu là người thân yêu duy nhất, nay là thầy mình,
vậy mà thầy không thương tưởng, đoái hoài đến mình, thôi thì mình
không theo thầy tu học nữa, mình ra đời gầy dựng sự nghiệp thế gian
cho rồi. Nhưng ra đời rồi phải làm gì để sống đây?
Chú cứ miên man trong dòng suy tư, nghĩ tưởng, mà lòng
càng thêm buồn rầu, lo lắng, bất an. Đang lúc mơ mộng chạy theo dòng
suy tư, nghĩ tưởng, bỗng nhiên chú loé lên một vấn đề:À đúng rồi,
hay là mình đem hai xấp vải này ra chợ bán đi, lấy tiền mua một
con bò cái về nuôi, bò chỉ ăn cỏ ngoài đồng, không tốn tiền
mua thức ăn cho nó, còn mình hằng ngày chỉ việc dẫn bò đi ăn.
Sống như thế thật là sung sướng và hạnh phúc làm sao? Bò thì mỗi năm
sanh một con, đến chừng tám năm sau, mình có thêm một đàn bò
chừng hơn chục con. Thế thì tốt quá, rồi mình sẽ bán hết số bò
đó, chỉ chừa lại một con nuôi tiếp, còn lại bao nhiêu mình mua
nhà cửa, đất đai, ruộng vườn. Khi đó, mình sẽ là ông chủ một
gia tài đồ sộ, và sẽ cưới một cô vợ trẻ xinh đẹp. Sau khi đứa
con đầu lòng được sinh ra đời, mình sẽ dẫn vợ con về thăm thầy,
cho quy y làm đệ tử Phật.
Nghĩ như thế xong, trong lòng chú tiểu mừng vô hạn, bỗng
dưng cô vợ trượt chân té, thằng bé đang bồng trên tay kháu khỉnh
rơi xuống đất, khóc bù lu bù loa, tức quá, không kìm hãm được
cơn giận, chú sẵn trên tay cầm cây quạt khỏ lên đầu vợ liền
mấy cái, đã bảo mà, đi không nhìn trước ngó sau gì hết, để con
bị té như vậy, đàn bà gì mà không ý tứ chút nào”.
Bỗng nhiên, chú nghe một giọng nói điềm đạm, “con đang gõ lên đầu thầy, con có thấy không?”
Giật mình, chú tiểu tỉnh lại giấc chiêm bao mà sám hối xin thầy tha thứ tội lỗi.
Câu chuyện trên đã nói lên tâm ý của con người lúc nào
cũng toan tính, tham muốn đủ thứ, suy nghĩ hết chuyện này lại đến
chuyện kia; vì chúng ta cho rằng tâm này là ta, là mình, nên ta nói, ta
suy nghĩ đủ thứ. Chú tiểu đang đứng hầu thầy mà tâm tư cứ tưởng
nghĩ đâu đâu, chẳng khác nào loài vượn khỉ đang chuyển cành. Cho
nên, Phật dạy, tâm suy tư nghĩ tưởng là vô thường không thật có, khi
ta nhìn lại thì thấy nó mất tiêu.
Bởi tâm ý con người vô thường thay đổi, nên mình mới tu được;
còn nếu tâm con người không thay đổi được thì trước sau như một,
làm sao mình tu tập được và cũng chẳng cần tu để làm gì? Vì có tu
nó cũng như vậy, không thể thay đổi được, chúng ta vẫn suốt đời,
suốt kiếp sống trong vô minh, phiền não mà thôi.
Trong cuộc sống, chúng ta ít nhiều ai cũng có thể cảm
nhận được rằng, tâm này là vô thường. Cho nên, vua Trần Thái
Tông, một vị Thiền sư đời nhà Trần, Việt Nam nói về tâm suy
nghĩ như sau: Nghiệp căn ý là nghĩ vơ nghĩ vẩn, không lúc nào
dừng, mắc mứu tình trần, kẹt tâm chấp tướng như tằm kéo kén,
càng buộc càng bền, như bướm lao đèn, tự thiêu tự đốt.
Chúng ta ai cũng nghĩ hết chuyện này đến chuyện nọ,
nào là buồn, thương, giận, ghét, khen chê, đúng sai, phải quấy,
tốt xấu, lo lắng đủ thứ, khi thì điên đảo vọng tưởng, nghĩ mình
là trung tâm của vũ trụ, nên khi có quyền hành trong tay thì
muốn” bình thiên hạ”, do đó vua Trần Thái Tông mới nói:
Nghĩ vơ nghĩ vẫn, không lúc nào dừng.
Tâm đã suy nghĩ lăng xăng, còn cho mình là ta, là tôi,
nên dính mắc, chấp trước vào đó, và còn cho rằng cái hay suy nghĩ
của mình là nhất thiên hạ. Đôi khi, chúng ta suy tư, nghĩ tưởng
muốn vỡ tung cái đầu, mà vẫn cứ suy nghĩ hoài không để nó yên;
đó là ta tự chuốt hoạ vào thân như con tằm kéo kén, càng buộc
càng bền, rồi rốt cuộc rồi bị người ta cho vào nồi nước sôi.
Cái hay suy nghĩ, tính toán, phân biệt hơn thua đủ thứ hết
luôn thay đổi trong từng phút giây, mới vừa buồn khóc đó, chưa ráo
nước mắt liền vui vẻ khi gặp người thân, mới giận liền thương. Trong
một ngày, có hàng trăm cái hay suy nghĩ như vậy, có khi nghĩ
điều thiện lành, tốt đẹp như Phật, có lúc nghĩ điều xấu, ác
giống như cọp sói.
Tâm niệm của chúng ta lúc nào cũng luôn thay đổi không
dừng, vì thế đức Phật mới nói, tâm suy tư nghĩ tưởng là vô
thường, đã vô thường mà cứ nhận lầm mình là ta, là tôi; từ
đó, ai không đồng quan điểm với mình thì chống đối lẫn nhau,
dẫn đến thù hằn, ghét bỏ, rồi tìm cách giết hại nhau.
Phật dạy, “chúng ta thấy rõ tâm vô thường để mọi người
đồng cảm thông với nhau, ai cũng có cái suy nghĩ riêng của
mình, nên không ai giống ai. Do suy nghĩ và quan niệm không hợp nhau,
sinh ra oán giận, thù hận và chống đối lẫn nhau. Trong gia đình, con
cái không biết kính trên nhường dưới, vợ chồng không vui vẻ, hoà
thuận, chỉ vì chấp trước cho rằng tư tưởng của mình là đúng,
không ai nhường nhịn ai.
Chúng ta vẫn biết, tâm vô thường không phải là gươm đao hay
súng đạn, nhưng nó có thể giết chết mình vì bất đồng quan
điểm, giết chết mình trong từng ý niệm. Một ý nghĩ vừa dấy lên,
muốn lấy trộm đồ của người khác, nếu ta không biết kịp thời ngăn dừng,
thì bao tai họa sẽ bắt đầu ập đến bởi tâm tham lam của mình.
Chính vì vậy, người Phật tử chân chính phải biết tu ngay nơi ý
nghĩ ban đầu vừa mới chớm lên, để chuyển hoá chúng trở về bản thể
ban đầu. Chúng ta chỉ cần điều phục ngay nơi tâm ý của mình, bằng cách
nghĩ điều có lợi cho người và vật, nên duy trì và tiếp tục phát huy.
Những suy nghĩ làm tổn hại cho người vật thì mình tìm cách chuyển
hóa, không cho chúng phát sinh; tu như vậy thì mọi người sẽ được bình
yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ, khỏi mong cầu đâu xa.
TỰ TẠI KHI BIẾT VÔ THƯỜNG
Trên đời này, không có gì hạnh phúc cho
bằng khi ta đang đứng trước lằn tên, mũi đạn, mà vẫn bình tĩnh,
an nhiên, tự tại. Một vị Thiền sư đã nói trước lúc ngài bị
hành hình:
Đưa đầu kề gươm bén,
Giống như chém gió xuân.
Chúng ta thấy, vị Thiền sư đó quá ư là hạnh phúc. Đứng
trước cái chết sờ sờ trước mặt mà Thiền sư vẫn bình tĩnh, ung
dung, coi như chẳng có chuyện gì xảy ra. Nếu ai sống được như vậy
thì có gì phải lo lắng và sợ hãi, dù cho tám gió thổi tới cũng không
làm gì được Thiền sư, vì Ngài đã như như bất động.
