(chim "bắt
cô trói cột" của vùng rừng miền Đông Nam Bộ). Rồi đến tiếng sô-lô thanh
thoát của những chú chim chìa vôi trên nền trầm của tiếng gáy cu cườm.
Rồi không gian vỡ oà bởi cơ man nào là tiếng của muôn chim.
Ngoài kia, những cánh đồng lúa xanh mướt mênh mông
bát ngát kéo dài đến tận chân trời được viền bởi bóng tím sẫm của dãy
Terai. Bồng bềnh bên trên dãy núi ấy là những chỏm tuyết trắng của Hy Mã
Lạp Sơn hùng vĩ. Và trùm lên tất cả là bầu trời xanh ngăn ngắt không
một bóng mây. Không khí tinh khiết đến mức có thể nghe được sương đêm
thoang thoảng bay lên trong nắng sớm khi mấy con nai vàng giẫm khẽ khàng
lên những lá cỏ như sợ làm phiền buổi tọa thiền sáng sớm của những bậc
chân tu. Nắng lấp lánh trên mình nai, chúng đưa đôi mắt nâu to dịu dàng
nhìn bóng những ngôi chùa thấp thoáng qua rặng cây rồi lặng lẽ đi vào
khu đồng cỏ.
Nepal là một thiên đường cho chim và những người yêu quý chim muông...
Đồng cỏ với những khoảng nước ngập sau mùa mưa, gió
chờn vờn trên những chùm hoa trắng xóa. Nơi đây, thu cũng đã kịp gọi sếu
về làm tổ.
Người ta thường nghĩ rằng, gọi loài chim sarus crane
này là sếu nghe có vẻ quê mùa và gọi chúng là "hạc" thì sang hơn, tôn
quý hơn. Thật ra hạc là một từ Hán Việt, còn sếu là từ thuần Việt. Chưa
chắc "hạc" đã hơn "sếu", mà nói đúng ra, "sếu" còn tôn quý hơn, xưa hơn
và chính xác hơn "hạc". Tên "sarus" xuất xứ từ "sarasa" của Sanskrit,
nghĩa là "loài chim ở hồ". Từ "sarasa" này vay mượn từ ngữ căn "sar" của
hệ ngôn ngữ Austro-Asiatic (ngôn ngữ của người Naga, chủ nhân đầu tiên
của lục địa Ấn Độ và cũng là ngôn ngữ của tổ tiên người Việt cổ). Theo
tên gọi này, tên Việt nôm na của chúng: "sếu" (theo hệ ngôn ngữ
Austro-Asiatic) là chính xác và cổ xưa hơn từ "hạc" có lẽ đến vài ngàn
năm.
Một số sách lịch sử Phật giáo khi phiên dịch ra tiếng
Việt từ nguồn Hán tạng có kể câu chuyện Đức Phật Thích Ca và chim thiên
nga. Theo đó thì khi còn là một thiếu niên, một hôm trong vườn ngự
uyển, hoàng tử Siddartha bắt gặp một con thiên nga bị thương bởi một mũi
tên của Devadatta. Siddartha nhổ mũi tên ra và cứu chữa cho chú chim
tội nghiệp. Nhưng Devadatta khi phát hiện được đã lên tiếng đòi con chim
do mình bắn được. Cả hai không ai chịu ai và đi đến tranh cãi gay gắt.
Theo truyền thống dân chủ cộng hòa của gia tộc Sakya, vụ việc được đưa
ra Mote Hall (Nhà hội nghị, như Quốc Hội ngày nay) cho cả hai trình bày
lý lẽ của mình và để toàn bộ các thành viên nam trong gia tộc phán
quyết. Siddartha đã được quyền giữ chú chim kia khi lý luận rằng: "Sinh
mạng con chim thuộc về người cứu nó chứ không phải thuộc về kẻ tước đoạt
nó".
