tựa là: Discourse
on Loving Kindness, Discourse on Good Will, Discourse on Friendliness,
Discours sur la Bonté, Discours sur la Bonté Bienveillante, Discours
sur l' Amour Bienveillant v.v..., tóm lại tất cả đều có nghĩa là Bài thuyết giảng về Lòng Tốt, Lòng Thiện Cảm, Tình Thương Yêu...
Do đó thiết nghĩ nếu dịch ra tiếng Việt thì có lẽ bản kinh này nên mang tựa đề là "Kinh về Lòng Từ Ái", chữ từ trong tiếng Hán có nghĩa là thương và ái là yêu. Trong quyển Hán-Việt Tự-Điển của Đào Duy Anh thì chữ từ ái được định nghĩa là lòng thương yêu. Tuy rằng hầu hết các quyển tự
điển khác, từ quyển Việt-Nam Tự Điển của hội Khai-Trí Tiến-Đức (1931)
cho đến các quyển tự điển mới gần đây đều có nêu lên và định nghĩa chữ từ ái, thế nhưng trên thực tế thì không mấy khi thấy chữ này được sử dụng và hình như đã biến thành một từ "cũ" (?). Do đó thiết nghĩ cũng có thể thay chữ Từ Ái bằng chữ Nhân Ái thông dụng hơn, để gọi kinh Mettâ Sutta là "Kinh về Lòng Nhân Ái", và dù sao thì cách dịch này cũng có phần sát nghĩa hơn so với tên gọi quen thuộc trước đây là "Kinh Từ Bi". Đôi khi kinh Mettâ Sutta lại còn được gọi là kinh Karaniya Mettâ Sutta, tức có nghĩa là kinh "Hãy thực thi lòng Nhân Ái" (tiếng Pa-li karaniyam có nghĩa là hãy nên thực thi). Bản kinh này được tìm thấy trong Tập Bộ Kinh (Suttanipata - Sn 1.8), thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddakapatha -
Khp 9). [Cũng xin minh chứng là người viết các dòng này không biết
tiếng Pa-li, và chỉ dựa vào các bản dịch song ngữ có sẵn và tra cứu tự
điển].
Kinh Mettâ Sutta gồm có rất nhiều bản dịch khác nhau bằng
nhiều ngôn ngữ khác nhau, từ các ngôn ngữ Tây Phương đến các ngôn ngữ Á
Châu. Riêng đối với tiếng Việt thì cũng có khá nhiều bản dịch của nhiều
dịch giả khác nhau. Vì thế bài viết này không hề có ý định đề nghị
thêm một bản dịch mới, vì tất nhiên đấy là một việc hoàn toàn dư thừa,
mà chỉ đơn giản đưa ra một bản chuyển ngữ gần nhất với bản gốc bằng
tiếng Pa-li.
Bản Kinh về lòng Nhân Ái gồm có 10 tiết, mỗi tiết gồm có 4
câu. Dưới đây là phiên bản gốc bằng tiếng Pa-li viết theo ngữ tự
La-tinh, phần chuyển ngữ sang tiếng Việt được trình bày song hành kèm
theo từng tiết một của bản kinh. Phần chuyển ngữ này được dựa vào một
số bản dịch từ tiếng Pa-li sang tiếng Anh của các nhà sư học giả lỗi
lạc người Tích Lan như: Thanissaro Bhikkhu, Ñanamoli Thera, Piyadassi
Thera, Ānandajoti Bhikkhu, v.v... :
Kinh về Lòng Nhân ái
Mettâ-sutta
I
Karaṇīyam-attha-kusalena
yantaṃ santaṃ padaṃ abhisamecca,
Sakko ujū ca suhujū ca
suvaco cassa mudu anatimānī,
1- Ai hằng thực hiện được những điều tốt lành,
2- Và mưu cầu đạt được thể dạng an bình thì phải hành động như sau:
3- Phải cố gắng, ngay thật và hoàn toàn liêm khiết,
4- Tuân thủ, hòa nhã và nhún nhường.
II
Santussako ca subharo ca
appakicco ca sallahuka-vutti,
Santindriyo ca nipako ca
appagabbho kulesu ananugiddho.
5- An phận, không tạo ra gánh nặng cho người khác,
6- Từ bỏ các mối lo toan thế tục, chọn một nếp sống đơn sơ,
7- Chủ động được xúc cảm, thận trọng, không xấc xược,
8- Không tranh dành với các người quyến thuộc trong gia đình.
III
Na ca khuddaṃ samācare kiñci
yena viññū pare upavadeyyuṃ.
Sukhino vā khemino hontu
sabbe sattā bhavantu sukhitattā.
9- Không phạm vào một sai lầm nhỏ nhoi nào,
10- Khiến các vị hiền nhân có thể chê trách.
