“Quả đất gọi là nặng
Nhưng lòng mẹ nặng hơn nhiều”
Như suối nguồn vô tận, đề tài nói về công
ơn cha mẹ không thể cạn ý khô lời, nhất là ở lãnh vực Văn học-Nghệ
thuật. Chỉ riêng khía cạnh thơ ca thôi cũng đủ làm chúng ta choáng ngợp,
cảm thấy bé nhỏ dưới bầu trời vô tận của mênh mông tình mẹ. Với đạo lý
nhà Phật, điều đó càng trở nên thiêng liêng và ý nghĩa hơn. Người con
Phật đã biết ý thức rất sớm về điều thiêng liêng ấy nhờ vào nền tảng
luân lý nhà Phật, do đó ai bất hiếu với cha mẹ sẽ chẳng bao giờ thấy
được đạo. Thế nên những tuyên ngôn: “Sanh đời không có Phật, thờ cha mẹ
tức thờ Phật”, bởi vì “Cha mẹ hiện tiền như Phật tại thế”. Bởi vậy,
“Điều thiện cao tột không gì bằng hiếu, điều ác tận cùng không gì bằng
bất hiếu”. Tuyệt vời thay chúng ta đã có một vị giáo chủ tuyệt vời như
thế-có gì đâu sanh ra trong cõi đời này ai cũng có cha mẹ, chứ không thể
từ trên trời rơi xuống hay dưới đất chui lên! “Nước sông nọ có nguồn
mới chảy, Hạt thóc kia có cấy mới lên, Phàm phu cho đến thánh hiền, Vì
không cha mẹ sao nên thân người”, như một bài sám văn đã viết.
Chỉ tiếc rằng người viết bài này không
phải là một nhạc sĩ hay một nhà văn, nhà thơ để có thể đóng góp phần nhỏ
bé của mình vào văn đàn và nghệ thuật để ca ngợi tình mẹ, nhất là nhạc
sĩ của Phật giáo để diễn bày qua đó bằng pháp thoại lung linh, mang chút
tham vọng để chuyên chở một đạo lý tột cùng của con người từ khi hãy
còn chín tháng cưu mang. Và chỉ biết rằng không phải là một nhà hoạt
động văn hóa Phật giáo để nhìn xuyên qua khe nắng trần gian, góp nhặt
từng hạt ngọc đời, đánh giá, tuyên dương văn-thơ-nhạc-họa đích thực của
Phật giáo. Có hay không người viết vẫn là một chủng tử bé nhỏ trong rừng
văn học nghệ thuật, từng ngày từng giời đang học đòi làm một Phật tử.
Do đó những dẫn dụ được trình bày dưới đây không phải là một công việc
tổng hợp hay đi tìm nhân tố điển hình, mà là theo chủ quan-cảm nhận mang
tính cách cá nhân. Còn lại như đã nó đó là hoạt động của một nhà văn
hóa Phật giáo.
Trong lãnh vực âm nhạc, đã có biết bao
nhiêu bài ca về công ơn cha mẹ. Có bài đã trở nên tiêu biểu, đã đi sâu
vào lòng người nhiều thế hệ. Ở đây chỉ xin xét đến khía cạnh khác, đó là
tín đạo lý Phật giáo và đạo đức dân tộc trong một vài bài hát người
viết có được trong “kho tàng” CD, cassette hiếm hoi của riêng mình.
Người trước tiên không thể không nhắc đến
là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nhắc đến ông không vì sự kiện ông vừa tạm
biệt “Một cõi đi về”, mà trước hết qua một quãng đời niên thiếu của
người viết lúc còn sinh hoạt Phật tử, các bài hát “Da vàng” đã ghi đậm
dấu ấn khó phai. Và qua rất nhiều tư liệu về cuộc đời cũng như sáng tác
của ông, người ta cũng đã hiểu thêm về nhiều điều. Phần lớn những điều
đó đều gắn liền vào mỗi ca khúc trong hơn năm, sáu trăm ca khúc của ông,
vì đó là sự thật về chính cuộc đời cũng như chính cảm nhận của ông “khi
cần thì viết ra, không cần tưởng tượng chi cả”(1) đến nỗi nhạc sĩ Xuân
Khoát phải thốt lên “Chữ của Trịnh Công Sơn như sãn có từ trong túi”.
