Chúng ta, toàn thế giới, phải đương đầu
với sự sai lầm này, thật là tệ. Chúng ta phải thật sự lưu tâm đến hoàn
cảnh của chúng ta đang sống. Chúng ta cần phải truy nguyên tận căn để
của tất cả các mối nghi ngờ và hiểu lầm của mình, và chúng ta có thể bắt đầu
như thế nào để loại trừ nó một cách tốt nhất. Và chúng ta phải luôn luôn
nhớ rằng, nếu chúng ta không thực hiện điều này, chúng ta phải đối đầu với các trở ngại đó.
Khi phân tích điều này,
chúng ta thấy vấn đề không phải hoàn toàn do chính trị hay ngay cả kinh
tế. Chiều sâu của vấn đề còn xa hơn thế nữa. Chính trị và kinh tế chỉ là
những từ ngữ được con người văn minh dùng để che giấu các bản năng
không văn minh của mình. Những gì làm cho tất cả chúng ta – toàn thể
nhân loại phải khổ đau, đó là do họ luôn nghĩ rằng vật chất là nhu cầu
cần thiết cho đời sống. Và chủ nghĩa duy vật chú trọng quá mức đến các
tiện nghi đời sống vật chất, không màng đến giá trị đời sống tâm linh,
hoặc rằng, cảm thấy đời sống vật chất tốt hơn các giá trị đạo đức. Cùng
một lúc, chúng ta muốn ôm giữ những gì chúng ta có được, trong khi đó
lại quyết định chộp lấy một cái gì mà một người khác đang ôm giữ. Thật là sai lầm khi chúng ta tin rằng hạnh phúc tùy thuộc vào vật sở hữu nhiều hơn những gì chúng ta cần hoặc những vật mà ta sử dụng.
Chúng ta chỉ vừa thoát
khỏi một cuộc chiến tranh hủy diệt, nhưng một bầu không khí đầy mưu
toan [chiến tranh] lại hiển hiện nữa rồi. Cùng lúc, tất cả chúng ta đều
biết rằng điều này sẽ thay đổi không lường được, có thể làm cho thế giới
chấn động với cường độ mà trước đây chưa từng có. Tất cả điều đó là do
chúng ta cho phép lòng tham vật chất của mình phát triển trong nỗi lo âu
và sân hận của đồng loại. Đó là luật rừng dựa trên bản năng được diễn
đạt bằng những thuật ngữ mới – đó là, bom nguyên tử.
Tại sao chủ nghĩa duy vật lại bám chắc vào tâm trí của con người văn minh kỹ thuật như vậy? Đừng hiểu lầm ý tôi muốn nói, [ở đây tôi muốn nói rằng] – chưa có lúc nào đại đa số quần chúng thuộc
chủ nghĩa duy vật cực đoan nhiều như ngày nay. Cho đến nay, tôn giáo đã
nắm giữ một phần nào thế cân bằng giữa sự đối lập của chủ nghĩa duy vật
và tâm linh, tuy nhiên vấn đề này vẫn còn bấp bênh. Nhưng càng về sau,
đĩa cân này đã nghiêng nặng về phía chủ nghĩa duy vật – đến nỗi nó được
các thế lực chính trị phê chuẩn và đã trở thành một tôn giáo.
Đối với hầu hết mọi người, nhân
sinh quan duy vật dường như được khoa học ủng hộ; vì vậy họ đưa ra cán
cân giá trị dựa trên một đồ biểu trắc lượng do khoa học cung cấp, và tôn
giáo dường như không có giá trị gì đối với khoa học cả. Khoa học chẳng
cung cấp cho họ đủ để thiết lập sự thăng bằng giữa những lợi ích trước
mắt mà họ có được do tiện nghi của đời sống vật chất đem đến; hơn nữa,
những tiện nghi vật chất này chỉ mang tính chất ngoạn mục và chỉ có sức
hấp dẫn bên ngoài. Tinh thần hay tri thức của con người vẫn chưa trưởng
thành, cũng giống như một đứa trẻ con chọn một bức ảnh màu lòe loẹt và thô kệch, thay vì chọn một bảng điêu khắc bằng đá với đường nét sắc xảo và thanh nhã.
Và hơn thế, cũng cần nói về
quan điểm của một người Tây phương không có cơ may hiểu biết về một tôn
giáo cao cả đã phát hiện ra chân lý tối thượng, mà chúng ta gọi là đạo
Phật. Tôn giáo ở phương Tây đã không đáp ứng nổi hạnh phúc cho con người
– ngay cả cho người nghèo khổ; hạnh phúc mà con người có được nhờ điện ảnh, máy thu thanh và các sản phẩm của nền văn minh kỹ thuật
khác chỉ là phù du. Những năm gần đây, những tín ngưỡng tôn giáo ở
phương Tây đã bị những phát minh của khoa học làm suy yếu dần, những
phát minh này đã mở ra những chân trời kiến thức xa rộng hơn mà những
nhà tiên tri xa xưa chưa từng mơ tưởng đến. Từng bước một, các tín
ngưỡng xa xưa đã bị từ bỏ. Vị trí của những tín ngưỡng này đã bị các sự
thật ác nghiệt của khoa học cướp đi, những sự thật này không chừa chỗ
cho các học thuyết thần linh hay một linh hồn bất tử, vì những sự
thật này chỉ vạch ra cách vận hành của định luật nhân quả vũ trụ, và
định luật nhân quả này xác định con người với mối liên hệ vũ trụ bằng
một quan điểm hoàn toàn khác biệt.