Cư sĩ Bàng Long Uẩn trước kia làm quan theo nghiệp nho, sau
có dịp tham cầu Phật pháp, liễu ngộ sự vô thường của cuộc
sống, nên ngài quyết chí tu hành cầu giác ngộ, giải thoát, ngài
sống một đời rất đơn giản và thanh bần.
Ông có một vợ và hai đứa con, một trai, một gái. Sau khi
đốn ngộ lý nhiệm mầu của Phật pháp không ngoài thân này, không
tìm cầu đâu xa, ông trở về nhà, đem hết tài sản, của cải đổ
xuống sông Tương, hằng ngày cùng cô con gái chẻ tre, đan sọt mang
ra chợ bán. Vợ ông cùng đứa con trai để lại chút đất làm
ruộng nuôi thân qua ngày, không màng đến công danh sự nghiệp. Cho
nên, thế gian có bài thơ khen tặng và ca ngợi gia đình ông như sau:
Có con trai không cưới vợ,
Có con gái không lấy chồng,
Cả nhà đều sống hoà hợp,
Cùng nhau nói lời vô sanh.
Đúng là chuyện khó tin nhưng mà có thật, hiếm thấy trong cuộc
đời này, ít có gia đình nào mà cả nhà đều rũ bỏ hết danh
lợi, sống đời thanh bần, trong sạch, đem giáo lý giác ngộ, giải
thoát ứng dụng vào đời sống hàng ngày mà làm gương cho hậu
thế. Người đời vì không biết, nên tham lam, sân hận, si mê, cái
gì cũng muốn giành lấy về cho riêng mình, sẵn sàng tán tận
lương tâm, làm điều xằng bậy, không biết nhân quả, nghiệp báo,
tội phước là gì.
Bàng Long Uẩn là một ông quan có quyền thế, danh lợi đầy
đủ, mà lại dám bỏ hết tất cả để sống đời đơn giản, thanh bần,
trong sạch, và còn hướng dẫn cho cả gia đình cùng tu theo. Cho nên,
có con trai không cho lấy vợ, có con gái không cho lấy chồng, để cùng
nhau sống đời giác ngộ, giải thoát.
Nhiều người ở thế gian vì tiếc nuối tài sản, của cải, nên
nói rằng, “tại sao ông không đem tài sản đó để bố thí, giúp đỡ nhiều
người khác, mà đổ hết xuống sông Tương như vậy quá phí phạm, trong
khi nhiều người rất cần nó vì đang thiếu thốn, khó khăn?” Việc
này, chúng ta phải hiểu theo ý sâu xa của nó, khi con người sống
với bản tâm chân thật thì không màng đến danh lợi, của cải vật
chất, vì nó là nguyên nhân dẫn đến mọi khổ đau trong cuộc
đời.
Đến khi sắp tịch, ông bảo cô Linh Chiếu-con gái của ông ra
xem thử mặt trời đúng ngọ chưa, rồi vào cho ông hay. Linh Chiếu ra
xem, vào thưa, “mặt trời đúng ngọ, nhưng có nguyệt thực”. Ông ra
cửa xem. Linh Chiếu lên toà của ông ngồi kiết già, chấp tay thị
tịch. Ông vào xem thấy, cười nói, “con gái ta lanh lợi quá!”
Ông bèn chậm lại bảy ngày sau. Châu mục Vu Công đến thăm bệnh
ông. Ông bảo, “chỉ mong các cái có đều không, dè dặt các cái
không đều thật, khéo ở thế gian đều như bóng vang”. Nói xong,
ông nằm gác đầu trên gối Vu Công mà thị tịch. Tin ông tịch đưa
về nhà cho bà hay. Bà nói, “con gái ngu si và ông già vô tri
không báo tin mà đi, sao lại ngớ ngẩn vậy?” Bà ra báo tin cho con
trai đang làm ruộng biết, “ba con và Linh Chiếu đi rồi”.
Người con trai đáp, “dạ, con biết rồi”, rồi đứng lặng thinh
giây lâu, liền tịch tại chỗ. Bà nói, “lại thêm một thằng ngu
si nữa”. Lo mai táng con xong, bà từ biệt họ hàng thân thuộc rồi
biệt tích luôn, không ai biết bà đi về đâu.
Đây là một câu chuyện hy hữu, hiếm có từ trước đến nay, có
thật trong Thiền sử Trung Hoa, gia đình cư sĩ Bàng Long Uẩn là
một tấm gương sáng chói, đáng để cho chúng ta học tập và noi
theo. Sau khi thấu suốt lý vô thường, ông quyết chí cầu đạo giác
ngộ và giải thoát., nhưng dưới hình thức là một người cư sĩ tại
gia, nhưng tâm hạnh thì của người xuất gia. Cốt chuyện này nói lên
tinh thần bình đẳng trong tu tập, người tại gia vẫn có phần giác ngộ
giải thoát nếu tu đúng lời Phật dạy, bởi ai cũng có tính biết sáng suốt
ngay nơi thân này, chỉ cần chúng ta quyết chí là được.
Như ở Việt Nam, chúng ta vẫn có Ngài Tuệ Trung thượng sĩ đó,
trước lúc ra đi vẫn an nhiên tự tại, để ta thấy mọi người đều có phần,
chỉ vì chúng ta chẳng chịu thừa nhận mà thôi. Muốn được như vậy, ông
phải bỏ hết tất cả tài sản, của cải, vật chất, không còn bận
tâm, vướng mắc, sống đời đơn giản để dễ dàng tu hành. Nhờ vậy,
cả gia đình ông đều ngộ đạo, làm chủ được sự sống chết,
bình thản ra đi một cách an nhiên, tự tại.
Thưa quý thiện hữu tri thức, chúng ta học những lời Phật
dạy, ai cũng biết thân và tâm đều vô thường, còn hoàn cảnh và
vạn vật có vô thường hay không? - Cũng vô thường.
HOÀN CẢNH VÔ THƯỜNG
Đức Phật dạy, “mọi hiện tượng, sự vật đều
tương quan mật thiết, nương nhờ lẫn nhau, cho nên, cái này có thì
cái kia có, cái này không thì cái kia không, cái này sinh thì
cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt. Tất cả các pháp có
hình tướng trên thế gian này đều do nhân duyên sanh, nên hoàn cảnh
sự vật cũng đều đổi thay vô thường.
Lớn như quả địa cầu chúng ta đang sống, dù nó có trụ
hàng tỉ tỉ năm, nhưng đến một lúc nào đó, nó cũng sẽ hoại
diệt, nên Phật nói, “thành-trụ-hoại-không” là vậy.
Kính thưa quý vị, hoàn cảnh, tức là những sự vật có mặt
trong bầu vũ trụ bao la này như trời, đất, trăng, sao, đủ các
thứ thiên hình, vạn trạng, cho đến vật nhỏ nhất như hạt cát,
hạt bụi, cũng đều bị sự vô thường chi phối, đổi thay.
Mới xưa kia là lầu cát nguy nga, tráng lệ, mà nay là biển
cả mênh mông, xưa là rừng hoang vắng vẻ, nay thì phố xá, chợ búa
đông đúc; đó là lẽ đương nhiên thường tình của thế gian. Do hoàn
cảnh, sự vật luôn thay đổi, biến dạng, tuỳ theo nhân duyên thuận
nghịch, không có gì là cố định, nên nói hoàn cảnh chúng ta đang
sống là vô thường.
Ai cũng biết, con người phải chịu sự chi phối của
sinh-già-bệnh-chết, nên gọi là vô thường; còn các vật thể lớn
như trời, đất, trăng, sao có chịu sự chi phối của luật vô thường
hay không?
Trong Kinh Kim Cang nói, “phàm cái gì có hình tướng đều
hư hoại”. Chính núi sông cũng có lớn, có nhỏ, khi lỡ, khi bồi,
rồi thời gian, khí hậu bốn mùa thay đổi, sớm nắng, chiều mưa;
mùa nắng thì cây cối ủ rủ, cằn cỗi, héo tàn; mùa mưa thì cây
cối xanh tươi, nẩy nở; và thời gian cứ như thế trôi qua nhanh
chóng, trên thế gian này không có một thứ gì là cố định; nhưng
chúng ta cứ mãi chấp chặt vào đó, cho rằng cái gì cũng thường
còn vĩnh viễn, để khi mất mát thì sanh tâm tiếc nuối, khổ đau.