Theo học giả Hemraj Shakya, người tinh thông các ngôn
ngữ cổ như Brahmi, Sanskrit, Pali - cây đại thụ uy tín trong giới
nghiên cứu về lịch sử và văn hóa cổ đại của Ấn Độ và Nepal - thiên nga
hoặc ngỗng trời ở vùng này không có, mà con chim trong câu chuyện trên
chính là chim sếu, một loài chim đặc hữu của quê hương Đức Phật Thích
Ca. Theo các nhà khoa học, loài sếu này phân bố khắp miền Bắc Ấn; tuy
nhiên ở Nepal chúng chỉ sinh sống ở Kapilavastu (quê cha của thái tử
Siddartha - Đức Phật) và khu vực xung quanh Lumbini. Vùng này, ngoài Đức
Phật Thích Ca, còn là quê hương của hai vị Phật trong quá khứ, đó là
Krakucchanda (Câu Lưu Tôn) và Kanakamuni (Câu Na Hàm Mâu Ni), cả hai nơi
đều được Đại đế Asoka dựng cột đá đánh dấu. Không phải ngẫu nhiên mà
chim sếu được khắc trên trụ đá ở Niglihawa, theo khám phá của riêng tôi,
đây là trụ đá Asoka duy nhất được khắc hình ảnh động vật- một cách thức
tôn vinh loài chim thiêng ở quê hương các Đức Phật của Asoka. Chính xác
thay các kinh sách cổ khi nói rằng chim sếu tụ hội ở những nơi có thánh
nhân.
Nepal là một thiên đường cho chim và những người yêu
quý chim muông. Xứ sở này có khoảng 900 chủng loại chim, chiếm 8% chủng
loại chim của thế giới. Chín chủng loại được đưa vào danh sách bảo tồn
của Chính phủ Nepal bao gồm sếu, cò trắng, và cò nâu. Xứ này có luật bất
thành văn rằng mọi người phải yêu quý muông thú, không giết hoặc ăn
thịt chim hoang dã, mà thật ra cũng không cần luật vì nó đã ăn sâu vào
tiềm thức của mỗi người và được nhắc nhở giáo dục thường xuyên trong tất
cả mọi cấp lớp của trường học. Vì thế, ngay cả ở nơi trung tâm đô thị
như thủ đô Kathmandu, người ta vẫn có thể nhìn thấy hàng đàn cò trắng,
cò nâu đậu dày đặc theo các bờ sông hay làm tổ trên các cây cổ thụ.
Vùng Lumbini (Lumbini zone) là phần mở rộng của đồng
bằng sông Hằng với một số con sông nhỏ, trong đó nổi tiếng nhất trong
lịch sử Phật giáo là con sông Dầu (Telar Khola) đã được Ngài Huyền Trang
mô tả trong Hồi ký Tây Du (Si yu ki). Vùng Lumbini rộng khoảng
140.000 ha, ở độ cao khoảng từ 95m đến 1.200m trên mực nước biển. Khí
hậu bán nhiệt đới, với mùa nóng dài hơn mùa lạnh và có bốn mùa: xuân,
hạ, thu (mưa) và đông. Nhiệt độ vào mùa hè thường trên 30ºC, có thể lên
đến 38-390C, và mùa đông rơi xuống trên dưới 15ºC. Mùa mưa
rơi vào các tháng 6, 7, 8 và có thể kéo dài sang cả 9, 10. Vào mùa thu
thì ngày ấm và đêm lạnh. Tổng diện tích đất do con người sử dụng chiếm
đến 68% (cư trú và canh tác). Đồng cỏ chiếm 6% diện tích đất dọc theo bờ
sông và trong khu bảo tồn Lumbini, đấy chính là nơi sếu làm tổ và kiếm
thức ăn chính. Con sông Dầu chảy xuyên qua khu vực bảo tồn Lumbini và
vùng đất ngập nước do nó tạo nên trong khu vực Lumbini được quy hoạch
thành khu bảo tồn hạc của Nepal.
Sarus crane hay sếu đầu đỏ của vùng này cùng một
chủng loại với sếu đầu đỏ ở vùng Đồng Tháp Mười của Việt Nam. Đây là
loài sếu cao nhất, khi đứng thẳng từ chân lên đến đỉnh đầu khoảng 2m,
sải cánh khi dang ra hết cỡ rộng đến 2,5m. Sếu trưởng thành nặng từ
7-10kg, toàn thân phủ một lớp lông xám nhạt, ở đỉnh đầu không lông với
da mịn mướt màu xanh ve chai, toàn bộ lông đầu và phần trên của cổ màu
đỏ huyết dụ. Chân có màu đỏ nhạt. Chim mái thường nhỏ hơn chim trống
chút ít. Chim non có bộ lông tơ vàng ánh trên đầu và thân mình sậm hơn
màu nâu quế.
