Tứ diệu đế tiếng Phạn gọi là ‘catvary aryasatyami’ nghĩa là bốn sự thật
vi diệu, bốn sự thật mầu nhiệm, bốn sự thật cao quí, gồm có khổ đế
(dukkha), tập đế (samudaya), diệt đế (nirodha) và đạo đế (magga).
Chúng ta hãy cùng nhau học hỏi và nghiên cứu về bốn sự thật
để có thể khám phá ra những cái thấy mới mẻ và xác thật. Cống hiến
những phương pháp hành trì thực tiễn có công năng đáp ứng với những vấn
đề hạnh phúc và khổ đau đang xảy ra trong thời đại của chúng ta.
Ta học tứ diệu đế theo cách khám phá và bào chế thuốc men của
ngành y khoa để có thể điều trị và chữa lành được những cơn bệnh hiểm
nghèo của thời đại như ung thư, tiểu đường, lao, cùi, trầm cảm, nóng
giận, tham đắm, hận thù, bất công, chiến tranh… Trong thời của đức Thế
Tôn, khoa sinh sản chưa được phát triển về các phương diện kỹ thuật,
thuốc men, vệ sinh, ngăn ngừa vi khuẩn, trừ khử vi trùng cho nên việc
sinh con tạo ra thật nhiều đau nhức, khổ sở, có lúc chết cả mẹ lẫn con.
Bởi thế, Bụt nói: “Sinh là khổ”. Nhưng trong thời đại của chúng ta,
khoa sinh sản đã tiến bộ rất xa, có những phương pháp mổ xẻ, có những
loại thuốc giảm đau, có những phương cách vệ sinh tinh xảo giúp cho
việc sinh con của các bà mẹ bớt đi rất nhiều đau nhức, khổ sở, khó khăn
và chết chóc so với ngày xưa. Số lượng thiệt mạng do khó sinh, vi
khuẩn, nhiễm trùng xuống rất thấp gần như không còn nữa. Đó là nhờ vào
sự giữ gìn, bảo hộ của những phương tiện vệ sinh, thuốc men và kỹ thuật
sinh sản. Cho nên, ta có thể nói “sinh không còn đau khổ như thời xưa.”
Tuy vậy, chúng ta có rất nhiều vấn đề khó khăn và khổ đau cần phải được
quan tâm như ô nhiễm môi trường, chiến tranh, khủng bố, phá thai, xì
ke, ma túy, rác rến, dân mãn, cờ bạc, bệnh xi đa…
Tuy nhiên, thời đại nào con người cũng có những nỗi khổ do
hờn giận, ganh tỵ, sợ hãi, hiểu lầm, kỳ thị… biểu hiện ra từ trong
chiều sâu tâm thức. Bởi vậy, sự thật thứ nhất là khổ đế có nguồn gốc
sâu đậm trong tâm khảm của mỗi người. Do đó, con đường khám phá về bản
chất của tứ diệu đế cũng là cơ hội khai mở kho tàng bí mật ngàn đời của
tâm thức để hiểu rõ nguồn gốc của khổ lạc, ghét thương, mê ngộ, giải
thoát và luân hồi.
Bản chất và nguyên tắc hành trì của tứ diệu đế là sự thật
muôn đời. Nhưng cách trình bày, sự hiểu biết và những khám phá về giáo
lý này phải được cụ thể hóa cho phù hợp với những vấn đề trong các lĩnh
vực thân tâm, gia đình và xã hội. Nhờ vậy, giáo lý này vẫn còn là gia
tài quí báu, có công năng làm đẹp sự sống của con người hiện thời và
mãi về sau.
Hoa thơm nở trên rác bẩn
Trước khi đi sâu vào giáo lý bốn sự thật vi diệu, ta hãy thử
nhìn vào những đặc tính thiết yếu của giáo lý này để hiểu thêm tầm quan
trọng và sâu sắc của nó.
Đặc tính thứ nhất là tính tương tức và cái nhìn nhất quán
của tứ diệu đế, nghĩa là bốn sự thật liên hệ mật thiết với nhau. Ta
không thể nào tách rời khổ đế ra ngoài tập đế, diệt đế và đạo đế. Sự
thật về khổ đau luôn luôn chứa đựng sự thật về nguyên nhân của khổ đau,
sự vắng mặt của khổ đau và con đường đưa tới sự chấm dứt của khổ đau.
