Truyền thống Vu Lan không còn xa lạ với quần chúng Phật giáo thuộc các quốc gia Á Châu, nhất là Trung Hoa và Việt Nam.
Truyền
tích về Vu Lan, mùa Báo hiếu, mùa xá tội vong nhân, mùa cúng cô hồn đã
thấm sâu vào huyết quản dân tộc, cho dù không là Phật tử.
Phần lớn ít ai phân biệt các phân đoạn đó trong mùa Hiếu hạnh, họ cứ gộp chung lại gọi là mùa cô hồn.
Đối
với Phật tử, Vu Lan là mùa báo hiếu cho cửu huyền thất tổ quá vãng,
song đường tại thế bằng nhiều hình thức: cầu siêu, cầu an, bố thí cúng
dường, chẩn tế bạt độ…
Truyền tích về Mục Liên Thanh Đề cũng nhắc
nhở tín đồ Phật giáo về hạnh hiếu đó, liên tưởng đến thập loại cô hồn
của Nguyễn Du, vể “Tứ trọng ân” đối với cuộc sống xã hội.
Như
vậy, mùa Vu Lan không chỉ là mùa báo hiếu, mùa ân tình đối với vạn loại
chúng sinh, mà còn là mùa trưởng dưỡng công đức và nội tâm quán chiếu.
Đồng thời, suốt ba tháng an cư của Bắc Tông để kết thúc vào tháng
bảy, là lúc ruộng phúc phủ tràn màu mỡ để quần chúng gieo vào hạt giống
phúc điền; Nhờ nội lực đó mà sức chú nguyện của chư Tăng đến với kẻ
còn người mất được triêm ân phúc báu. Đó là tinh thần tự lực và tha lực
hỗ tương cho nhau về sự tướng. Từ lý tính của Phật giáo, triển khai đến
sự tướng để tương thich với căn cơ sinh chúng, bởi Đức Phật từng dạy,
hoằng pháp qua nhiều hình thức, không ngoài: “khế lý-khế cơ- khế thời”.
Mỗi
quốc gia ảnh hưởng Phật giáo Bắc truyền đều có một hình thức báo hiếu
khác nhau, nhưng cơ bản vẫn là một. Chính vì thế mà Phật giáo Bắc tông
biến thiên muôn hình vạn trạng, lan truyền du nhập một cách uyển chuyển.
Sự tướng là thế, nhưng lý tính thì sao?
Rất nhiều tín đồ Phật
giáo thiên hướng đến Thiền tông hoặc những pháp môn khác, họ khó hiểu
về khoa nghi chẩn tế, thí thực cô hồn, liệu có thích hợp với tinh thần
vô tướng, vô tác của nhà Phật? Từ đó, họ đặt vần đề xá tội vong nhân và
những nghi lễ liên quan đến mùa Vu Lan tháng bảy hàng năm.
Ngày
nay, một số nhà nghiên cứu không đồng thuận “Vu Lan Bồn” dịch ra là “Cứu
Đảo Huyền” từ nguyên ngữ của Pali hay Phạn ngữ, lối dịch như thế ảnh
hưởng tinh thần văn ngữ của Mạnh Tử về hình phạt treo ngược đầu. Nều cứ
đào sâu về sử liệu, cũng chỉ làm sáng tỏ một góc độ nào đó cho từ vựng
Vu Lan, nhưng càng làm tối tăm cho kẻ hậu học muốn trực chỉ “kiến tính”
về ý nghĩa mùa xá tội, mùa báo hiếu, mùa độ sinh.
Suốt
hơn 45 năm hành hóa, ngoài việc Thiền định và pháp thí, đức Phật chưa
từng làm sám chủ chẩn tế bạt độ, chưa từng khuyến hóa dùng kinh điển làm
phương tiện đảo nghiệp chúng sinh, mà chỉ hướng dẫn chúng sinh thoát
nghiệp tự thân bằng học tập thực hành theo giáo điển.
Suốt 9
tháng du hóa, an cư vào dịp sinh vật nhỏ bé sinh sôi nẩy nở trong mùa
mưa, Phật dạy chư Tăng nên cấm túc để nỗ lực hành trì trong ba tháng,
vừa trưởng dưỡng nội lực, vừa tăng trưởng tuệ giác xứng với vị thế của
bậc Ứng Cúng, Bố Ma, phá ác…Từ đó là ruộng phúc cho của cúng dường nở
hoa.