Sếu đầu đỏ là loài chim không thiên di, chỉ di chuyển
giữa các vùng thức ăn vào thời gian chuyển tiếp giữa mùa khô và mùa
mưa. Chúng là loài chim thân thiện với con người đến mức gần như không
sợ người, kể cả nơi có mật độ dân cư cao như vùng Bắc Ấn. Tuy nhiên,
cũng phải nói thêm rằng, điều này vì địa phương này có truyền thống
"chung sống hòa bình" giữa các giống loài trải qua vài ngàn năm. Tuổi
thọ một con sếu có lẽ lên đến nửa thế kỷ (người ta đã thấy một con sếu
được nuôi từ nhỏ với người sống đến hơn 40 năm). Ở Ấn Độ và Nepal, sếu
được coi là chim thiêng và người ta không bao giờ xâm phạm đến chúng.
Chim non thì mừng rỡ chạy đến khi người ta vẫy tay, quấn quýt với người
cho chúng ăn như những chú cún con. Và cũng như chó, chúng rất hung dữ
với người lạ bước vào ngôi nhà của chủ chúng, (thêm một điều buồn cười
là chúng rất ghét chó, hễ bất cứ con chó nào lảng vảng trong sân là nó
lập tức rượt đuổi).
Môi trường sống của sếu là những cánh đồng nước ngập
theo mùa, đồng cỏ, ruộng lúa, hồ nước. Ban đầu chúng tôi nghĩ sếu là
loài "ăn chay", nhưng trong thực tế, sếu ăn khá nhiều loại thức ăn: cỏ,
cây thủy sinh, rễ, củ, các loại hạt, động vật không xương sống, côn
trùng, động vật nhỏ…
Tôi đã gặp một điều thú vị ở Lumbini. Theo quy hoạch,
Chính phủ Nepal lập ra làng Đức Phật (Buddha nagar) để tái định cư
những gia đình sinh sống trong khuôn viên vườn Lumbini. Ở làng này vào
mùa thu, cứ chiều chiều lại có một con sếu hoang đi đến từng nhà để
"khất thực". Đến trước mỗi cửa nhà, nó dừng lại gật gật đầu mấy cái như
chào chủ nhà rồi đứng đợi người ta cho thức ăn. Nó không "khất thực" duy
nhất một nhà mà mỗi nhà chỉ ăn chút ít rồi sang nhà khác dọc theo một
con đường dài chừng 50m. Tôi thường ngồi uống trà sữa khoảng giữa con
đường đó để đợi nó. Nó đến rất đúng giờ, tầm 4 giờ chiều mỗi ngày. Tôi
lấy bánh quy đưa cho nó. Sếu khéo léo dùng chiếc mỏ dài gắp từng cái
bánh trong tay tôi, đặt xuống đất và dùng mỏ bẻ làm hai miếng rồi mới từ
tốn ăn từng miếng; sau đó mới gắp cái bánh khác. Lần nào nó cũng chỉ
nhận 5 cái bánh quy rồi thôi. Sau khi ăn xong, sếu cúi đầu chào tôi vài
cái rồi mới thong thả đi sang nhà kế bên nhận thức ăn. Không ai biết nó
từ đâu tới cũng như đã bao nhiêu tuổi. Làng này mới thành lập trên dưới
15 năm và từ những năm đầu người ta nói là đã thấy con sếu kia về "khất
thực".
Sếu thường được coi như biểu tượng của sự chung thủy,
người ta tin rằng chúng kết đôi với nhau một lần cho suốt cuộc đời, và
nếu một trong hai mất đi, con còn lại sẽ nhịn ăn đến chết.
Vô cùng trùng hợp, mùa sếu kết đôi và làm tổ lại rơi
vào đúng mùa lễ hội lớn nhất trong năm của Tiểu Lục địa Ấn Độ: Dashain
và Tihar. Mùa lễ hội này quan trọng như Tết Nguyên Đán của người Việt
Tổ chim sếu làm bằng các loại cây cỏ của vùng nước ngập
Khi vào mùa làm tổ, sếu bắt cặp và biểu diễn những
điệu luân vũ kèm theo bản hợp ca ngập tràn hạnh phúc. Tiếng hoan ca của
chúng là một tràng những âm thanh phức hợp, hòa điệu lần lượt giữa tiếng
chim trống và chim mái. Cứ mỗi tiếng gáy của chim trống thì chim mái
gáy theo hai tiếng ngắn. Cả hai vươn người trong một tư thế hoàn mỹ, đầu
ưỡn về sau, mỏ há vươn lên bầu trời như muốn gửi thông điệp yêu thương
tới toàn vũ trụ. Rồi chim trống vươn xòe cánh lên cao trong khi chim mái
xếp cánh yểu điệu duyên dáng bọc lấy thân mình để múa "Vũ điệu kết
đôi". Đôi sếu lướt trên cỏ như những vũ công ba-lê rồi rung lắc thân
mình như những vũ nữ múa bụng, cúi chào nhau, sau đó bay bổng lên không
trung, nhặt những cọng cỏ ném yêu vào nhau, vỗ cánh hân hoan... kéo dài
khoảng vài chục phút... Đó là cảnh tượng thiên nhiên kỳ thú nhất mà tôi
từng được chứng kiến, khi có vài chục đôi sếu cùng múa ca trong một buổi
hoàng hôn mùa thu trên khu đồng cỏ.