11- Ước nguyện tất cả chúng sinh được hạnh phúc và an lành,
12- Và trong thâm tâm họ, niềm hân hoan luôn hiển hiện.
IV
Ye keci pāṇa-bhūtatthi
tasā vā thāvarā vā anavasesā,
Dīghā vā ye mahantā vā
majjhimā rassakā aṇuka-thūlā,
13- Nguyện cầu cho tất cả chúng sinh có giác cảm,
14- Dù yếu đuối hay khoẻ mạnh,
15- Khẳng khiu, béo phì hay trung bình,
16- Thấp lùn, nhỏ bé hay gọn gàng.
V
Diṭṭhā vā ye ca adiṭṭhā
ye ca dūre vasanti avidūre,
Bhūtā vā sambhavesī vā
sabbe sattā bhavantu sukhitattā.
17- Các chúng sinh nhìn thấy hay không nhìn thấy,
18- Đang ở bên cạnh hay trong những nơi xa xôi,
19- Đang hiện hữu hay mong muốn sẽ được sinh ra,
20- Không gạt bỏ một chúng sinh nào, tất cả đều tìm thấy an vui.
VI
Na paro paraṃ nikubbetha
nātimaññetha katthaci naṃ kiñci,
Byārosanā paṭīgha-saññā
nāññam-aññassa dukkham-iccheyya.
21- Cầu xin tất cả mọi người đừng lường gạt lẫn nhau,
22- Dù ở tận chốn nào, cũng không khinh miệt lẫn nhau,
23- Dù oán giận hay hận thù,
24- Cũng không làm hại nhau.
VII
Mātā yathā niyaṃ puttaṃ
āyusā eka-puttam-anurakkhe,
Evam-pi sabba-bhūtesu
māna-sambhāvaye aparimāṇaṃ.
25- Tương tự như người mẹ che chở cho đứa con duy nhất,
26- Dù phải hy sinh cả tánh mạng mình,
27- Thế nhưng luôn phải hướng vào tất cả chúng sinh,
28- Với tâm từ vô hạn.
VIII
Mettañca sabba-lokasmiṃ
māna-sambhāvaye aparimāṇaṃ,
Uddhaṃ adho ca tiriyañca
asambādhaṃ averaṃ asapattaṃ.
29- Hãy trải rộng tình thương vô biên trong khắp thế gian này,
30- Từ trên cao, dưới thấp và trong khắp mọi hướng,
31- Không có gì cản ngăn,
32- Không mảy may căm ghét, chẳng một chút hận thù.
IX
Tiṭṭhañ’caraṃ nisinno vā
sayāno vā yāvatassa vigatam-iddho,
Etaṃ satiṃ adhiṭṭheyya
brahmam-etaṃ vihāraṃ idham-āhu.
33- Dù đang đứng, đang đi, đang ngồi,
34- Hay đang nằm, trong những lúc tỉnh táo,
35- Luôn phát động một tâm linh tỉnh thức.
36- Đấy là cách sống cao quý nhất trong thế gian này.
X
Diṭṭhiñca anupagamma
sīlavā dassanena sampanno,
Kāmesu vineyya gedhaṃ,
Na hi jātu gabbha-seyyaṃ punaretīti.
37- Không rơi vào các quan điểm,
38- Hướng vào đạo đức và phát huy sự quán thấy,
39- Không bám víu vào những thèm khát giác cảm,
40- Người ấy sẽ không bao giờ còn quay lại để nằm trong một tử cung nào nữa.
Etena sacca vajjena - Sotthi me hotu sabbadā
Etena sacca vajjena - Sabba rogo vinasatu
Etena sacca vajjena - Hotu me jaya mangalaṃ
Vững tin vào sự thực đó - tôi cầu xin được mãi mãi tìm thấy an vui !
Vững tin vào sự thực đó - tôi cầu xin tránh khỏi mọi ốm đau !
Vững tin vào sự thực đó - tôi cầu xin đạt được sự an bình !
Bối cảnh của bài kinh
Sau đây là tóm lược bối cảnh đưa đến sự hình thành của bài kinh trên đây:
Có một lần Đức Phật đang ngụ tại thành Xá Vệ (Savatthi) thì có một
toán tỳ kheo từ nơi xa đến đây tìm Ngài để được nghe giảng về các phép
thiền định. Sau đó thì họ tìm đến một khu rừng gần đấy để an cư trong
mùa mưa (vassana). Thế nhưng các vị thần linh ngụ tại các gốc cổ thụ
trong rừng rất đỗi lo ngại vì đám người tỳ kheo có thể quấy rối và làm
mất đi cảnh thâm u nơi khu rừng của họ. Các vị thần linh liền hiện ra
và tỏ vẻ không bằng lòng và mong rằng toán người tỳ kheo sẽ sớm rời
khỏi nơi này. Thế nhưng họ lại cứ tiếp tục lưu lại vì thời gian kiết hạ
kéo dài đến ba tháng. Vì thế cứ đêm đêm các vị thần linh lại hiện ra để
quấy phá và dọa nạt họ.