Qua đó lần dõi chúng ta sẽ thấy: Trịnh Công Sơn sáng tác ban đầu cho đến
khi mất theo trình tự như sau: 1. Ngẫu hứng và ảnh hưởng, 2. Bắt đầu
định hướng dân tộc, ý thức cuộc đời nô lệ, 3. Nhận thức rõ chân lý duyên
sinh và rẽ ngoặc đi một đường thẳng cho đến ngày nhắm mắt. Vì mỗi sáng
tác là một phần sự thật cuộc đời ông nên công chúng đều quý yêu. Điều
trân trọng quý yêu ấy dừng lại ngay tác phẩm đầu tay “Ướt mi” là một tác
phẩm trữ tình, lãng mạn, điều đó quá rõ, nhưng vì là “một phần sự thật”
nên ít ai còn biết thêm rằng nguyên do ra đời bài hát ấy xuất phát từ
lòng thương cảm của một đứa con dành cho người mẹ đang mang bệnh lao
giai đoạn cuối, mà người con gái đó hằng đêm đi hát để kiếm tiền về nuôi
mẹ bằng một bài hát “tủ”: “Giọt mưa thu”, mỗi lần hát cô đều khóc! Đó
là ca sĩ Thanh Thúy năm ấy cô chỉ mới 16 tuổi đời. Trịnh Công Sơn cho đó
là “giọt nước mắt rất thuần khiết của một người con gái” (2). Một người
con trai 19 tuổi lần đầu cảm xúc để viết lên nhạc phẩm đầu tiên, lại
nói về sự hiếu thảo, sao không đáng trân trọng và quý yêu, nào phải đâu
đắm say lụi tình. Trịnh Công Sơn khóc cho mẹ người để nhiều chục năm sau
bên mộ cha ở Huế ông khóc cho “Một cõi đi về”, và sau nữa bên mộ mẹ
mình ở Thủ Đức ông khóc cho “Đường xa vạn dặm”, trong đó bên mẹ ai cũng
là một đứa trẻ, cũng vẫn nũng nụi mẹ qua lời ca như trách móc: “Gối lạnh
chăn mềm-mẹ bỏ tôi đi, giấc ngủ chưa tròn-mẹ bỏ tôi đi. Mẹ bỏ tôi đi
đường xa vạn dặm...”
“Tôi ôm con sáo bé bỏng của tôi, theo cha
dọc bờ sông trắng xóa. Hồng Hà mùa thu đầy gió và tiếng sống...” (3).
Con sáo ở đây tức là nỗi niềm của người mẹ khi đưa “cha và anh hai vượt
sông Hồng ở những năm 30-40...” nên lời ca sau đó là “thương cha, con
sáo thủy chung của mẹ. Thương anh con sáo bứt ruột chờ mong...” và vì
nỗi lòng thương mẹ nên “con sáo sang sông bạt gió và sóng, con sít
thương ai, tìm ai...” Phải đợi đến hơn mười năm sau kể từ khi được nghe
bài hát tôi mới cảm nhận những điều có thật của người nhạc sĩ từng một
thời vang tiếng “ngẫu hứng”. Vâng chúng ta đang nói đến nhạc sĩ Trần
Tiến mà bài hát “Phố nghèo” (4) đã để lại dư âm rất da diết và lắng
đọng, đã khiến phải nhắc đế trong bài hát này, trong khi âm nhạc Phật
giáo chưa đủ sức tự khẳng định mình và đó đây đã xẩy ra tình trạng manh
nha, ỷ lại, xa rời vốn dĩ nơi mình sinh ra và lớn lên. Với nhạc sĩ Trần
Tiến, anh đã quay về từ câu chuyện: “Bắt đầu từ con phố bên sông chảy
quanh kinh thành cổ...Sau 30 năm du ca trở về thăm phố cũ, bỗng thấy
mình cần dừng bước lãng du để thực hiện một số đĩa nhạc, dẫu đã muộn
nhưng cũng đủ ghi lại đôi nét ký họa về những con đường đi qua, những
người đã gặp chung cuộc hành trình trong cuộc đời ngắn ngũi này. Đó là
bức thông điệp của người con gởi mẹ quê nhà, của người con hàng vạn kiếp
phôi phai...” Nhạc sĩ đã thổ lộ như thế và CD này anh ví như một bức Tự
họa đầu tiên mang tên: Phố nhỏ ven sông. Rất thật, rất gần gũi bởi đó
là những chuẩn mực đạo đức dân tộc đáng phải ca ngợi trước tiên.