Vào khoảng tháng chín, sếu bắt đầu làm tổ. Tổ chim
sếu làm bằng các loại cây cỏ của vùng nước ngập, kể cả lúa. Sau khi chọn
nơi làm tổ (các đôi sếu cũ thường làm tổ ở ngay chính cái tổ năm
trước), giữa một vùng ngập nước đến gần đầu gối, cặp sếu bắt đầu dùng mỏ
nhổ quang cây cỏ, sậy, lúa xung quanh một diện tích 5-6m2 và
chất thành một gò nhỏ đường kính khoảng gần 2m. Khi làm tổ, cặp sếu đi
theo chiều kim đồng hồ, nhổ và quăng thật chính xác các cây cỏ vào nơi
làm tổ. Cứ kết thúc một vòng thì chim trống lại leo lên giẫm cho đống
cây cỏ nén xuống thật chặt. Nhìn từ xa, tổ sếu giống như một cù lao nhỏ
nhô lên khỏi mặt nước 50-60cm, trên đỉnh hơi lõm xuống. Sếu làm tổ giữa
mặt nước như vậy có lẽ nhờ nước để điều hòa nhiệt độ, làm mát vào giữa
trưa và ấm vào ban đêm. Và cũng có nguyên nhân nữa là để phòng tránh các
thiên địch của trứng và chim con như: chồn, cáo, chuột, rắn…
Không một nông dân nào phàn nàn khi sếu nhổ trụi một khoảng lúa 5-6m2
trên ruộng của họ để làm tổ, trái lại còn vui mừng khi thấy sếu chọn
ruộng của mình. Theo họ, đó là một điềm lành, sếu sẽ mang lại may mắn và
no ấm cho gia đình họ trong năm kế tiếp. Vì thế không có chuyện phá tổ
sếu hoặc xua đuổi sếu. Điều này ngoài tín ngưỡng cổ xưa của vùng này là
tôn kính sếu, còn có một tình yêu thương lẫn nhau giữa sếu và người.
Chim mái thường đẻ hai trứng rất cân bằng âm dương, một sẽ là trống và
một là mái. Trứng chim được ấp trong vòng 30 đến 35 ngày. Chim trống
thường đi vòng quanh để bảo vệ cho tổ trong khi chim mái ấp và ấp thay
chim mái khi con này đi ăn. Khi trời nắng, chúng dùng mỏ đảo trứng để
sức nóng toả đều. Trứng chim chiều rộng có đường kính khoảng 10cm, chiều
dài khoảng 13cm đường kính trục, nặng khoảng trên dưới 300g, vỏ màu
trắng có vân xám nhạt. Ăn trứng và thịt sếu là điều cấm kỵ (taboo) theo
tín ngưỡng dân gian toàn vùng, vì thế không bao giờ có việc bất cứ kẻ
nào dám ăn thịt hay trứng của loài chim thiêng này, kể cả vào mùa đói
kém nhất.
Trong thời gian khảo sát thực địa ở Lumbini, tôi đã
tiếp cận với các tổ sếu để quan sát và tìm hiểu kết cấu tổ cũng như cân
đo trứng sếu. Khi chúng tôi lội qua cánh đồng ngập nước để đến gần tổ
của chúng, đôi sếu tỏ vẻ giận dữ chứ không sợ hãi. Chúng chạy vòng quanh
ở khoảng cách 5-6m, con chim trống dang rộng đôi cánh lên, mỏ há lớn
phát ra những âm thanh chói gắt, chim mái thì ở khoảng cách xa hơn nhưng
cũng không kém phần kích động. Khi cân đo trứng sếu, tôi đã phải rất
cẩn thận, dùng bao tay phẫu thuật vì sợ trứng ám hơi người sẽ bị đôi sếu
mổ thủng rồi bỏ đi.