Các vị tỳ kheo không thể an tâm mà thiền định trong quang cảnh đầy
sợ hãi ấy, họ đành phải tìm đến Đức Phật để bày tỏ sự lo âu của mình.
Đức Phật liền giảng cho họ bài Kinh về lòng Nhân Ái và khuyên họ hãy cứ
quay về nơi khu rừng trước đây và dùng bài kinh này để tự che chở cho
mình.
Các vị tỳ kheo quay trở lại nơi trú ngụ trước đây và đem bài kinh ra
tụng niệm. Khi họ tụng niệm thì một bầu không khí êm ả, tràn ngập yêu
thương và lòng nhân từ vụt tỏa rộng trong khắp khu rừng âm u. Các vị
thần linh đều bị chấn động bởi sức mạnh vô biên của tình nhân ái phát
động trong lòng các vị tỳ kheo. Thế rồi các vị thần linh cũng cảm thấy
thiện cảm đối với những người tu hành và đã để yên cho họ thiền định
trong quang cảnh êm ả của khu rừng.
Ghi chú
Trên phương diện hình thức thì bài kinh được trình bày dưới thể dạng một bài thơ, tức một loại thi kệ (tiếng Phạn gọi là gatha),
dùng để trì tụng hơn là để trình bày một triết lý thâm sâu hay một
khái niệm giáo lý trong Đạo Pháp. Nếu chú ý người ta cũng sẽ nhận thấy
là bài kinh không bắt đầu bằng một câu rất công thức là "Evam m'a sutam", có nghĩa là "Tôi đã từng được nghe như thế này",
đấy là cách xác định bài kinh là những lời giảng đích thật của Đức
Phật. Trong phần cuối của bài kinh cũng không thấy nói đến tác động
mang lại cho các vị tỳ kheo và các người được nghe giảng, giống như
trong các bài kinh khác.
Về phần nội dung thì có hai khía cạnh thật chính yếu cần nêu lên:
khía cạnh thứ nhất là tính cách thực tiễn và thực dụng của bài kinh nhằm
giúp các vị tỳ kheo hóa giải mọi sự sợ hãi của mình, khía cạnh thứ hai
là một sự "kết hợp" hay "chuyển tiếp" thật đẹp và hài hòa giữa căn bản
giáo lý của Phật Giáo Nguyên Thủy và Phật Giáo Đại thừa, tức là giữa
sự giải thoát cá nhân và lòng từ bi hướng vào tất cả chúng sinh.
Vào khoảng thời gian còn tu khổ hạnh trong khu rừng Ưu-lâu Tần-loa
cùng với năm anh em Kiều Trần Như, vị bồ-tát Tất-đạt-đa cũng đã từng
ngồi thiền trong đêm vắng, và trong những lúc ấy vị tu hành trẻ tuổi
cũng khó tránh khỏi những lúc sợ hãi: "Phải
tu tập trong đêm khuya và giữa cảnh vật như thế này thì thật là ái
ngại, nhất là khi có một con thú vụt chạy ngang hay một con công làm
gẫy một cành cây, hoặc trong những lúc gió rít qua cành lá. Trong bối
cảnh như thế thì thật là dễ sinh ra sự hốt hoảng và khiếp sợ" (Trung A Hàm, 4).
Trong đêm khuya giữa mùa mưa bão, các vị tỳ kheo ngồi trong các túp
lều dựng lên bằng cành lá cây rừng, rải rác trong quang cảnh âm u của
khu rừng thì tránh sao khỏi sự khiếp sợ. Sự khiếp sợ đó có thể đã phát
sinh trong đầu của các vị tỳ kheo và Đức Phật đã ban cho họ một liều
thuốc hóa giải là bài Kinh về lòng Nhân Ái. Trong liều thuốc đó nhân tố hiệu lực làm tan biến sự sợ hãi chính là tình Yêu Thương.
Trong cuộc sống thường nhật của chúng ta cũng thế, nếu chúng ta ngờ
vực những người xa lạ, dò xét và canh chừng những người không giống
chúng ta, thì sự sợ hãi và nghi ngờ rất dễ phát sinh. Mở rộng tình
thương và lòng trìu mến đến tất cả mọi người chung quanh chính là viên
thuốc mầu nhiệm nhất làm tan biến mọi nỗi khiếp sợ và lo âu trong tâm
thức của chính mình.