Tóm lại, chúng ta học đạo lý vô thường để không sanh tâm
cống cao, ngã mạn lúc thành công, không bi quan, chán nản khi
thất bại, mà biết nhìn nhận đúng lẽ thật cuộc đời để mình
sống tốt hơn. Thân của chúng ta cũng phải già-bệnh-chết, mình
cũng đâu thể cưỡng lại được, vì bản chất của nó là không thật có,
nên gọi là vô thường; còn cái gì thường thì trước sau như một, nguyên vẹn, không bao giờ thay đổi.
Do chúng ta chấp thân này là thật, nên mới thấy nó cao
quý, lâu dài, cố bám víu, đắm say, đam mê, tham lam, giành giựt
vì nó. Bởi chúng ta si mê, chấp thân này là thường, tưởng nó
là thật, nên mình sanh lòng tham lam, giành lấy mọi thứ về cho
riêng mình, mà hễ tham được thì càng thêm tham, tham không được
thì sanh ra oán ghét, hận thù, chờ cơ hội trả đũa.
Trên cõi đời này, người nào nhận rõ được thân này là vô
thường thì ít sanh lòng tham lam, ích kỷ, cho đến khi
già-bệnh-chết không lo lắng, sợ hãi, không luyến tiếc một thứ gì.
Do đó, khi sống người ấy được bình yên, hạnh phúc, đến khi chết vẫn
bình thản, an nhiên, tự tại ra đi.
Đức Phật chỉ dạy đạo lý vô thường để giúp chúng ta ý
thức được cái gì có hình tướng đều hư hoại mà cố gắng tu hành,
vượt qua nỗi khổ, niềm đau, biết gầy dựng cuộc sống tốt đẹp ngay
tại đây và bây giờ; và cũng nhờ vô thường nên con người cho
đến các loài vật mới đổi thay và phát triển sao cho phù hợp
với cuộc sống hiện tại.
ÔNG GIÀ VÔ THƯỜNG
Có một ông già nọ tuổi đã già, nhưng hàng ngày vẫn
phải làm lụng vất vả để nuôi thân. Một hôm, sau khi vào rừng
đốn củi mang về, vì đường sá xa xôi, lại phải vác nặng, nên ông
cụ kiệt sức giữa đường. Ông đặt bó củi xuống đất rồi ngồi than
thở một mình, “khổ cho thân già tui quá trời! Đến từng tuổi này mà còn
gian nan, vất vả quá chừng! Giá mà bây giờ thần chết đến rước mình
đi thì hay biết mấy! Mình muốn bỏ quách cái thân già khốn khổ
này đi cho rồi”.
Ông nói vừa dứt lời, vị thần chết xuất hiện ngay, “ta là
thần chết đây, ông lão cần gì, ta sẽ giúp cho ông được toại
nguyện?” Ông già nghe nói vậy, sợ quá, run lên cằm cặp nói, “dạ, kính
lạy thần chết! Xin ngài nhấc hộ dùm bó củi lên vai để lão vác
về kẻo trời tối”.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy con người khi khổ quá
thì muốn chết, doạ chết, đòi chết, trối chết, nhưng đến khi
cái chết đến gần thì sợ hãi, không muốn chết. Ông già tiều
phu kia cũng vậy, lúc thấy mình quá khổ, phát sinh ý chết
quách để hết khổ, thân xác khỏi phải nhọc nhằn, nhưng khi thần
chết hiện ra thì ông hoảng hồn, sợ chết, muốn đặt gánh củi
lên vai và cảm thấy việc gánh củi về nhà là điều hạnh phúc
nhất.
SỐNG CÓ ÍCH VÌ BIẾT VÔ THƯỜNG
Đức Phật dạy chúng ta hiểu được lý vô thường, mục đích
là để ta biết sống có bổn phận và dám chịu trách nhiệm về mọi
hành vi tạo tác của mình đối với gia đình, xã hội, không bi quan,
không yếm thế, không chán nản, không buồn lo trước cuộc sống
tạm bợ, mong manh này.
Cũng bởi kiếp người vốn vô thường, ngắn ngủi, mong manh,
nên trong Khế Kinh có kể rằng: Có một người chuyên làm việc
ác, khi chết bị quỷ sứ bắt vong hồn dẫn đến trình vua Diêm
Vương. Vua hỏi, “ở trần gian, sao ngươi không làm việc thiện mà
hay làm việc ác như vậy, để bây giờ bị đoạ xuống đây chịu
hành hình?” Vong hồn ấy trả lời, “thưa Diêm chúa, ở trần gian
chúng tôi, nhà nước muốn làm việc gì còn phải thông báo trước,
tại sao ở Âm phủ, Ngài bắt người chết đột ngột thế này, thử
hỏi làm sao tôi làm việc thiện cho kịp được?” “ngươi ở trần
gian có thường thấy người già, người bệnh, người chết hay
không?” “Dạ thưa có.” “Đó là những thông điệp mà ta đã báo
trước cho người trần gian biết rồi đấy, ngươi có thấy trên đời
này có ai không phải già-bệnh-chết không?” “Dạ thưa không.” “Vậy
tại sao ngươi không lo tu tập, lo làm việc thiện, để bây giờ bị
giải xuống đây rồi ngươi lại cãi chày, cãi cối với ta?”
Lúc bấy giờ, một vong hồn trẻ tuổi ngồi bên cạnh liền
lên tiếng phản đối Diêm Vương, “dạ thưa Ngài, tôi không chịu đâu,
Ngài thật là không công bằng chút nào; đối với ông già kia,
Ngài đã gửi nhiều thông điệp cho ông ta, còn tôi Ngài chưa hề
gửi cho một thông điệp nào mà bắt tôi xuống đây, thật oan uổng
cho tôi quá chừng!” Diêm chúa nghe vong hồn trẻ khiếu nại, liền
cười, “tại nhà ngươi không chịu mở mắt to ra mà thấy, chứ ta làm
việc rất công bằng, không bao giờ có chuyện thương người này, mà
ghét bỏ người kia. Ta lúc nào cũng có gửi tin báo trước cho
mọi người hay biết, tại nhà ngươi không chịu để ý đó thôi.” “Ngài
gửi thông báo lúc nào, sao tôi không thấy?” Diêm chúa mới cười
nói, “nhà ngươi có thấy đứa bé ở nhà đối diện với ngươi hay không?
Nó mới năm tuổi mà bị chết vì tai nạn giao thông đó! Còn ngươi
lớn tuổi hơn nó lẽ nào lại không chết. Ta lúc nào cũng công
bằng liêm chính, chí công vô tư, tại ngươi không chịu để ý, hoặc
ngươi thấy mà vẫn làm càn, làm bướng đó thôi”.
Đạo Phật dạy, mạng sống con người vốn vô thường, ngắn
ngủi, giống như ngọn đèn treo trước gió, có thể bị tắt đi bất
cứ lúc nào. Thân người cũng vậy, không phải ai cũng chờ đến
già, bệnh mới chết, mà mạng sống kết thúc bất cứ lúc nào
với muôn ngàn lý do, vì vậy mà có câu:
Chớ bảo đến già mới tu tập
Mồ hoang cũng lắm kẻ đầu xanh.
Hiểu được lý do vô thường của vạn vật để mỗi người
chúng ta cố gắng học hỏi và tu tập, đem tình yêu thương san sẻ
với muôn loài bằng trái tim hiểu biết. Chúng ta đừng quá say mê,
tham đắm vào xác thân này mà làm khổ luỵ cho nhau. Câu chuyện
trên cho ta một bài học đạo lý về mạng sống con người vốn vô
thường, tạm bợ. Quý vị nên nhớ rằng, sau khi chết không phải là
hết hay mất hẳn, mà chết chỉ là hình thức thay hình, đổi dạng
mà thôi, rồi tuỳ theo nghiệp báo tốt, xấu của mỗi người đã
gieo tạo trong hiện tại, mà cho ra kết quả trong tương lai.
Thế gian này không có gì là mất hẳn dù là hạt bụi, hạt
cát, chúng chỉ thay hình đổi dạng. Hiểu được lý vô thường để mọi
người chúng ta sống có ý nghĩa hơn, làm được nhiều điều thiện
lành, tốt đẹp, luôn sống có ích cho mình và người trong hiện tại
và mai sau.