Không thể nào có khổ đau mà không có nguyên nhân của nó. Chính vì thế,
ta mới có cơ hội chấm dứt được những nguyên nhân ấy bằng nhiều con
đường, trong đó có con đường của tám sự hành trì chân chánh. Cho nên, ta có thể nói rằng tứ diệu đế là tiếng nói của niềm tin, tiếng nói của hy vọng:
khổ đau có thể trở thành an lạc, giận hờn có thể trở thành thương yêu,
nghèo đói có thể chuyển thành thịnh vượng, chiến tranh có thể trở thành
hòa bình… Điều này cũng đúng với trường hợp của tập đế, diệt đế và đạo
đế. Tức là sự thật về con đường (đạo đế) luôn đưa tới sự chấm dứt
nguyên nhân của khổ đau, chuyển hóa phiền muộn để trở thành an vui, tự
do và hạnh phúc. Nếu con đường ấy là trộm cướp, giết người, lừa gạt, tà
dâm, cờ bạc, rượu chè…cốt chỉ đưa tới đau khổ, bất an, thù hận, tù tội
thì đó không phải là đạo đế. Đó là những con đường xấu ác gọi là tà đạo ngược lại với chánh đạo.
Có một số người chưa hiểu hết chiều sâu của tứ diệu đế nên
trình bày và diễn thuyết nó như là giáo lý chỉ nói về đau khổ. Cuộc đời
là đau khổ, tình yêu là bi lụy, có thân thể nên có đau nhức, vợ con là
oan gia nghiệp báo, nguồn gốc của khổ đau… Suy tư như thế, người ta vô
tình phủ lên sự sống vốn chứa đựng đầy ắp thương yêu và hạnh phúc một
màu đen u ám, tối tăm và chán chường. Trong khi đó, sự sống rất là mầu
nhiệm như trời xanh, mây trắng, nắng mai, mưa chiều, chim ca, hoa nở,
trẻ thơ, hòa bình, an vui, tình yêu, lý tưởng… Vợ chồng, con cái không
phải là oan gia nghiệp báo mà là một nhân duyên hội ngộ tuyệt vời để
tiếp nối dòng dõi tổ tông. Con cái là món quà vô giá mà vũ trụ, cha mẹ,
ông bà và tổ tiên đã trao tặng cho ta. Thế thì, tại sao ta lại bảo
chúng là oan gia nghiệp báo?
Theo cái nhìn của di truyền học, con cái là sự tiếp nối của
cha mẹ, ông bà và tổ tiên. Sức sống về tài năng, kinh nghiệm, hoài bão,
tình thương và sự hiểu biết của bao nhiêu thế hệ tổ tiên trong quá khứ
được trao truyền lại cho con cái. Vì vậy, con cái không phải là món quà
quý giá thì còn là gì nữa? Vợ của anh cũng thế, từ thuở ban đầu cô ấy
đã trao cho anh một tình yêu trong sáng, nồng nàn và tha thiết. Nàng hy
sinh cả một đời người để sinh con, nuôi con, làm lụng tảo tần, xây dựng
cho anh một gia đình dễ thương và gương mẫu. Vậy mà mỗi khi đau khổ hay
buồn giận thì anh thường than rằng: “vợ là oan gia, cửa nhà là nghiệp báo.”
Thật là cái nhìn thiếu trí tuệ và không sáng suốt. Tóm lại, tất cả
những yếu tố trong sự sống luôn luôn nuôi dưỡng, yểm trợ và che chở cho
ta. Ta hãy nên trân quí sự sống mà đừng bị một tín ngưỡng sai lầm hay
một cái nhìn thành kiến nào làm mất đi niềm vui sống và kính thương đối
với cuộc đời. Như thế, cuộc đời đau khổ hay không đều tùy thuộc rất nhiều vào cái nhìn và thái độ sống của ta.
Tuy nhiên, khổ đau là một bài học, là một cơ hội quán chiếu
để thấy rõ ràng nguyên nhân của nó thì tự nhiên ta cũng tìm thấy được
con đường đưa tới an lạc và thảnh thơi. Chiến tranh Việt Nam đã gây ra
thật nhiều thù hận, tan thương và chết chóc cho toàn thể đồng bào. Nó
in lại sâu đậm trong tâm hồn người Việt những vết đau thương ngàn đời.