Thật thế, sự hung dữ, ích kỷ và nghi kỵ biết đâu là những gì ẩn nấp
một cách thật sâu kín trong tâm thức của mỗi người, và chúng chỉ hiện
lên trong đêm tối để dọa nạt khiến chúng ta phải khiếp sợ. Tiếng hát
của yêu thương trong lòng của các vị tỳ kheo vang lên qua những lời
tụng niệm đã mang lại cho khu rừng trong mùa mưa kiết hạ một bầu không
khí thật ấm áp, an bình và tràn ngập yêu thương. Chính tiếng hát đó đã
làm tan biến những sợ hãi đang ẩn nấp trong những góc kẹt nơi tận cùng
của tâm thức họ. Mầu nhiệm thay một liều thuốc của Yêu Thương.
Khía cạnh thứ hai của bài kinh phản ảnh một sự kết nối thật đẹp giữa
phép tu tập của Phật Giáo Nguyên Thủy giúp mỗi người trong chúng ta tìm
thấy con đường Giải Thoát, và lý tưởng của Đại Thừa chủ trương trải
rộng lòng Từ Bi vô biên đến tất cả chúng sinh. Câu 1 đến câu 10 của bài
kinh nêu lên các nguyên tắc căn bản trong giáo lý của Phật giáo Nguyên
Thủy, phản ảnh phần nào Bát Chánh Đạo, nhằm giúp cho một cá thể hướng
về sự Giác Ngộ. Các câu 11 đến 32 thì nêu lên tình yêu thương hướng vào
tất cả chúng sinh, phản ảnh lý tưởng Từ Bi của Đại Thừa. Trong phần
kết luận từ câu 33 đến câu 40 thì lại nhắc trở lại căn bản giáo lý của
Phật Giáo Nguyên Thủy liên quan đến sự quán thấy và loại trừ dục vọng và
mọi thèm khát giác cảm hầu giúp cho người tu tập vượt thoát khỏi cảnh
giới của luân hồi.
Trên đây là vài nét tổng quát về nội dung của bài kinh, và trong
phần dưới đây thì một vài ghi chú liên quan đến ý nghĩa của vài chữ hay
vài đoạn sẽ được nêu lên trong mục đích giúp chúng ta tìm hiểu bài kinh
một cách chính xác hơn. Đồng thời một vài chi tiết khác biệt giữa các
bản dịch cũng sẽ được nêu lên để cho thấy là việc dịch thuật cũng như
quá trình lưu giữ và quảng bá kinh sách đôi khi cũng khó tránh khỏi một
vài sai lạc thứ yếu.
- Các câu 1 và 2:
1- Ai hằng thực hiện được những điều tốt lành,
2- Và mưu cầu đạt được thể dạng an bình thì phải hành động như sau:
Người ta thấy trong một số bản dịch bên cạnh chữ an bình còn có ghi thêm chữ Niết-bàn
trong hai dấu ngoặc nhằm để giải thích cho chữ an bình. Cách giải
thích thêm này e rằng không được đúng lắm, vì một người mới "thực hiện
được những điều tốt lành" và chỉ biết giữ giới để mang lại cho mình một
thể dạng an vui chắc hẳn cũng chưa hội đủ khả năng để ý thức được được
Niết-bàn là gì.
- Các câu 13 đến 20:
13- Nguyện cầu cho tất cả chúng sinh có giác cảm,
14- Dù yếu đuối hay khoẻ mạnh,
15- Khẳng khiu, béo phì hay trung bình,
16- Thấp lùn, nhỏ bé hay gọn gàng.
Ý của các câu này là nêu lên các chúng sinh mang nhân dạng con người, dù họ mang hình tướng bên ngoài như thế nào, thí dụ như khẳng khiu, béo phì, nhỏ bé hay thấp lùn...,
thì cũng không nên vin vào đấy để phân biệt và đánh giá họ, thế nhưng
nhiều dịch giả lại xem đấy là các thứ loại chúng sinh khác nhau. Có lẽ
cách trình bày trong nguyên bản bằng tiếng Pa-li là "các chúng sinh dài hay to lớn, ngắn hay trung bình, nhỏ bé hay gọn gàng" không được rõ ràng lắm để chỉ định đấy là những nhân dạng.
Sự suy đoán này được căn cứ vào bốn câu trong tiết tiếp theo sau, vì
trong tiết này bản kinh mới đề cập đến các chúng sinh khác hơn với con
người:
17- Các chúng sinh nhìn thấy hay không nhìn thấy,
18- Đang ở bên cạnh hay trong những nơi xa xôi,
19- Đã sinh ra hay mong muốn sẽ được sinh ra,
20- Không gạt bỏ một chúng sinh nào, tất cả đều tìm thấy an vui.