Những khám phá gần đây trong
lĩnh vực vật lý hạt nhân lại một lần nữa đã làm thay đổi sự cân bằng,
thời đại này vượt xa các quan điểm duy vật tuyệt đối của các nhà khoa
học trước đây. Thật sự, vẫn không có chỗ cho những tín ngưỡng vật linh
hay hữu thần; không có một bằng chứng nào cho thấy sự tồn tại một đấng
sáng thế hay một thực thể tồn tại bất biến trong bất cứ một sự vật hiện
tượng nào. Nhà khoa học ngày nay có khuynh hướng quan tâm đến động lực
cuộc sống như một cái gì đó tương tự với năng lượng điện tử, không có gì
khác. Ngoài ra, khái niệm vật chất “tĩnh” cổ điển đã chuyển thành khái
niệm “động”. Tất cả thực thể vật chất bây giờ được xem như là không thực
thể, đó là sự tập hợp của các động lực sinh diệt từng khoảnh khắc. Theo
ông Arthur Eddington, “Định luật thứ hai của nhiệt động lực” (Second
Law of Thermodynamics) vẫn là nền tảng căn bản nhất của tất cả các chân
lý mang tính khoa học. Định luật này nói rằng mọi sự vật tồn tại đúng
thời kỳ chắc chắn phải suy vi, hư hoại và cuối cùng bị hủy diệt.
Với các triết gia Tây phương, điều này được xem là “kết thúc khủng
khiếp”, nhưng đối với Phật tử, điều đó không có gì, chỉ là Anicca - định luật vô thường, một trong những chân lý nền tảng của Phật giáo.
Cấu trúc siêu vi của vật chất là
nguyên tử; nó gồm có các điện tử (electrons) các phân tử (positrons) và
các nơ-tơ-ron (neutrons), và khi khám phá được điều này, khoa học đang
rút khỏi chủ nghĩa duy vật. Nó tách khỏi những niềm tin tôn giáo thông
thường, nhưng nó càng lúc càng xích lại gần Phật giáo hơn. Để nắm bắt
một ngành khoa học hiện đại khác như tâm lý học, chúng ta thấy rằng Giáo
sư William James – một nghiên cứu viên nổi tiếng nói rằng chúng ta có
thể nhận ra tiến trình tâm lý và sự thay đổi liên tục của nó, nhưng
không có nơi nào có thể tìm thấy một thực thể nối kết thường hằng. Lại
một lần nữa, kết luận này thật sự làm đảo lộn những người tin vào linh
hồn bất tử, nhưng lại khá quen thuộc với Phật tử, những người đã nhận ra được điều đó như là chân lý nền tảng khác của tôn giáo mình, đó là định lý Anattaa [vô ngã].
Bàn về sự tương tục nhân quả của đời sống, mà Phật giáo gọi là Nghiệp (Kamma),
hay còn gọi là định luật nhân quả. Chúng ta nhận thấy rằng tự thân khoa
học bây giờ phải chấp nhận khả năng của các nhân vận hành ở cấp độ khác
với cấp độ mà chúng ta được biết ngang qua sự hiểu biết bình thường của
mình. Tổng kết các bài nghiên cứu về cơ khí lượng tử của mình, nhà vật
lý học nổi tiếng Max Planck nói rằng: “Khái niệm của thuyết nhân quả là cái gì đó siêu việt, hoàn toàn không phụ thuộc
vào những loại nghiên cứu, và nó sẽ có giá trị nếu như không có một
chút nào nhận thức về đối tượng… Chúng ta phải phân biệt giữa tính giá
trị của nguyên lý nhân quả và tính khả thi của việc ứng dụng nó.” (The
concept of causality is something transendental – quite independent of
the nature of the researches, and it would be valid if their were no
perceiving subject at all… we must distinguish the validity of the
causal principle and the practicability of its application). Nói cách
khác, chúng ta phải thừa nhận những nguyên nhân vượt ngoài nhận thức của
chúng ta, nhưng chúng chắc chắn là các nhân tuân theo một định luật gắn
liền với bản thân chính nó. Chúng ta không thể nào cho rằng nguồn gốc
siêu nhiên về các sự vật hiện tượng vượt ngoài lĩnh vực nhân quả, chỉ vì
chúng ta không thể hiểu các định luật của nó. YÙ tưởng [nguồn gốc siêu
nhiên về các sự vật hiện tượng vượt ngoài lĩnh vực nhân quả] đã tồn tại
trong hầu hết các hình thức tư tưởng tôn giáo, [ngoại trừ Phật giáo].