Với bài “Phố nghèo” chúng tôi cho đây là
ca khúc chính của CD Tự họa của anh. Bởi vì nơi đó có mẹ, có tuổi thơ
của những người thân của mình, phố Hàng Buồm Hà Nội. Ký ức của anh màu
nâu, cái màu của đất, bằng ánh mắt “Tâm Địa Quán” mang định chủ thể
duyên sinh nhà Phật: Chúng sanh chỉ tâm di như đại địa, Ngũ cốc ngũ quả
tùng đại địa sanh. Ngay như tâm tam giới cũng mang tên đất: Dĩ thử nhân
duyên tam giới, duy tâm tam danh chi địa. Và cái màu nâu chư tăng chọn
may Tăng phục ý nghĩa như thế nào, cũng như ông bà ta chọn màu nâu làm
đồng áng ra sao hẳn chúng ta đã rõ. Nhà thơ Nguyễn Duy trong “Ngồi buồn
nhớ mẹ ta xưa” có viết “Mẹ ta không có yếm đào, Nón mê thay nón quai
thao đội đầu, Rối ren tay bí tay bầu, Váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn
mùa”. Vì vậy, rất dân tộc, rất thâm thúy khi nhạc sĩ Trần Tiến viết lời
ca “Phố buồn nâu, mái ngói buồn nâu, cà phê đắng rơi từng giọt nâu
buồn... phố của tôi, thơ ấu của tôi...” càng ray rứt hơn khi nhạc sĩ
thốt lên “Ở nơi đó tôi còn nhớ mẹ của tôi, bao đêm trắng nhìn về phía
chân trời, mẹ cầu kinh đức Phật Quán Thế Âm, phù hộ cho con phiêu bạt
trở về...”. Đất nước chiến chinh bà mẹ nào cũng thế, cũng có nỗi đau
riêng mình, nhạc sĩ Trần Tiến nhìn sang hàng xóm và nhớ lại: “Năm 1972
hai trái bom đi sai mục tiêu, đã ném vào cái phố nghèo bé bỏng của
tôi...chỉ thương anh hàng xóm ra đi không bao giờ trở lại nữa. Nhớ về để
nghe CD tình ca này tôi viết tặng anh.Tặng cả tuổi trẻ chúng ta dàn
hàng ngang gánh đất nước trên vai...” (5). Dù mẹ chẳng còn, bạn bè tan
tác nhưng phố cũ và kỹ niệm còn đó trong nghĩa tình đạo lý dân tộc, làm
nên nguồn cảm hứng bao la này qua bàn tay “họa sĩ” của anh.
Cũng vậy, sẽ không còn những chốn dấu yêu
để “trở về làng quê, bao tháng năm xa xôi cách biệt...Ngược dòng thời
gian bao dấu yêu xa xôi trở về. Nhớ hoài năm nào mẹ gian nan giải nắng
dầm sương, nhọc nhằn chăm lo cho đàn con, miếng ăn giấc ngủ từng đêm,
những khi gió lạnh bên nhà tranh nghèo ấm êm tình thương...” (6). Dẫu
rằng cảnh cũ làng xưa còn đó nhưng nó sẽ càng để lại dấu ấn sâu đậm hơn
khi đấng sanh thành đã mất. Vì vậy, thương sao lời thương tưởng “Hỏi
từng bờ đê gió hiu hiu mẹ tôi đâu rồi, Mái tranh im lìm nhìn hàng tre
ngơ ngác buồn hiu, Mẹ hiền yêu ơi suốt đời con, mãi luôn khắc ghi ơn mẹ
cha, sẽ không phai nhòa, tháng năm êm đềm sống bên mẹ cha...” (6). Người
nhạc sĩ có những lời ca rất đẹp này vẫn là ca sĩ còn rất trẻ. Đó là
Ngọc Sơn, nhắc đến Ngọc Sơn người viết tự đặt câu hỏi: Nếu cùng với
những ca từ đẹp về mẹ ấy mà người sáng tác không phải Ngọc Sơn thì chúng
ta có liệt kê vào loại nhạc “sến” không? Có lẽ là không. Vì vậy nhân
đây xin nói lên suy nghĩ chủ quan rằng cái gọi là “nhạc sến” ấy chỉ xuất
hiện từ thập niên 80 (7) nhằm ám chỉ cho loại nhạc “lụy tình-rên rĩ-ướt
át...” khi những dòng nhạc mới đang thịnh hành (Country, Pop, Rock,
Rap...) hoặc cách tân theo chiều hướng mode để chứng tỏ mình tiến bộ. Kỳ
thật, chưa có một luận cứ khoa học nào là “không phải sến”. Rõ ràng đây
là vấn đề thuộc về thị hiếu-thẩm mỹ âm nhạc theo từng sở thích riêng,
mỗi một dòng nhạc đều có một bộ phận công chúng khác nhau. Điều đó thể
hiện tại sao nhạc “sến” vẫn tồn tại và đặc biệt là chính nó dễ dàng
chuyển tải tình cảm hơn bất cứ dòng nhạc nào, ngay cả với giới thưởng
thức bình dân nhất. Theo suy nghĩ riêng, chỉ có khác nhau chăng “sến” là
ở từ ngữ thể hiện trong dòng nhạc, chứ tự thân nhạc đã là không “sến”.