Trong ba tháng đó, chư Tăng không những dừng lại bước du
hóa, mà còn dừng lại mọi niệm tưởng, trụ vào giới đức để chuyển hóa nội
tâm. Chư Tăng chưa đạt Thánh quả, vẫn còn nhiều mộng tưởng, đó là mầm
móng phạm tội.
Cho dù đạt Thánh quả như Alahan, theo Kimura
Taiken trong bộ Tiểu Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận, còn mang xác phàm,
vẫn còn bị mộng tinh do tập khí quá khứ tồn đọng. Như vậy, trong ba
tháng chuyên cần, chấm dứt mọi vọng niệm, không có cơ hội cho tập khí
sinh khởi, như trăng không bị mây che, không dẫm lên vi tế chúng sinh
tính nội tâm, từ đó công đức nở hoa.
Trong Phật giáo không có chữ
hủy diệt mà chỉ có từ chuyển hóa. Quá trình hành trì là quá trình
chuyển hóa; ngọn đèn chiếu đến đâu là bóng tối được chuyển hóa thành ánh
sáng đến đó.
Suốt 9 tháng sinh hoạt trong cộng đồng xã hội, ai
không từng khởi niệm bất tịnh? Ai không từng sân đố khởi sinh? Ba tháng
an cư là thời gian nhìn lại chính mình, tự chuyển hóa những tập khí cố
hữu và ngăn ngừa tạp niệm phát sinh.
Thiền định là ngọn đèn
chiếu rọi mọi ngõ ngách tâm hồn, chận đứng mọi cỏ dại và làm ung thối
mọi hạt giống xấu. Trong mỗi tề bào hiện hữu là hiện hữu chủng tử của
cha mẹ ông bà nhiều đời. Tâm thức chuyển hóa là các tế bào được chuyển
hóa, nghĩa là cửu huyền được siêu sinh khỏi ô tạp tăm tồi.
Năng
lực chuyển hóa tác động đến tâm nguyện cúng dường của thí chủ. Một tín
thí tuyệt đối tin vào thần lực Tam Bảo qua ba tháng kiết hạ, thanh tịnh
tâm, tín nguyện tâm đó cũng là hạt nhân chuyển hóa đời sống tự thân và
tác động đến thân bằng quyến thuộc theo lý tương duyên; không những bảy
đời quá vãng của thân bằng quyến thuộc mà chúng sinh tính trong mỗi
người con Phật cũng được chuyển hóa phóng sinh thóat khỏi tư tưởng tăm
tôi từ địa ngục sân hận tham dục si mê.
Bố thí, cúng dường là
hành trạng tâm lý buông xả, cầu siêu bạt độ là thể hiện từ tâm. Sự tướng
mà thiếu lý tính, sẽ không đạt kết quả mà còn tốn kém vô lý. Vì thế
không thiếu trai đàn chẩn tế mà cô hồn vẫn đói khổ, vẫn van xin.
Lý
tính mà thiếu sự tướng sẽ không sáng tỏ ý nghĩa của việc cầu nguyện,
chuyển hóa của mùa Vu Lan. Không quá đáng gọi mùa Vu Lan là mùa chuyển
hóa để quần chúng khỏi ám ảnh về một trạng thái mê tín, ồn áo.
Tính chuyển hóa thì tướng cũng sáng tỏ, hoàn cảnh sống chung quanh cũng được mặc vào lớp áo thanh thản, tự tin.
Các
chùa, ngoài việc chẩn thí, an cư, cần đưa “sự và lý” song song cho quần
chúng nắm vững tinh thần Vu Lan. Thời đại khoa học, làm sao họ tin
hình phạt treo ngược đầu nơi địa ngục nếu họ không hiểu đó là biểu hiện
tâm lý tội phạm mà kẻ phạm tội luôn ám ảnh tâm hồn bị dằn vật đảo ngược
mọi đạo đức xã hội nơi tâm hồn họ.
Và : “ Phải toan sắm sửa chớ
chầy, đồ ăn trăm món trái cây năm màu…” không phải một yêu cầu quá đáng
khi mà cuộc sống cơ cực của người dân Ấn xa xưa cũng như hiện nay có thể
đáp ứng, đó là tinh hoa nội tâm của mọi người được huyển hóa theo Duy
thức Học, khi “Hàm Tàng Thức” chuyển thành “Bạch tịnh thức”thì trăm pháp
của tâm sở cũng được chuyển hóa, cơ thể vật lý thanh tịnh, Ngũ Tạng là
hoa quả năm màu dâng hiến cho tự tính Tam Bảo trong mùa Vu Lan.
Minh Mẫn