Đối với bốn câu này cũng có một số dịch giả hiểu sai các chữ "các chúng sinh nhìn thấy và không nhìn thấy" và dịch là "các chúng sinh thuộc cõi sắc giới và vô sắc giới".
Thật ra thì rất có thể bài kinh chỉ muốn nêu lên một số các chúng sinh
mà chúng ta có thể nhìn thấy được chung quanh và một số khác thì vì
quá nhỏ bé hoặc sống trong các môi trường mà chúng ta không nhìn thấy
được, chẳng hạn như các sinh vật sống trong đáy nước, dưới các lớp đất
sâu, v.v... Sau đó thì câu 18 còn nhắc thêm chúng ta không được quên các
sinh vật ở những nơi xa xôi, chẳng hạn như các sinh vật sống trong
rừng sâu, nơi sa mạc và có thể cả bên ngoài vũ trụ...
Câu 19 nêu lên các chúng sinh "đã được sinh ra" và còn nhắc đến cả "các chúng sinh mong muốn sẽ còn được hình thành", có
nghĩa là còn mang nhiều tham dục và bám víu và ước mong sẽ còn quay
lại với chúng ta trong thế giới luân hồi. Ngoại trừ một số bản dịch của
các nhà sư Tích Lan trình bày đúng với ý nghĩa trong nguyên bản, còn
lại thì hầu hết các dịch giả khác đều dịch là "các chúng sinh đã và sẽ được sinh ra", cách dịch này không nói lên được ý nghĩa thật tế nhị trong nguyên bản là mong được tái sinh (sambhavesī = those who seek birth).
- Câu 37:
37- Không rơi vào các quan điểm,
Nhiều dịch giả thêm vào bên cạnh chữ quan điểm tĩnh từ sai lầm đặt trong ngoặc kép, hoặc dịch thẳng chữ quan điểm (diṭṭhiñ = views)
là tà kiến, mê lầm, lầm lạc, v.v... Theo giáo lý Phật Giáo thì tất cả
các quan điểm đều mang bản chất sai lầm, vì đã là quan điểm thì tất
nhiên mang tính cách công thức, nhị nguyên và quy ước. Hiện thực tượng
trưng bởi con đường Trung Đạo vượt lên trên tất cả mọi quan điểm. Đấy
chính là chỗ cao siêu và tinh tế trong câu kinh, không cần phải giải
thích thêm hay ghép thêm một từ nào khác để chỉ định tính cách sai lầm của các quan điểm.
- Câu 40:
40- Người ấy sẽ không bao giờ còn quay lại để nằm trong một tử cung nào nữa.
Ngoại trừ một số các bản dịch sang tiếng Anh của các nhà sư học giả
người Tích Lan ra thì hình như không thấy có bất cứ một bản dịch nào
bằng bất cứ ngôn ngữ nào giữ câu "không nằm trở lại trong một tử cung nào nữa" (gabbha seyyaṁ puna-r-etī) đúng với bản kinh gốc, mà đều dịch trại ra là "không còn quay lại thế giới này". Tuy rằng ý nghĩa của hai câu phát biểu có phần tương tự nhau, thế nhưng cách diễn đạt "không nằm trở lại trong một tử cung nào nữa"
mang nhiều ý nghĩa và tinh tế hơn, tức không quay trở lại cõi dục giới
và sắc giới (nhưng cũng có thể quay trở lại cõi vô sắc giới, vì chúng
sinh vô hình tướng trong cõi vô sắc giới không sinh ra nhờ vào một tử
cung). Hơn nữa cách diễn đạt trên đây tuy có hơi "quá mạnh" thế nhưng
cũng có thể gây ra nhiều tác động hơn đối với người đọc so với cách
phỏng dịch.
- 3 câu cuối:
Một vài bản kinh hiếm hoi có thêm ba câu mang hình thức những lời nguyện cầu như dưới đây:
Vững tin vào sự thực đó - tôi cầu xin được mãi mãi tìm thấy an vui !
Vững tin vào sự thực đó - tôi cầu xin tránh khỏi mọi ốm đau !
Vững tin vào sự thực đó - tôi cầu xin đạt được sự an bình !
Rất có thể đấy là những câu được thêm vào, không thuộc vào bản kinh gốc.
Tóm lại trên phương diện dịch thuật cần phải thận trọng, nhất là
dịch kinh sách. Một câu không chính xác hay một chữ không sát nghĩa cũng
có thể mang lại sự hoang mang cho người đọc. Ngay trong bối cảnh của
hiện tại, thế mà một bài kinh thật ngắn như bài kinh Mettâ Sutta
cũng đã được dịch ra không biết bao nhiêu phiên bản mang ít nhiều khác
biệt. Nếu nhìn lại quá khứ qua hàng nhiều trăm năm truyền khẩu trước
khi các bài kinh được ghi chép bằng chữ viết thì biết đâu sự sai biệt
còn có thể nặng nề hơn nhiều. Các lần kết tập Đạo Pháp trong quá khứ là
các dịp để người xưa kiểm soát lại kinh điển, loại bỏ những thêm thắt
đi trệch ra ngoài giáo lý, thí dụ lần kết tập do vua A-dục tổ chức vào
thế kỷ thứ III trước Tây lịch là một trong những lần kết tập quan trọng
nhất nhằm vào chủ đích trên đây.