Sau khi ấp trên dưới một tháng thì trứng nở. Vỏ trứng
sau khi nở sẽ được chim bố mẹ mang đi quẳng thật xa khỏi tổ. Tập tính
của sếu là giữ khu vực xung quanh tổ thật sạch, khi có bất kỳ cọng cỏ
cây nào trôi gần đến tổ là nhặt quẳng đi (phòng chống rắn chăng?). Trong
vài ngày đầu, chim non được bố mẹ đút thức ăn, khoảng một tuần tuổi
chúng đã có thể theo bố mẹ đi kiếm ăn. Khi có nguy hiểm, chim bố mẹ kêu
to báo động một cách đặc biệt, các chú chim con liền đứng im bất động
cho đến khi bố mẹ đến gần dùng mỏ dụi dụi lên thân mình báo hết nguy
hiểm rồi dẫn chúng đi tiếp.
Kỷ niệm đặc biệt nhất ở Lumbini của tôi là cứu sống
một chim sếu con vào mùa thu năm 2005. Năm ấy, mùa mưa kéo dài hơn
thường lệ. Tôi làm một cái chòi dã chiến trên bờ ruộng để quan sát tổ
của một đôi sếu. Sau một tháng, chỉ có một trứng nở, trứng còn lại bị
ung và bị chim bố mổ bỏ vứt đi. Chim sếu nở được một tuần thì gặp một
cơn mưa lớn. Mưa dầm dề suốt từ nửa đêm 19, rạng ngày 20-10-2005. Kèm
theo là cơn rét cắt da đột ngột, ở Lumbini đang từ 300C bỗng rớt xuống chỉ còn trên dưới 200C.
Rét kèm với mưa nên càng thấm. Đây không phải là cơn mưa lớn nhất,
nhưng là cơn mưa dài nhất và lượng nước nhiều nhất mà tôi từng gặp ở
Lumbini (cuối cùng thì sau đúng ba ngày trời mới tạnh hẳn). Ngày đầu
tiên, đôi sếu bố mẹ đứng chụm vào nhau che cho chú sếu con, không đi
kiếm ăn như thường lệ. Ngày thứ hai, đôi lúc một con nháo nhác chạy đi
một lúc chắc là tìm thức ăn rồi vội vã quay về đổi chỗ. Vào lúc chập
choạng tối ngày thứ ba, chúng tôi nghe tiếng sếu kêu thảm thiết, vội
vàng đội mưa chạy ra. Đôi sếu đang tất tả bỏ đi. Không thấy chú sếu con
một tuần tuổi đi theo. Đoán có chuyện chẳng lành, tôi và hai người địa
phương giúp việc vội chia ra tìm. Người thì chặn mấy người Nepal đi bắt
cá lại, xét giỏ đựng cá, kẻ soi đèn pin kiếm trong từng bụi cỏ. Mãi một
lúc sau mới thấy chú sếu con nằm gục trong đám cỏ ven bờ ruộng, lông tơ
ướt bẹp, người tím ngắt, mắt đã lờ đờ. Chúng tôi vội vã mang vào nhà của
một người địa phương gần đó, thấm khô, rồi sưởi ấm chú bằng bóng đèn
tròn. Được một lúc chú thở hắt ra rồi ngáp ngáp. "Sống rồi!" May quá.
Một lát sau chú bắt đầu kêu khẽ mấy tiếng. Cả đêm ấy bọn chúng tôi thức
trắng trông chừng chú.
Nửa đêm, vợ chồng sếu quay về tìm con, kêu thảm
thiết. Tờ mờ sáng, chúng đi lảng vảng quanh ổ kêu than não ruột. Trời
vẫn mưa và lạnh quá nên chúng tôi không dám trả con cho chúng ngay. Cứ
cách nửa giờ một lần, chúng tôi bẻ bánh quy thành mẩu nhỏ mớm cho chú
sếu con. Mãi đến chiều trời bớt mưa, chúng tôi mới thả chú sếu con về
với bố mẹ. Chúng mừng rỡ ríu rít bên nhau rồi dắt nhau đi khuất trong
màn mưa lất phất.
Thu đã về ở Khu vườn Thiêng Lumbini. Năm nay nắng gắt chen lẫn những
cơn mưa lớn kéo dài. Tôi lại tìm về nơi chốn bình an ấy để lại được ngắm
điệu luân vũ yêu thương của đàn sếu, để được tặng thức ăn cho con sếu
khất thực và hòa nhập tâm hồn vào không gian huyền diệu của một trong
những nơi linh thiêng nhất trên trái đất, nơi đã đón nhận bước chân đầu
tiên của Đức Từ Phụ của chúng ta.
Bài & ảnh Nguyễn Phú (Nguyệt San Giác Ngộ 175)