Cho nên hiện giờ bất cứ người Việt ở trong nước cũng như ở ngoài nước
đều đã nếm được bài học đau thương ấy. Chúng ta phải làm đủ mọi cách
đừng bao giờ tạo ra một cuộc chiến tranh như thế trên quê hương yêu
dấu. Ta hãy mở lòng ra để ca ngợi hòa bình. Hãy thử đọc một bản nhạc
của Trịnh Công Sơn về nét đẹp của hòa bình.
“Đường sóng gió đã qua đi
Đường hòa bình đã đến rồi
Năm hai ngàn ta đi tới
Đường tương lai quanh ta rộng lối
Đường bão tố đã qua đi
Đường hòa bình đã sáng ngời
Những con đường còn đi mãi
Đường thênh thang dưới chân người…”[1]
Hòa bình là bình an và hòa điệu. Có sự hòa điệu giữa con
người với con người, giữa con người với mọi loài và thiên nhiên thì mới
có hòa bình thật sự. Nếu không có sự hòa điệu này thì dễ đưa tới việc
tranh giành, khai thác, lợi dụng trong đời sống tạo ra sự bất an, hổn
loạn, chiến tranh và hận thù.
Chặt cây, đốn rừng và phá núi đưa tới lụt lội hoặc hạn hán,
làm hư hại nhà cửa, ruộng vườn và đất đai, gây nên nạn nghèo đói, bệnh
tật, chết chóc. Cho nên, ta hãy bảo vệ thiên nhiên, giữ gìn cây rừng,
núi non và biển hồ. Núi rừng, cây cối sẽ giữ nước mưa lại ở trên cao,
chặn đứng đà tuôn chảy của nước nguồn, giúp cho ta tránh khỏi nạn lụt
lội. Bên cạnh đó, núi rừng còn có khả năng hấp thụ thán khí và cung cấp
dưỡng khí thật bổ ích cho con người và mọi loài động vật. Biển hồ là
mạch sống của mọi loài chúng sanh nên ta hết lòng giữ gìn và bảo vệ cho
sạch sẽ.
Cũng vậy, con người cần học cách sống hòa điệu với nhau, vì
ai cũng muốn được bảo vệ và thương yêu, ai cũng muốn sống trong an toàn
và hạnh phúc, ai cũng cần được ấm no và lo sợ nghèo đói. Máu ai cũng
đỏ, nước mắt ai cũng mặn, do đó chúng ta hãy đừng làm khổ nhau, không
nên lợi dụng sức lao động của nhau, đừng ai giành giựt hay chiếm đoạt
của cải của ai và nhất là đừng ai sát hại ai. Người nào cũng có cha mẹ,
gia đình và người thương, làm khổ người đó tức là làm đau buồn luôn cha
mẹ, gia đình và người thương của người ấy. Nếu không thấy được sự liên
hệ mật thiết giữa con người với nhau, giữa con người với thiên nhiên
thì ta dễ sống theo tâm tham lam và ích kỷ, tạo ra biết bao nhiêu khổ
đau cho mọi loài mà còn làm tàn hoại thiên nhiên.
Cũng như trên, cờ bạc đã phá tan hạnh phúc của nhiều gia
đình, tạo ra trộm cướp, lừa gạt và đổ vỡ. Người thua bạc cảm thấy buồn
bả, chán chường, làm vợ con buồn giận, mất mát tiền của, gia đình bất
an. Người thắng cờ bạc cũng chẳng sung sướng gì, bị kẻ thua bạc oán hận
hoặc ganh tức, mang tiếng gian lận. Cả hai trở thành đối nghịch và oán
cừu với nhau. Bởi thế, ta nhất định từ khước các món cờ bạc, những sòng
bài (casino) hiện giờ rất thịnh hành ở Hoa Kỳ và các nước Âu Châu không
thể nào có mặt trên đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta.
Cũng như thế, vợ chồng gây lộn, cãi vã, đánh đập lẫn nhau
luôn tạo ra không khí bất an, nặng nề và khó thở trong gia đình, cho
nên vợ chồng tránh bớt sự tranh chấp, vợ biết nhường chồng, chồng biết
lắng nghe vợ. Cả hai người thực tập nói lời nhỏ nhẹ, hòa ái và xây dựng
cho nhau. Mùa Đông năm nay, vợ chồng anh Tiến đem cháu Nancy đến tu
viện Rừng Phong tu tập cùng với các thầy và các sư cô. Mỗi lần anh phát
biểu hoặc chia sẻ gì thì luôn được người vợ, tức là chị Liểu, tán đồng
và ca ngợi hết lòng. Tôi vừa ngạc nhiên vừa tò mò nên hỏi: “Anh làm sao
mà giỏi như vậy? Hình như chị luôn đồng ý và ca ngợi lời nói của anh.”