Tóm lại người xưa đã lưu lại cho chúng ta những lời thuyết giảng vô
cùng uyên bác và thâm sâu của Đức Phật, chúng ta nên cố gắng và thận
trọng khi đem ra để cùng nhau nghiên cứu và học tập, hầu bảo tồn và
chia sẻ một cách trung thực với các thế hệ sau cái gia tài vô giá đó
của nhân loại.
Phần đọc thêm
Người đọc có thể đánh các chữ Mettâ Sutta hay Karaniya Mettâ Sutta
vào bất cứ trang tìm kiếm nào trên mạng Internet thì đều có thể tìm thấy
hàng chục bản dịch của kinh này của nhiều dịch giả khác nhau và bằng
nhiều ngôn ngữ khác nhau. Riêng đối với các bản Việt dịch thì có thể sử
dụng các chữ Kinh Từ Bi làm "chìa khóa" dò tìm, hoặc cũng có thể gõ
thẳng các chữ này vào khung tìm kiếm của trang web thuvienhoasen.org thì sẽ tìm được một số các bản Việt dịch đã được chọn lọc.
Ngoài ra cũng xin trích ra trong phần phụ lục dưới đây một bản
chuyển ngữ song hành toàn bộ bài kinh từ tiếng Pa-li sang tiếng Anh do
nhà sư Tích Lan Ānandajoti Bhikkhu thực hiện, hầu giúp những ai muốn
phân tích kỹ lưỡng hơn về bài kinh này.
Karaniya Mettâ Sutta
(Edited & Translated by Ānandajoti Bhikkhu)
(http://www.ancient-buddhist-texts.net/Texts-and-Translations/Short-Pieces/Mettasuttam.htm)
Karaṇīyam-atthakusalena yan-taṁ santaṁ padaṁ abhisamecca
What should be done by one skilful in good, who has comprehended the state of peace:
Karaṇīyam : what should be done (những gì cần nên làm)
attha (= atthe) : in good (một cách hoàn hảo, đúng đắn)
kusalena : by one skilful (bởi một người khôn ngoan, khéo léo)
yan-taṁ : (the one) who (người ấy)
santaṁ : of peace (an bình)
padaṁ : the state (thể dạng)
abhisamecca : has comprehended (đã hiểu được, đã ý thức được)
--------------------------
sakko ujū ca sūjū ca suvaco c' assa mudu anatimānī
he ought to be able, straight, and upright, easy to speak to, meek, without conceit,
sakko : able (có thể)
ujū : straight (thẳng thắn, chân thật)
ca : and (và)
sūjū : upright (chính trực, liêm khiết)
ca : and (và)
suvaco : easy to speak to (dễ bảo, tuân thủ)
c' (= ca) : and (và)
assa : he ought to be (hắn phải)
mudu : meek (nhu mì, hiền lành)
anatimānī : without conceit (không tự phụ, tự kiêu, ngạo mạn)
--------------------------
santussako ca subharo ca appa-kicco ca sallahuka-vutti
satisfied (with little), easy to support, with few duties, and light in living,
santussako : satisfied (hài lòng, vừa lòng)
ca : and (và)
subharo : easy to support (không đòi hỏi, "dễ nuôi")
ca and (và)
appa- : few (ít)
kicco : duties (sự lo toan, các mối bận tâm)
ca and
sallahuka- (= sa+lahuka) : (with) light (đơn sơ, thanh nhàn)
vutti : living (nếp sống, cuộc sống)
---------------------------------
sant' indriyo ca nipako ca appagabbho kulesu ananugiddho
with faculties at peace, prudent, not forward, and greedless among the families,
sant' (= santa) : peace (bình tâm, chủ động)
indriyo : faculties (khả năng, đức tính)
ca : and (và)
nipako : prudent (thận trọng)
ca and (và)
appagabbho (= a+pagabbho) : not forward (không xấc xược, trân tráo, trơ trẻn)
kulesu : among the families (trong gia đình quyến thuộc)
ananugiddho (= an+anugiddho) : greedless (không đòi hỏi quá đáng, tham lam quá độ)
--------------------------------
na ca khuddaṁ samācare kiñci yena viññū pare upavadeyyuṁ
he should not do the slightest thing whereby others who are wise might find fault (with him).
na : not (không)
ca : (connective particle) (liên từ)
khuddaṁ : slightest (nhỏ nhất, nhẹ nhất)
samācare : he should do (hắn cần phải làm, cần phải thực hiện)
kiñci thing (việc)
yena : whereby (theo đó, dựa vào đó)
viññū : wise (lịch duyệt, uyên bác)
pare others (các người khác)
upavadeyyuṁ : might find fault (có thể khiển trách)
------------------------------
"Sukhino vā khemino hontu sabbe sattā bhavantu sukhitattā
"(May all beings) be happy and secure, may all beings in their hearts be happy!