Ai sống được như vậy, đến khi thần chết hiện đến, ta không
sợ hãi, hốt hoảng, mà bình thản ra đi với một hành trang tốt
đẹp; còn những thứ của thế gian như tiền tài, vàng bạc, nhà
cửa, mình đều bỏ lại, không mang theo được món nào, lúc ấy chỉ
có nghiệp báo tốt, xấu do ta tạo dựng lúc còn sống sẽ theo
mình suốt đời mà thôi. Biết được như vậy, lúc lâm chung ta sẽ an
lòng ra đi, không tiếc nuối bất cứ một thứ gì của thế gian,
kể cả sự sống.
NGHIỆP VÀ SỰ SỐNG
Tất cả mọi người, ai sinh ra trên cõi đời
này đều phải chịu sự chi phối của nghiệp. Người Phật tử mà
không hiểu rõ ràng, cặn kẽ về nghiệp báo, thì sự tu hành khó mà
đạt đến chỗ an lạc, giác ngộ và giải thoát. Vậy nghiệp là
gì mà Phật tử chúng ta cần phải hiểu để áp dụng trong đời
sống hằng ngày?
Nghiệp rất đa dạng, phức tạp và phong phú, bởi nghiệp
là sự kết tụ của những năng lực, những hành động được lặp
đi, lặp lại nhiều lần qua thân-miệng-ý, lâu ngày trở thành
thói quen; rồi thói quen đó có sức mạnh chi phối, dẫn dắt thần
thức chúng ta đi vào trong luân hồi sanh tử.
Tuy nghiệp rất đa dạng và phức tạp, không cố định như ta lầm
tưởng, do đó mình có thể thay đổi thông qua sự tinh cần tu tập,
hành trì những lời Phật dạy, chuyển nghiệp xấu thành nghiệp
tốt. Nghiệp gồm có cộng nghiệp và biệt nghiệp. Cộng nghiệp
là nghiệp chung của nhiều người, biệt nghiệp là nghiệp riêng
của từng người.
Nghiệp là thói quen huân tập lâu ngày thuần thục, tạo
thành sức mạnh, có khả năng chi phối mọi người sinh hoạt trong
cuộc sống hằng ngày. Ngay từ khi mở mắt chào đời, con người đã
chịu nghiệp nhân của quá khứ, dần dần khôn lớn, con người tiếp
tục tạo tác và huân tập thêm những nghiệp nhân mới.
Ai biết sống gần gũi những người hiền thiện, đạo đức, có
nhân cách và phẩm chất cao đẹp, hay làm những điều hay lẽ phải,
nhờ sống gần người hiền thiện nên mình cũng bắt chước làm người tốt
theo, và có thể giúp ích cho gia đình, xã hội, không vì quyền
lợi cá nhân.
Còn người hay sống gần gũi những kẻ xấu ác, bất lương,
bất thiện, lâu ngày sẽ bị tiêm nhiễm thói hư, tật xấu, tự làm
khổ mình, hại người, và sẽ bị mọi người khinh chê, xa lánh.
Cũng vậy, chúng ta sanh ra trong cuộc đời này, mỗi người
đều phải mang theo nghiệp riêng của mình. Vì thế, trong một gia
đình, nhiều người cùng sống chung với nhau, nhưng mỗi người chấp
giữ và làm theo nghiệp riêng của mình, nên không ai chịu thừa
nhận nghiệp riêng của người khác. Do đó, cha mẹ, vợ chồng, con cái,
anh em trong nhà không có sự hòa hợp với nhau là vậy đó, vì ta không
biết tôn trọng và nhường nhịn lẫn nhau.
Chính vì thế, trong một cộng đồng xã hội mới có sự tranh
chấp, cãi vã, xung đột, không chịu nhường nhịn, gây đau khổ,
bất hạnh cho nhau.Trong gia đình, người chồng huân tập nghiệp
của người nam, người vợ huân tập nghiệp của người nữ, hai
nghiệp này không giống nhau, đôi khi nghiệp của hai vợ chồng có
nhiều điểm sai biệt và tương đồng với nhau. Cho nên, có nhiều
cặp vợ chồng gây cãi, đánh đập với nhau hoài, chỉ vì người
nào cũng chấp cái lý lẽ, cái hành động của mình là đúng,
không chịu thông cảm, tha thứ cho nhau, để tạo nên bầu không khí
gia đình ấm êm, an lành, hạnh phúc.
Xưa có một gia đình nọ, người vợ biết lo làm ăn, tiết
kiệm, luôn tròn bổn phận người vợ đối với chồng, biết quan tâm,
lo lắng, chăm sóc cho con cái đàng hoàng. Ngược lại, người chồng
thì bê tha, biếng nhác, rượu chè, cờ bạc. Mỗi lần ông cờ bạc
bị thua, về nhà kiếm chuyện gây gỗ với bà, nếu vợ không đáp
ứng đủ các thứ cho ông, thì bị ông chửi mắng, đánh đập tàn
nhẫn. Người trong nhà và hàng xóm ai thấy cũng thương tâm, không
biết bà đã gieo tạo nghiệp nhân gì mà phải chịu quả báo như
thế. Mọi người thắc mắc tại sao bà lại không chịu ly dị, bà
nói vì bà vẫn còn thương chồng, nên bà không ly dị.
Bởi do mỗi người đều có nghiệp riêng của mình, không ai
giống ai. Kết nghĩa vợ chồng với nhau mà sống bất hạnh, khổ
đau như vậy là do hai người đã có tạo nghiệp ngang trái, nợ
nần với nhau, nên dù bị đánh đập, chửi mắng, đối xử với nhau
thậm tệ, mà người ta vẫn cứ thương nhau, không thể rời xa nhau
được.
Ai thấu hiểu được vấn đề nghiệp riêng này, họ sẽ dễ
dàng thông cảm và tha thứ cho nhau. Chỉ vì ta không thường xuyên
quán chiếu, hoặc thiếu tu hành, nên mới xảy ra nhiều điều bất
hạnh như thế. Do vậy, chúng ta thấy, nhiều người sinh ra trong
một gia đình, cùng cha, cùng mẹ, cùng ăn, cùng ở, cùng làm
việc, cùng học hành, thế mà mỗi người mang một tính khí khác
nhau. Sự sai biệt ấy là do nghiệp riêng của mỗi người tạo nên,
còn việc họ được sinh ra và chung sống trong một gia đình là
do họ cũng có một số nghiệp chung với nhau. Những người có
nghiệp duyên với nhau là do họ đã có cộng nghiệp với nhau từ
kiếp trước, nên đời này họ mới phải chịu chung một hoàn cảnh
nhất định nào đó.
NGHIỆP CHUNG VÀ NGHIỆP RIÊNG
Trong thời Phật còn tại thế, tại núi Linh Thứu, cùng
lúc có nhiều đoàn Tỳ kheo đi thiền hành. Đoàn thứ nhất đi theo
ngài Xá Lợi Phất, đoàn thứ hai đi theo ngài Mục Kiền Liên,
đoàn thứ ba đi theo ngài Phú Lâu Na, đoàn thứ tư đi theo ngài A
Na Luật, đoàn thứ năm đi theo ngài Đề Bà Đạt Đa… Khi thấy các
đoàn tỳ kheo hành thiền riêng biệt như vậy, đức Phật mới nói
rằng, “đoàn Tỳ kheo đi theo ngài Xá Lợi Phất có nghiệp chung
với Ngài, nên có trí tuệ đệ nhất. Đoàn Tỳ kheo đi theo ngài
Mục Kiền Liên có nghiệp chung là thần thông đệ nhất. Đoàn Tỳ
kheo đi theo ngài Phú Lâu Na có cộng nghiệp là thuyết pháp đệ
nhất. Đoàn Tỳ kheo đi theo ngài A Na Luật có nghiệp chung là
thiên nhãn đệ nhất. Đoàn Tỳ kheo đi theo ngài Đề Bà Đạt Đa có
nghiệp chung xấu ác, tranh giành, giết chóc, sau này dễ bị đoạ
lạc.
Tuy nhiên, không phải ai theo ngài Xá Lợi Phất là có trí
tuệ đệ nhất, mà cần phải có thời gian hành trì, học hỏi, vì
ai cũng có nghiệp riêng của mình, nên mức độ đạt được tuỳ
theo khả năng, không nhất định là ai cũng được như vậy.
Do đó, nghiệp cũng không cố định, có thể thay đổi được,
vì sao? Vì nghiệp từ thân-miệng-ý tạo tác mà thành, tuy có
tác ý nhưng không thật. Cái gốc của việc tạo nghiệp lành,
nghiệp ác không có thật, bởi do si mê, ngu muội, mà tạo tác
thành nghiệp dữ; nếu ta biết định tĩnh, sáng suốt, thì tạo
tác nên nghiệp lành.