Do đó, Phật giáo không đẩy nguyên
lý nhân quả vào một vị trí đối lập với khoa học như trường hợp của các
hệ thống tôn giáo khác. Mặc dù học thuyết tiến hóa của sinh vật
học là chủ đề lớn gây tranh luận giữa tín đồ Thiên Chúa giáo và những
người theo chủ nghĩa duy lý, nhưng nó chẳng có ý nghĩa gì dưới ánh sáng
của Phật giáo. Trong những vấn đề như vậy, người Phật tử được yêu cầu là
không xác định hay phủ nhận. Cũng cần nói thêm rằng khoa học đã đập đổ
hầu hết các tín ngưỡng tôn giáo phương Tây, và thật là không may, cấu
trúc đạo đức học lại dựa trên các tín ngưỡng tôn giáo này. Khoa học
[ngày nay] đang xác nhận theo cách riêng của mình về triết học sâu sắc
đã được đức Phật dạy trên 2.500 năm về trước. Sự giải thích của khoa học
có thể đi vào ngõ cụt, trong khi Chân giáo pháp của Phật giáo thì vẫn
có thể giải quyết được. Tự thân kiến thức của Phật giáo dựa trên những
nguyên lý khoa học mà mọi người có thể kiểm duyệt bằng kinh nghiệm riêng
của mình, không dựa trên giáo điều, vì khoa học có tiến bộ tới đâu đi
nữa thì lại càng phù hợp Phật giáo tới đó.
Tôn giáo tương lai sẽ là Phật
giáo, điều này không còn nghi ngờ gì nữa. Nếu điều ấy không phải như
vậy, Phật giáo phải đoạt lại tinh thần tín ngưỡng của nhân loại được đức
Phật tuyên bố bằng những nguyên lý sống động, đó là: Đạo đức, trí tuệ,
lòng từ bi và tình hữu nghị đại đồng. Và chính vì vậy như tôi đã nói
đoạn trước, vì chỉ có Phật giáo mới đề cập đến những vấn đề: Chính chúng
ta là người sáng tạo đời sống của chúng ta; những phiền não là do từ
tham, sân, si; hoặc là do con người chưa nhận thức được bản chất thật
của mình, và hạnh phúc vĩnh hằng thật sự nằm ở trong ta. Vì là một tôn
giáo phù hợp với tri thức khoa học, Phật giáo có thể khôi phục các giá
trị tinh thần đã mất và mở ra con đường trong giai đoạn tiếp theo cho sự
tiến hóa của nhân loại.
Chúng ta biết rằng lời dạy của đức Phật (Buddha Sasana)
sẽ tồn tại như Ngài đã tiên đoán, cho đến khi dù chỉ có một số người
duy trì chánh pháp, thì đạo Phật vẫn còn ở đời. Nhưng chúng ta không
được hài lòng với điều đó. Toàn thể nhân loại cần lời dạy của đức Phật,
nếu nền văn minh được cứu vãn.
Chúng ta đang tiến dần đến
đỉnh cao vĩ đại của giáo Pháp, và mặc dù có những nguy hiểm đáng sợ đang
đe dọa thế giới chúng ta, trào lưu phục hưng tôn giáo vẫn đang có chiều
hướng phát triển mạnh, mà trước đây phương Tây chưa từng biết đến. Bóng
tối chỉ tồn tại khi bình minh chưa đến và chúng ta có thể sống để thấy
Phật giáo khai quang thế giới bằng niềm hy vọng mới của thời đại
huy hoàng. Nhưng điều này sẽ không bao giờ đến nếu chúng ta không nỗ
lực; chúng ta phải ra sức hỗ trợ bằng cách trước hết hãy hồi sinh chánh
pháp trong đời sống của chính chúng ta. “Appamaadena sampaadetha!” – Hãy nỗ lực tinh cần, đức Phật dạy như vậy. Nếu các nước đã từng bảo tồn lời dạy của đức Phật (Sasana)
trong nhiều thế kỷ, như Miến Điện đã thực hiện, thì chúng ta hãy nỗ lực
tinh cần làm cho Phật giáo trở thành nguồn cảm hứng và hãy chứng minh
chân lý của Phật giáo đến toàn thể nhân loại, thì thế giới ngày mai sẽ
mãi mãi mang ơn.
Trích dịch từ nguyên tác “Buddhism
and the Future” trong The Buddhist Outlook của Francis Story (Ven.
Anagaarika Sugataananda) vol. I, (Srilanka, Kandy, Buddhist Publication
Society, 1973), được Nyaanaponika Thera biên tập, trang 54 – 57.
Francis Story (Ven. Anagaarika Sugataananda) - Thích Nữ Liên Hiếu dịch
* * *