Sukhino : happy (hạnh phúc, an vui)
vā (= va) : (emphatic) (chữ dùng để nhấn mạnh, tỏ sự cương quyết)
khemino : secure (an lành, được che chở)
hontu : be (được)
sabbe : all (tất cả)
sattā : beings (chúng sinh)
bhavantu : may (they) be (cầu xin cho tất cả được)
sukhitattā (= sukhita+attā) happy in heart (hân hoan trong lòng)
Ye keci pāṇa-bhūt' atthi tasā vā thāvarā vā anavasesā
Whatsoever breathing beings there are - trembling, firm, or any other (beings),
Ye keci : Whatsoever (dù là)
pāṇa- : breathing (thở, linh hoạt, đang sống)
bhūt' (= bhūtā) : beings (chúng sinh)
atthi : there are (là, thì...)
tasā : trembling (run rẩy, yếu đuối)
vā : or (hay là)
thāvarā : firm (cứng cáp, khoẻ mạnh)
vā : or (hay là)
anavasesā : any other (lit.: what remains) (tất cả số [chúng sinh] còn lại)
--------------------------
dīghā vā ye mahantā vā majjhimā rassakāṇuka-thūlā
whether they be long or great, of middle size, short, tiny, or of compact (body),
dīghā : long (dài, khẳng khiu)
vā or (hay là)
ye : they (who) (họ là, thì)
mahantā : great (to lớn, béo phì)
vā or (hay là, họ thì)
majjhimā : middle (size) (vừa phải, trung bình)
rassak(a)- : short (ngắn, thấp lùn)
(a)ṇuka : tiny (tí tẹo, bé nhỏ)
thūlā : compact (body) (gọn gàng)
-----------------------------
diṭṭhā vā ye ca addiṭṭhā ye ca dūre vasanti avidūre
those who are seen, and those who are unseen, those who live far away, those who are near,
diṭṭhā : seen (trông thấy được)
vā : or (hay là)
ye : those who (họ là, họ thì)
ca : and (và)
addiṭṭhā (= a+diṭṭhā) unseen (không nhìn thấy được)
ye : those who (họ là, họ thì)
ca : and (và)
dūre far (away) (ở xa, cách xa)
vasanti live (sống)
avidūre near (gần, bên cạnh)
--------------------------------
bhūtā vā sambhavesī vā sabbe sattā bhavantu sukhitattā
those who are born, and those who still seek birth - may all beings in their hearts be happy!"
bhūtā : those who are born ([chúng sinh]đã được sinh ra, đang hiện hữu)
vā : or (hay là)
sambhavesī : those who seek birth (những ai mong muốn sẽ được sinh ra)
vā : or (hay là)
sabbe : all (tất cả)
sattā beings (chúng sinh)
bhavantu may (they) be (cầu xin cho tất cả được)
sukhitattā (= sukhita+attā) : happy in heart (hân hoan trong lòng)
----------------------------------
Na paro paraṁ nikubbetha nātimaññetha katthaci naṁ kañci
No one should cheat another, nor should he despise anyone wherever they be,
Na : no (không)
paro : one (lit.: other) (người này)
paraṁ another (người kia)
nikubbetha should cheat (lường gạt)
nātimaññetha (= na+atimaññetha) : nor should he despise (cũng không khinh miệt)
katthaci : wherever (dù sao, dù như thế nào)
naṁ kañci : anyone (bất cứ ai)
---------------------------------
byārosanā paṭigha-saññā nāññam-aññassa dukkham-iccheyya
he should not long for suffering for another because of anger or resentment.
byārosanā : because of anger (vì giận dữ)
paṭigha-saññā because of (an idea of) resentment (vì oán hờn)
n(a) : not (không)
(a)ññam-aññassa for another (cho người khác)
dukkham suffering (khổ đau)
iccheyya : he should long (không nên, không được làm cho)
---------------------------------
Mātā yathā niyaṁ puttaṁ āyusā eka-puttam anurakkhe
in the same way as a mother would protect her child, her only child, with her life,
Mātā : a mother (một người mẹ)
yathā in the same way as (cũng thế)
niyaṁ her (lit.: one's own) (của bà ấy)
puttaṁ son (đứa con trai)
āyusā : life (mạng sống, tính mạng)
eka- : only (lit.: one) (duy nhất, độc nhất)
puttam child (đứa con)
anurakkhe would protect (phải bảo vệ, che chở)
------------------------------------
evam-pi sabba-bhūtesu mānasaṁ bhāvaye aparimāṇaṁ
so toward all beings he should develop the measureless thought (of friendliness).