Phật dạy, nghiệp là cái không thật, tuy biết nó không
thật, nhưng nếu si mê, để bị dính mắc nghiệp xấu ác, thì sẽ
thọ quả khổ đau không ai tránh khỏi, chỉ có người biết tu tập,
làm nhiều điều thiện lành thì quả xấu sẽ nhẹ hơn. Đối với
thế gian, người khôn ngoan có thể che giấu, trốn tránh tội lỗi,
nhưng đối với nghiệp báo thì ai tạo nghiệp gì thì phải chịu
quả ấy, không thể trốn tránh vào đâu được; vì khi tạo nghiệp
thì mắt thấy, tai nghe, thân thể cảm thọ, chủng từ nghiệp kết
tụ, lưu trữ vào tàng thức, chờ khi hội đủ nhân duyên thì
nghiệp sẽ trổ ra.
Có người cho rằng, thân này hành động tạo nghiệp thiện
hay ác, đến khi chết thì những hành động ấy đâu còn nữa, chỉ
còn lại cái xác nằm trơ, rồi thối rữa, rã tan, làm sao biết
được nghiệp ấy còn hay mất.
Đây là quan niệm hết sức sai lầm của không ít người lầm
chấp, cho rằng chết là hết, không có nhân quả, không có tội
phước, nên họ mặc tình hưởng thụ các dục lạc thế gian, tha hồ
gây tạo tội lỗi, có khi gây nên tội ác tày trời mà lòng không
chút ân hận. Chính cũng vì quan niệm sai lầm như vậy mà bản
thân tôi hơn nửa đời người đã gây ra biết bao lầm lỗi. Nhờ duyên
gặp được Tam Bảo, gặp được Phật pháp, gặp được bậc minh sư
chân chánh, tôi mới quay đầu làm lại cuộc đời, làm mới lại chính
mình. Nếu không nhờ Tam Bảo, nhờ Phật Pháp và minh sư chỉ
giáo, hôm nay tôi làm gì có cơ hội được chia sẻ cùng với quý
Phật tử ở đây.
Khoảng năm Mậu Thân (1968), lúc ấy tôi chỉ là một cậu
thiếu nhi mà đã biết hút thuốc, uống rượu, cờ bạc. Vậy cái
gì đã xuôi khiến, thúc giục tôi đi vào con đường hư hỏng, sa đoạ
quá sớm như vậy? Điều ấy trong nhà Phật gọi là tập nghiệp.
Tập nghiệp đời trước cộng với sở thích trong đời hiện tại đưa
đẩy chúng ta vào hố sâu tội lỗi.
Cho nên, ngay tại đây và bây giờ, quý vị đã có duyên được
đến chùa nghe pháp, tụng kinh, lễ Phật, sám hối, tức là quý
vị đã có hạt giống nghiệp lành với nhau từ nhiều đời trước rồi.
Nếu không, bây giờ quý vị đã ngồi ở nhà mở truyền hình xem
phim, hoặc đi chơi chỗ này, chỗ kia như bao người khác, chứ quý
vị đâu có muốn đến chùa nghe pháp, học Phật với nhau như thế
này. Đây đúng thật là một duyên lành hạnh phúc cho đời mình
trong hiện tại, và nó sẽ còn lưu giữ để duy trì tới kiếp sau.
Hiện tại, quý Phật tử đã có phước duyên thiện lành, tốt
đẹp rồi, quý vị hãy xem nó như một món ăn tinh thần, ráng mà
duy trì, ráng mà phát huy, lúc nào thiếu nó mà quý vị cảm
thấy khó chịu thì quý vị nên mừng, bởi vì quý vị đã huân tập
được một thói quen tốt. Trong nhà Phật thường nói, thân người
khó được, Phật pháp khó nghe. Ở đây, quý vị đã có được thân
người trọn vẹn, khoẻ mạnh, lại biết nghe Phật pháp, và còn biết
áp dụng Phật pháp để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh
phúc.
Trong kinh, Phật thường nói, “nghiệp theo ta như bóng với
hình, dù trải qua trăm kiếp, ngàn đời vẫn không bao giờ bị mất,
khi nào hội đủ nhân duyên thì quả báo tự nó hiện ra, không một
ai cưỡng lại hay làm sai lệch được”.
Có một thí dụ cụ thể cho chúng ta thấy nghiệp không bao
giờ mất. Có hai người khách qua sông, một người là thương gia
mua bán, mang theo nhiều tiền bạc, của cải; một người chuyên
nghề dạy học, chỉ mang chút ít sách vở và tiền lộ phí.
Thuyền qua đến giữa sông, bất thần bị chìm, hai người may mắn
được cứu và thoát chết, nhưng hành lý, tư trang, tiền bạc của
hai người đều bị dòng nước cuốn trôi mất hết. Cả hai người
đều trắng tay, riêng cái hiểu biết của nhà giáo dục không bị
mất mát chút nào. Vì sao? Vì kiến thức là cái chuyên môn đã
huân tập qua nhiều năm tháng, tức cái sở trường riêng của mỗi
người, còn gọi là nghề hay nghề nghiệp, nên nó không bị mất.
Do đó, quý Phật tử tại gia nên lưu ý, khi ta mới sinh ra
với hai bàn tay trắng, đến lúc chết đi cũng không mang được gì,
duy chỉ có nghiệp lành dữ, xấu tốt, là mình phải mang theo.
Lúc ấy, những người thân thương mình nhất như cha mẹ, anh em, vợ
chồng, con cái, bạn bè, không giúp gì cho ta được. Vì vậy, quý
vị cần nên thấy biết rõ ràng về nghiệp quả, để khi ta gặp
nhiều bất trắc, mình không quá đau khổ, bi lụy.
Và ta nên nhớ rằng, khi chúng ta đã tạo được nhiều nghiệp
lành, thì dù cho qua nhiều biến đổi, thân xác này chết đi, tan
rã thành cát bụi, nhưng nghiệp thức tốt đó vẫn còn, không mất.
Khi chúng ta rời bỏ sự sống, bỏ lại thế gian tất cả gia tài,
sự nghiệp, vợ chồng, con cái, họ hàng, thân tộc, bạn bè thân
hữu, mình chỉ mang theo nghiệp lành, nghiệp dữ mình đã gây tạo
trong đời mà thôi. Đây là một lẽ thật, quý vị cần biết để cố gắng
gieo tạo nghiệp lành.
QUẢ BÁO CỦA NGHIỆP
Một gia đình nọ sống trong làng đánh cá,
một bà mẹ có thai và cả làng làm ăn sa sút, nhiều chuyến ra
khơi không đánh bắt được cá tôm gì, nhiều gia đình lâm vào cảnh
khó khăn, đói kém. Trước tình hình như vậy, các bô lão trong
làng mới họp lại với nhau để bàn bạc, tìm xem nguyên nhân vì sao
dân làng gặp vận hạn như thế.
Một số người cho rằng, do bà mẹ kia đã lớn tuổi mà lại
mang thai là điều quái dị, không hợp luật trời, vì thế dân
làng mới chịu cảnh làm ăn thất bát, khó khăn. Một số người
khác không nhất trí với ý kiến ấy, cuối cùng làng chia ra làm
hai nhóm ra khơi, đánh bắt riêng biệt.
Trong nhiều chuyến ra khơi, nhóm người không tin việc bà
mẹ già mang thai, thường xuyên bị nạn, không đánh bắt được cá;
nhóm người tin việc ấy thì chuyến nào cũng đánh bắt đầy
thuyền. Điều này khiến cả làng tin rằng, bà mẹ mang thai kia
chính là nguyên nhân dẫn đến sự thiếu hụt, khó khăn của làng.
Cuối cùng, cả làng quyết định đuổi bà ấy khỏi làng, không cần
biết sự sống của bà sẽ ra sao.
Bà ra đi trong tình cảnh vô cùng bi đát, không có thứ gì
mang theo, lại đang lúc bụng mang dạ chửa, bà lang thang đó đây,
vất vả xin ăn sống qua ngày. Lúc ở nhà còn có chồng chăm lo,
nhà cửa đàng hoàng, giờ đây với thân phận một người ăn mày
không nhà, không cửa, sống bờ ngủ bụi, nhiều khi vì quá mệt,
không xin được chút gì, bị đói khát, bà muốn phá đi cái thai
trong bụng để tìm sự thảnh thơi cho riêng mình, nhưng vì cái
thai là sự đầu thai của một vị sẽ chứng A La Hán trong kiếp
này, nên thai nhi có khả năng chuyển tâm, làm cho bà mẹ không đủ
can đảm huỷ hoại cái bào thai ấy.