Anh trả lời: “Bạch thầy! Bởi con biết lắng nghe vợ con, cho nên ý kiến
của con cũng là ý kiến của vợ con. Bên cạnh đó, con hiểu được một phần
ý nghĩ của vợ con. Do đó, chúng con sống chung hòa điệu dễ dàng như
nước với sữa.” Thật là cặp vợ chồng gương mẫu, tâm đầu ý hợp. Đó là nhờ
họ biết lắng nghe và nâng đỡ nhau trong đời sống tu tập.
Tóm lại, ta phải nhận diện bản chất chân thật của khổ đau và
những nguyên nhân đích thực đưa tới khổ đau để đừng tiếp tục đi theo lề
thói suy tư, hành động và nói năng như thế. Hiểu như vậy, ta mới tạo ra
niềm tin yêu và hy vọng cho ta và cho những người chung quanh.
Cho nên “diệt đế” không phải chỉ là sự chấm dứt của những
nguyên nhân khổ đau mà còn là niềm vui sống, an lạc, tình nghĩa vợ
chồng, xây dựng quê hương, hóa giải hận thù, đem lại bình an cho cá
nhân, gia đình và xã hội. Thông thường, mỗi khi đau răng, ta cảm thấy
khổ sở, nhức nhối nhưng ta thường hay quên rằng không đau răng là hạnh
phúc. Bệnh tật là đau nhức nhưng còn khỏe mạnh để làm việc là hạnh
phúc. Những người mù lòa cảm thấy cuộc đời đen đủi, tối tăm, trong khi
đó, ta đang có đôi mắt sáng để thấy được thế giới màu sắc và những
người thương mà vẫn thường quên đi niềm hạnh phúc vô biên ấy. Khi đói
mà được ăn là hạnh phúc, khi khát mà được uống là hạnh phúc, tâm hồn
thanh thản không phiền muộn là hạnh phúc… Như thế, cuộc đời này có biết
bao yếu tố hạnh phúc đang dàn trải khắp mọi nơi trong sự sống. Diệt đế
là cửa ngõ đưa ta vào thế giới của tự do, cho nên ta hãy vui sướng đi
để yêu thương cuộc đời và nuôi dưỡng cho thật nhiều hạnh phúc.
Bây giờ, ta hiểu rõ tại sao diệt đế là sự thật mầu nhiệm mà
khổ đau cũng là sự thật vi diệu khác, bởi chúng đều là cửa ngõ đi vào
hạnh phúc và an vui. Không có khổ đau thì ta sẽ không biết hạnh phúc là
gì? Chưa nếm được nỗi khổ quằn quại của cái đói thì ta cũng không nếm
được hạnh phúc được ăn no. Chưa thấy được nỗi khổ của chiến tranh, thù
hận thì ta cũng chưa biết thế nào là hòa bình, thương yêu. Do đó, nhìn
thẳng vào khổ đau (khổ đế), ta thấy được hạnh phúc (diệt đế). Trong rác
có hoa và trong hoa có sẵn rác. “Cái này là cái kia. Cái này có vì cái kia có. Cái này không vì cái kia không”. Đó chính là tinh yếu của giáo lý duyên khởi, nguồn tuệ giác đạo Bụt.
Vậy nên, hãy chấp nhận và trân quý khổ đau như một phần hiện
hữu thiết yếu của sự sống, bởi vậy không có một hiện tượng nào trong sự
sống mà không có giá trị, mục đích và ý nghĩa thiêng liêng của nó.
Không có cái thấy này, con người thường có khuynh hướng chạy trốn khổ
đau, chối từ khó khăn, nghèo đói, bệnh tật. Cố sức đi tìm kiếm hạnh
phúc mà họ không ngờ rằng hạnh phúc phải tìm ở ngay trong khổ đau. Đó
là một sự thật tuyệt vời do chính Bụt đã chứng nghiệm dưới cội Bồ Đề và
chia sẻ lại cho chúng ta.
Lang
Hẹn bạn kỳ tới, mình chia sẽ tiếp.
[1] Trinh Công Sơn
Pháp Đăng