evam : so (vậy, như vậy)
pi : (emphatic) (từ dùng để nhấn mạnh một hành động)
sabba- : all (tất cả)
bhūtesu toward beings (đối với chúng sinh)
mānasaṁ : thought (tâm, tâm [từ])
bhāvaye he should develop (hắn phải phát huy, phát động)
aparimāṇaṁ measureless (vô biên)
-----------------------------------
Mettañ-ca sabba-lokasmiṁ mānasaṁ bhāvaye aparimāṇaṁ
Towards the whole wide world he should develop the measureless thought of friendliness,
Mettañ : friendliness (lòng thân thiện, thiện cảm)
ca (connective particle) (liên từ)
sabba- whole (toàn thể, toàn diện)
lokasmiṁ : towards the world (đối với thế giới này)
mānasaṁ thought (tâm, tâm [từ])
bhāvaye he should develop (hắn phải phát động, phát huy)
aparimāṇaṁ : measureless (vô biên)
uddhaṁ adho ca tiriyañ-ca asambādhaṁ averaṁ asapattaṁ
above, below, and across (the middle), without barriers, hate, or enemy.
uddhaṁ : above (bên trên)
adho : below (bên dưới)
ca and (và)
tiriyañ across (xuyên ngang, khắp hướng)
ca and (và)
asambādhaṁ (= a+sambādhaṁ) : without barriers (không có gì cản ngăn)
averaṁ (= a+veraṁ) : hate (thù ghét)
asapattaṁ (= a+sapattaṁ) without enemy (không kẻ thù)
-----------------------------------
Tiṭṭhaṁ caraṁ nisinno vā sayāno vā yāvat' assa vigatamiddho
Standing, walking, sitting, lying, for as long as he is without torpor,
Tiṭṭhaṁ : Standing (đang đứng)
caraṁ : walking (đang đi)
nisinno sitting (đang ngồi)
vā (or) (hay là)
sayāno : lying (đang nằm)
vā (or) (hay là)
yāvat' (= yāvatā) for as long as (miễn là, chừng nào, bất cứ lúc nào)
assa he is (hắn còn)
vigata without (không)
middho : torpor (hôn mê, hốt hoảng, mất sự tỉnh táo)
-------------------------------------
etaṁ satiṁ adiṭṭheyya brahmam-etaṁ vihāraṁ idha-m-āhu
he should be resolved on this mindfulness, for this, they say here, is the (true) spiritual life.
etaṁ : this (điều ấy, việc ấy)
satiṁ : mindfulness (tâm linh tỉnh thức)
adiṭṭheyya should be resolved on (nên thực hiện, phải thực hiện)
brahmam : spiritual (tâm linh, tinh thần)
etaṁ this (đấy, điều ấy)
vihāraṁ : life (nếp sống, cách sống)
idha : here (nơi này)
m : (euphonic particle) (từ tạo ra âm hưởng êm tai, không có nghĩa)
āhu : they say (người ta nói thế)
------------------------------------
diṭṭhiñ-ca anupagamma sīlavā dassanena sampanno
without going near to (wrong) views, virtuous, and endowed with (true) insight,
diṭṭhiñ : views (quan điểm)
ca : (and) (và)
anupagamma (= an + upagamma) : without going near (không bám vào)
sīlavā : virtuous (đạo đức)
dassanena : insight (sự quán thấy sâu sắc)
sampanno : endowed (mang lại, tạo ra)
------------------------------------
kāmesu vineyya gedhaṁ na hi jātu gabbha seyyaṁ puna-r-etī ti
having removed (all) greed for sense pleasures, he will never come to lie in a womb again.
kāmesu : for sense pleasures (lạc thú giác cảm)
vineyya : having removed (loại bỏ được)
gedhaṁ : greed (ham muốn, đòi hỏi)
na : not (không)
hi : emphatic (từ dùng để nhấn mạnh)
jātu : emphatic (từ dùng để nhấn mạnh)
gabbha : womb (tử cung)
seyyaṁ lie (nằm vào)
puna : again (thêm nữa)
r (euphonic particle) (liên từ)
eti will come (sẽ, sẽ trở thành)
ti (quotation marker) (từ chỉ định một sự trích dẫn)
Bures-Sur-Yvette, 05.11.11
Hoang Phong