Thời gian trôi qua, đứa con của bà cũng được ra đời với
bao khó khăn chồng chất. Trong những ngày sinh con, bà phải một
thân, một mình tự lo mọi thứ, khổ sở tột cùng, bà vẫn cắn
răng chịu đựng. Sinh con được mấy ngày, vừa khoẻ được một
chút, bà lại phải ẵm con, tiếp tục cuộc hành trình với thân
phận ăn mày, rày đây mai đó, để kiếm chút cơm thừa, canh cặn.
Từ đây, trong cuộc mưu sinh, bà lại có thêm đứa bé bên
mình. Hai mẹ con cùng nhau lang thang hết làng này sang xóm nọ,
rong ruỗi khắp mọi nẻo đường, nhưng vẫn không đủ sống, phải đói
khát, vật vờ. Ngày qua ngày, bữa đói, bữa no, áo quần rách
rưới, thật chẳng giống ai, nhiều lúc đói lả tưởng chừng không
sao sống nổi.
Vậy mà bà vẫn sống để nuôi đứa bé ốm o, gầy mòn. Bà lang
thang xin ăn lây lất sống qua ngày, cho đến năm chú bé khoảng ba bốn
tuổi. Một hôm, hai mẹ con vào một gia đình giàu có xin ăn, vì
thương con phải chịu cảnh ăn mày, thiếu thốn, đói khát thường
xuyên, bà bỏ lại đứa con trong vườn của người nhà giàu ấy, rồi
trốn đi biệt tâm biệt tích, với hy vọng con mình sẽ được người nhà ấy
nuôi nấng tử tế, đàng hoàng.
Bà nghĩ rằng, làm như vậy là để người giàu thương tâm
mà nuôi đứa bé. Dù từ bỏ đứa con thân yêu, lòng bà xót xa, đau
đớn như đứt từng khúc ruột, lúc nào nước mắt cũng tuôn tràn,
quên ăn, bỏ ngủ, nhưng bà hy vọng con mình không khổ như kiếp ăn
mày lâu nay.
Nhưng cuộc đời đâu có dễ dàng như vậy, bởi vì nghiệp
báo đâu cho phép mình muốn là được. Từ khi người mẹ bỏ đi, đứa
bé càng khốn khổ hơn, một mình nó tự xin ăn, có lúc phải lượm
từng chút cơm thừa, canh cặn người ta vứt đi để sống qua ngày.
Nơi đầu đường xó chợ, người ta thường thấy một đứa bé gầy
còm, ốm yếu, đen đúa, lem luốc, ngồi co ro thật tội nghiệp.
Một hôm, ngài Xá Lợi Phất trên đường đi du hoá, thấy một
chú bé khoảng chín mười tuổi, thân hình gầy còm, đen đúa, nằm
co quắp bên vệ đường. Động lòng thương xót, Ngài đến bên hỏi
rõ nguyên nhân mới biết được hoàn cảnh bi đát của chú bé. Sau đó, Ngài
mới nói một bài pháp về nhân quả nghiệp báo cho chú bé nghe, rồi Ngài
bảo rằng, “con có muốn xuất gia theo thầy không?”
Đứa bé than, “con là đứa ăn mày, một thân, một mình không
nơi nương tựa, không cha mẹ, không bà con, họ hàng thân tộc, con
thuộc giai cấp hạ tiện, làm sao con có thể xuất gia theo Ngài.”
Thời bấy giờ, việc xuất gia chỉ dành riêng cho giai cấp
tôn quý. Nghe vậy, Ngài Xá Lợi Phất mới giải thích, trong giáo
pháp của Phật Đà không có phân biệt giai cấp cao quý hay hạ tiện. Ai
muốn sống đời giải thoát thì phát tâm gia nhập vào Tăng đoàn. Chú bé
vui mừng chấp nhận và được Ngài Xá Lợi Phất đưa về Tăng
đoàn. Nơi đây, chú bé lớn khôn, trưởng thành trong môi trường
phạm hạnh đầy trí tuệ. Do tu hành tinh chuyên, chú được thọ
giới đầy đủ, không bao lâu sau đã trở thành một vị tỳ kheo nổi
tiếng phạm hạnh, và chứng quả A La Hán.
Câu chuyện trên đã cho chúng ta một bài học quý báu về
tích luỹ nghiệp trong quá khứ và hiện tại, không phải đơn giản
như nhiều người hiểu lầm chết là hết, mà chúng ta sẽ phải
trả một giá rất đắc nếu đã gây tạo nghiệp xấu ác.
Trên đời này, không có việc gì là không có nguyên nhân sâu
xa của nó. Trong nhiều kiếp quá khứ, tiền thân của chú bé là
người có tâm tật đố, ghen tỵ, đã ngăn cản nhiều cư sĩ cúng
dường một vị Bích Chi Phật, và còn vu oan, xúi bảo người khác không
cúng dường. Do tiền kiếp đã gieo những nhân xấu như vậy, nên đời
này sinh ra phải làm một chú bé ăn xin nghèo hèn, thiếu thốn
đầu đường xó chợ, không chỉ có thân mình chịu quả báo khổ đau
mà người sinh ra cậu cũng cùng chung nghiệp ấy.
Khi biết được lý nhân quả nghiệp báo luôn đeo đuổi ta như
bóng với hình, mình mới thấy thật khốn khổ khi quả xấu đến. Nếu
người Phật tử không thông suốt lý nghiệp báo, sẽ dễ đi đến sai
lầm, mà sai một li là đi xa ngàn dặm, không biết sẽ về đâu.
Vì vậy, chúng tôi mong quý Phật tử là người hiểu Phật
pháp, biết tu hành theo lời Phật dạy. Nếu chúng ta không có
khả năng bố thí, cúng dường, chia sẻ, giúp đỡ người nghèo
khó, thì khi thấy người khác bố thí, cúng dường, làm điều
phước thiện, chúng ta phải phát tâm tuỳ hỷ, vui theo việc làm tốt
đó, thì mình cũng có phước đức không khác gì người bỏ tiền ra
giúp đỡ.
Đức Phật thường dạy, “người phát tâm bố thí, giúp đỡ, sẻ
chia, và người tuỳ hỷ với việc bố thí ấy, có phước báu ngang
bằng nhau. Vì sao? Vì người bố thí cúng dường thì được phước
báo hiện tại và mai sau không nghèo hèn, thiếu thốn, khó khăn; còn ta
thấy người khác bố thí, cúng dường, mà phát tâm tuỳ hỷ, vui
theo việc làm ấy, sẽ không bị quả báo tật đố, ganh ghét. Người
có tâm tật đố, ganh ghét dễ dẫn đến hận thù, làm những việc
xấu ác; còn người xúi bảo người khác làm việc xấu ác, thì
quả báo lại càng nặng nề hơn.
Như trường hợp của dân làng đánh cá trong câu chuyện trên,
cái đói khổ là do cộng nghiệp xấu. Khi đứa bé mới đầu thai vào
bà mẹ, nghiệp nhân đã chiêu cảm những quả xấu, nên cả làng bị
thiếu thốn, đói khát, dẫn đến việc bà mẹ bị đuổi ra khỏi
làng, người con phải thọ quả ăn mày từ trong bụng mẹ mãi đến
khi chín, mười tuổi. Thật là khủng khiếp! Đó cũng chỉ vì tuỳ
hỷ hay xúi bảo với việc làm xấu ác mà ra.
Do đó, khi học về giáo lý nghiệp báo, chúng ta nên cẩn
thận với mọi hành vi từ thân-miệng-ý, mình chỉ tán thán và
tuỳ hỷ khi thấy người khác làm việc phước thiện mà thôi; còn
khi thấy ai làm việc bất thiện, mình nên tìm cách khuyên can, cả
hai việc ấy đều mang lại lợi ích trong hiện tại và mai sau.
Đối với khẩu nghiệp, chúng ta phải hết sức cẩn trọng
trong lời nói. Ta nên nói những lời có lợi cho mình và cho
người, còn những lời nói mình cảm thấy có hại cho bản thân hay
cho người thì phải dè dặt. Muốn được như vậy, chúng ta phải
biết cách tu hành từ ý nghĩ khi chưa phát sinh ra lời nói. Ta nghĩ và
nói theo lời Phật dạy, biết tận dụng, tranh thủ thời gian quán
chiếu, suy xét, cho đến khi nào mình cảm thấy lời nói không có hại
cho ai thì mình mới nói.
Ai tu được như vậy, sẽ từng bước chuyển hóa được nghiệp
xấu ác huân tập từ nhiều đời, nhiều kiếp, không còn nghi ngờ
gì nữa, nhà Phật gọi đó là niềm tin bất thoái chuyển. Người
có niềm tin như thế sẽ càng ngày càng sống tốt hơn, nhờ trí tuệ
khai phát, do đó luôn sống vì tha nhân nhiều hơn.
Trong Kinh Kim Cang, đức Phật đã nói, “phàm cái gì có
tướng đều hư (giả) vọng. Hư vọng có nghĩa là không phải không
có, mà là giả có (không thật có).
Thân của chúng ta có phải thật là ta hay không? Nếu thân
này là thật, tại sao ai cũng sanh-già-bệnh-chết? Cái gì thật
thì trước sau như một, không biến đổi, trước như thế nào thì
sau như thế đó, dù trải qua thời gian vô cùng tận cũng không thay
đổi. Còn thân người luôn bị già-bệnh-chết chi phối, thì làm
sao nó là thật được. Vậy mà rất nhiều người trong chúng ta
lầm chấp thân này là thật, là ta, là của ta.
Từ chỗ chấp thân này là thật, nên mới sinh ra chuyện vợ chồng
luôn tranh cãi, bất hòa với nhau, dẫn đến ly dị, ly hôn, do không biết
nhường nhịn lẫn nhau. Những điều bất hạnh ấy đến với mình cũng
chỉ vì mình không hiểu biết, thiếu tu hành mà thôi.
Do nghiệp xấu gieo tạo từ trước, nên khi sanh ra trong đời
này, cậu bé phải chịu quả báo làm một đứa trẻ lang thang, ăn
mày đầu đường xó chợ, bữa đói bữa no, chín mười năm trời. Tuy
đã vào Tăng đoàn, được xuất gia tu hành, nhưng vẫn phải chịu
nghiệp quả của sự thiếu thốn. Trong lúc đi khất thực hàng ngày,
cứ hễ đến lượt ngài thì hết thức ăn, hoặc người cúng dường
muốn dân vật thực cho ngài thì lại thấy trong bình bát của
ngài đầy ấp thức ăn, nên lại thôi, không sớt bát nữa.
Bởi do ác nghiệp gieo tạo trong quá khứ, nay khiến ngài
phải trả quả báo như vậy. Cho nên, trong suốt thời gian tu hành
trong Tăng đoàn, cùng đi khất thực với quý thầy, ấy thế mà ngài
chưa bao giờ có một lần no đủ, mặc dù ngài đã chứng quả A La Hán.
Thương tình vị đệ tử của mình suốt cuộc đời không một bữa ăn
no, Ngài Xá Lợi Phất khất thực được một bát cơm thịnh soạn, bèn để
ngài dùng trước lúc nhập diệt; nhưng khi ngài vừa dùng xong, tất
cả thức ăn đều bị ói ra hết. Quý vị đã thấy rõ sức mạnh của
nghiệp ác chiêu cảm thế nào chưa, ngay đến cả bữa ăn cuối cùng
trong đời ngài cũng không thể thọ nhận, dú đã chứng A La Hán quả.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy rằng, hễ gieo tạo
nghiệp gì thì phải thọ lãnh nghiệp quả nấy, không sai một li
nào, không trốn tránh vào đâu được, cho dù đó là nghiệp riêng
hay nghiệp chung.
Vì vậy, người Phật tử chân chính phải hết sức cẩn
trọng giữ gìn các hành vi của thân-miệng-ý cho chu đáo, khi đã
lỡ gây tạo nghiệp bất thiện rồi thì trăm kiếp, ngàn đời, quả
báo ấy cũng không hề mai một, mà chỉ nằm yên chờ đến lúc hội
đủ nhân duyên thì sẽ trổ ra. Lúc ấy, ta không kêu cứu ai được,
mà cũng không ai có thể cứu ta được. Chỉ có người hiểu rõ
đạo lý nhân quả, nghiệp báo, biết tu hành, thì mới chấp nhận
mà không phàn nàn, không than van hay oán trách một ai.
Còn đối với những bậc tu hành đã vượt qua được vòng
luân hồi sanh tử, khi những quả xấu trổ ra, các ngài không hề
sợ sệt, không hề oán than; có khi các ngài còn khởi tâm vui vẻ
vì được trả quả trong kiếp này. Những vị cao Tăng, những bậc tu
hành chân chánh luôn giữ tâm an trú nơi tính biết sáng suốt của
mình, không còn dấy niệm về buồn, thương, giận, ghét, nên các
ngài lúc nào cũng an nhiên, tự tại.
Do đó, người Phật tử chân chính phải nên thường xuyên quán
chiếu, soi sáng lại chính mình, đừng chờ đến lúc quả xấu trổ
ra, rồi mới ngồi đó mà than thân, trách phận. Bồ Tát nhờ ý thức
được quả khổ đau, nên đã kịp thời ngăn ngừa từ nhân, còn chúng ta
chờ kết quả xấu đến thì làm sao trở tay cho kịp.
Bởi thế, phàm phu khi trả quả thì than thân, trách phận,
oán trời, trách đất, đỗ thừa đủ thứ, rồi sinh ra hận thù,
tìm cách trả đũa; do vậy, nhân quả vay trả, trả vay không có
ngày cùng. Muốn dừng được nhân bất thiện, chúng ta phải thường
xuyên nghiền ngẫm lời Phật dạy, để biết được nhân nào dẫn
đến sa đoạ, khổ đau, nhân nào dẫn đến an vui, hạnh phúc, nhân
nào được giác ngộ, giải thoát, để mình lựa chọn mà tu theo tâm
nguyện của mình; đừng để nước tới chân mới nhảy thì làm sao kịp,
hay chờ khát nước rồi mới đào giếng thì đã quá muộn màng.
Người học Phật phải biết phòng ngừa quả xấu từ nhân.
Muốn được như vậy, trước nhất ta phải tin sâu Tam Bảo, cố gắng
thực hành lời Phật dạy. Phật nay đã nhập diệt hơn 25 thế kỷ,
nhưng giáo pháp của Ngài vẫn còn đang lưu truyền nhờ chư Tăng,
Ni. Nếu không có chư Tăng, Ni hoằng truyền rộng rãi thì làm sao
ta biết được điều hay dở, tốt xấu, đúng sai trong cuộc đời, để
mình tu sửa, để khỏi chìm đắm, trôi lăn trong vòng sinh tử, luân
hồi.
Tin sâu Tam Bảo là tin sâu vào lời dạy chân chính của Phật,
không phải thần tượng vào vị thầy nào, vì thần tượng thì dễ bị sụp
đổ. Điều đó dễ dẫn ta đến cống cao ngã mạn, chỉ thấy có thầy
mình là tốt, là đúng, là hay, còn các vị khác đều sai, đều
xấu. Đây là tai hoạ từ bệnh thần tượng cá nhân gây nên, bởi chư
vị Tăng, Ni đang tu hành cũng là người bình thường, nên không
sao tránh khỏi những khuyết điểm.
Biết được như vậy, chúng ta dễ dàng cảm thông cho những
sai sót của quý Tăng, Ni, hay các bạn đồng tu với nhau. Khi xét
thấy chư Tăng, Ni nào đầy đủ đức hạnh thì chúng ta cố gắng
học theo; còn chư vị Tăng, Ni nào chưa trọn vẹn, nhiều khiếm
khuyết, thì chúng ta cũng nên lấy đó làm bài học, để không
vấp phải lỗi lầm. Đó là điều người Phật tử cần phải nên
biết, để tránh việc khen mình, chê người, chỉ gây đau khổ cho nhau
mà thôi.
Đối với người Phật tử, việc tích luỹ nghiệp rất là quan
trọng, bởi chúng ta sanh ra trong đời là đã mang theo nghiệp tốt
xấu lẫn lộn của nhiều đời trước. Bên cạnh tích luỹ nghiệp của
quá khứ, việc tái sanh còn do lực tác động của cận tử nghiệp,
cũng rất quan trọng. Cận tử nghiệp là nghiệp được tạo tác
lúc sắp chết. Tích luỹ nghiệp và cận tử nghiệp có liên quan
mật thiết với nhau, nó kết thành yếu tố quyết định đưa thần
thức người chết tái sanh về cõi lành hay cõi dữ.
Thời Phật còn tại thế, vua Ma Ha Nam- con của Cam Lộ Phạm
Vương, là em nhà chú bác với đức Phật, ông tu tại gia, giữ năm
giới, tu thập thiện, thọ bát quan trai. Một hôm, ông đến gặp
đức Phật và bạch rằng, “bạch Thế Tôn, con giữ gìn năm giới, tu
thập thiện, thọ bát quan trai thường xuyên như vậy, nếu chẳng may
con bị chết bất đắc kỳ tử, sau khi chết, con sẽ tái sanh được
chỗ tốt đẹp hay không?”
Đức Phật không trả lời mà hỏi lại ông, “như có một cây cổ
thụ thân và cành nghiêng hẳn về một bên, vậy khi cưa gốc, cây đó
sẽ ngã về bên nào?”
Vua Ma Ha Nam trả lời, “dạ thưa Thế Tôn, cây sẽ ngã về phía đang nghiêng”.
“Cũng vậy, bình thường nhà vua hay làm điều lành, giữ
giới liên tục, không gián đoạn, khi gặp tai nạn bất thường, tuy
có hơi bị khủng hoảng đôi chút, nhưng do nghiệp thiện tích luỹ
quá nhiều, nên sẽ được sinh về cảnh giới an lành, nhà vua khỏi
phải lo lắng, sợ hãi mà cứ yên tâm”.
Người tu hành chân chính phải biết tích luỹ nghiệp lành
khi còn trẻ khoẻ, chứ không phải chờ đến tuổi già, sức yếu, rồi
mới làm lành, lánh dữ, và tu hành, thì e rằng không còn kịp nữa.
Tránh dữ, làm lành là phương pháp sống của người Phật tử, hễ khi
có cơ hội và nhân duyên thì mình phát tâm làm ngay dù việc lớn hay nhỏ.
Cho nên, tu là phải chịu khó hành trì bền bỉ từ khi còn
trẻ, ta chỉ làm một việc là kiểm soát chặt chẽ từ ý nghĩ cho đến lời
nói và hành động cho được thuần nhất, không làm tổn hại cho mình và
người.
Cận tử nghiệp đối vối việc tái sinh trong đời sau rất
quan trọng. Một người trong đời đã làm nhiều việc thiện lành,
tốt đẹp, nhưng đến lúc sắp lâm chung lại khởi lên tâm niệm xấu
ác, hay oán giận ai, thì chưa chắc được sinh về cõi an lành.
Ngược lại, ai trong đời lỡ tạo một vài nghiệp ác, đến lúc
sắp lâm chung mà biết khởi tâm niệm lành mạnh mẽ, người ấy có
thể chuyển được nghiệp xấu và sanh về cảnh giới an lành. Bởi
nghiệp không cố định, nên ta có thể chuyển hoá và thay đổi
chúng.
Qua câu chuyện trên, đức Phật đã chỉ ra cho ta một bài học
quý báu về tích luỹ nghiệp, chúng ta phải thường xuyên huân tập
việc tốt bền bỉ, lâu dài. Lúc nào, ta cũng ý thức việc làm ác sẽ gây
quả xấu cho mình trong hiện tại và mai sau, nên không dám lơ là, buông
lung, mà luôn cố gắng tinh cần chuyển hóa chúng khi còn trong trứng
nước, tu hành như vậy ta mới có thể làm chủ tâm mình trước lúc
lâm chung.
Cận tử nghiệp có thể chuyển hoá được các nghiệp xấu ác
ta đã gây tạo ra từ trước. Nếu trước đây, chúng ta đã từng làm
những việc xấu ác, đến lúc gần chết mình biết hồi đầu chuyển
hướng, khởi tâm niệm lành mạnh mẽ, nhờ tâm niệm đó, mình có
thể được sanh về chỗ an vui, hạnh phúc.
Ngoài việc tích luỹ nghiệp lành, người Phật tử còn
phải biết tu hạnh buông xả. Nghĩa là không chấp trước vào việc
làm thiện lành của mình. Người chấp trước vào việc tốt mà
mình đã làm thì dễ sanh tâm ngã mạn, lúc gặp duyên xấu không
làm chủ được bản thân, hay bị người khác xúi giục làm điều
xấu ác không cưỡng lại được, biết xấu mà vẫn làm, biết mà cố
phạm, vì thói xấu đã được thuần thục.
Trong đời, ta thấy có người hay làm những việc xấu ác,
bất thiện, bất nhân, bất nghĩa, mà họ vẫn khoẻ mạnh, giàu
có, không gặp hoạn nạn, là do nhiều đời, nhiều kiếp, họ đã
gieo trồng quá nhiều nghiệp lành, tích luỹ nghiệp tốt của họ
trong quá khứ còn nhiều, nên những nghiệp xấu ác họ đã gây trong
đời hiện tại chưa đủ sức chi phối.
Có người thắc mắc cho rằng, tại sao có người suốt đời
toàn làm điều ác, mà họ vẫn sống đầy đủ, giàu có, chẳng thiếu
một thứ gì. Vậy luật nhân quả nghiệp báo có chuẩn xác và công
bằng hay không? Trong kinh Phật dạy rất rõ ràng, “nếu làm thiện
sẽ được quả bảo vui, làm ác thì bị quả báo khổ”.
Bởi tích luỹ nghiệp và cận tử nghiệp có ảnh hưởng rất
lớn đối với người sắp lâm chung. Người làm ác mà vẫn sống
phây phây là do tích luỹ nghiệp thiện lành của họ quá nhiều.
Phật thường nói về nhân-duyên-quả, có nhân thì phải có duyên,
đủ duyên thì chiêu cảm quả báo. Nhưng nhân quả có thể thay đổi
được, nếu không chúng ta tu cũng tốn công, vô ích thôi.
Tu là mục đích chuyển khổ thành vui, chuyển xấu thành
tốt, chuyển mê thành ngộ. Như khi xưa ta chưa biết tu nên hay hút
thuốc, uống rượu; nay nhờ biết tu, nên mình không uống rượu, hút thuốc
nữa, vậy không phải đã chuyển là gì. Bỏ thuốc, bỏ rượu là do ta bỏ, chứ
đâu có ông thần linh thượng đế nào giúp cho mình làm được điều này.
Chúng ta nuốn được phước báo tốt, sống đời hiền thiện, đạo
đức, thì phải cố gắng tu trong mọi hoàn cảnh, đừng chờ đến chùa
rồi mới tu. Tu như vậy là không thực tế. Một tháng chúng ta
đến chùa được mấy ngày? Không lẽ không đến chùa là không tu
được hay sao? Quý Phật tử hãy nên suy nghĩ chín chắn chỗ này.
Tu chính là nền tảng vững chắc để xây dựng hạnh phúc gia đình
và xã hội. Một giờ tu là một giờ hạnh phúc, một ngày tu là
một ngày an lạc, giác ngộ, giải thoát ngay tại đây và bây giờ.
Muốn được trọn vẹn đường tu, chúng ta phải thường xuyên
sám hối, quyết tâm chừa bỏ lỗi lầm, phát nguyện đời đời kiếp
kiếp đi theo con đường Phật đạo. Chúng ta phải phát nguyện mãnh
mẽ và ý thức rằng, làm ác sẽ chịu quả báo khổ đau trong hiện tại và mai
sau, nhờ vậy mình mới đủ sức vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Phát nguyện để làm mới lại chính mình và tin sâu Tam bảo, giúp
chúng ta có đủ niềm tin trên bước đường tu học. Mỗi khi gặp điều bất
hạnh, ta biết đó là nghiệp xấu quá khứ còn rơi rớt lại, nên
không thối chí, nản lòng, mà còn cố gắng nhiều hơn để vượt qua cạm
bẫy cuộc đời.
Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên,
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền,
Trong nhà có báu, thôi tìm kiếm,
Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền.
Chúng ta hãy nên bắt chước ông vua Thiền sư Phật hoàng Trần Nhân
Tông, xem ngai vàng như dép rách, chẳng màng đến vinh hoa phú quý, một
lòng nhất tâm tu hành, buông xả quyền cao chức trọng, để sống đời trong
sạch, giải thoát.