Ngay như bản thân chúng tôi, khi thư thả nghe nhạc giao hưởng, tình tứ
hơn thì nghe nhạc Jass, rộn ràng thì nghe Pop, Rock hoặc Rap...và còn có
các thể loại tình ca khác nữa nếu có chút lãng mạn, trữ tình. Trình bày
sơ lược như trên để hiểu đôi chút về Ngọc Sơn, đặc biệt để trân trọng
về một tấm lòng dành cho bậc sanh thành qua ca khúc của anh. Tấm lòng đó
hoàn toàn hợp đạo lý dân tộc, không “sến” chút nào. Anh đi lên từ bài
“Lòng mẹ” đầu tiên của anh rồi đến “Tình cha” để hôm nay thật bất ngờ
khi nghe sáng tác “Đạo làm con”, chúng tôi trộm nghĩ không có một bài
nhạc nào mạnh dạn viết: “Con quỳ con lạy mẹ cha, ơn cha nghĩa mẹ con đền
được là bao...” Chỉ riêng từ “Con quỳ con lạy mẹ cha” thôi cũng đủ nói
lên đạo nghĩa dân tộc. Cái quỳ, cái lạy sao mà sâu xa đến vậy, không cần
phải diễn đạt nhiều lời hoa mỹ. Và chúng tôi thêm một lần trân trọng
Ngọc Sơn trong ý nghĩa báo ân cha mẹ qua âm nhạc. Chuyện riêng tư, danh
vọng, tiền tài của anh không là mục tiêu bài viết này.
Tất nhiên “Hiếu thế tục chỉ hầu cơm nước,
Hiếu Phật đà giải thoát luân hồi”, nên nếu có những lời ca đặc thù Phật
giáo như: “Mẹ là từ bi bồ tát hiện xuống bên con, mẹ là hạt mưa hạt
nắng rực sáng muôn hoa...Mẹ là chuông chùa thắm đầm ấm muôn nơi, tình mẹ
là hương ngàn hoa dịu mát không gian...” thì khó tìm được một nhạc sĩ
như Giác An trong bài “Mẹ” ấy. Hơn thế nữa, để có một người mẹ trong Phổ
Môn khi nhạc sĩ Bửu Ấn viết: “Mẹ tôi, mẹ tôi muôn loài, không sinh,
không diệt tên là Quán Âm...” (Bài “Quán Thế Âm Bồ Tát”) lại càng hiếm
hơn. Lấy thời điểm gần nhất từ bài “Mẹ” của nhạc sĩ Giác An đến nay đã
10 năm, vẫn chưa có được bài nhạc nào tương tự để có thể đặt vấn đề phát
huy âm nhạc Phật giáo. Câu hỏi đến nay vẫn còn nguyên giá trị thách
thức trách nhiệm của các nhà hoạt động văn hóa Phật giáo hiện thời.
GĐ.D.K.T
Chú Thích
1. Trả lời trong chương trình “Tác giả-Tác phẩm” FM 99.90. Đài TNND-TP HCM, 2000.
2. Nhạc sĩ Tịnh Công Sơn -Một cỏi nắng thuần khiếp cùng cuộc đời- Ngộ Ngọc Ngũ Long SGGP-10/5/1998.
3. Lời bài hát Ngẫu hứng sông Hồng của nhạc sĩ Trần Tiến.
4. CD Tự họa gồm 10 ca khúc tự thuật theo dạng truyện hồi ký của NS Trần
Tiến, do chính NS và người cháu gái là ca sĩ Trần Thu Hà hát. CD Phương
Nam Phím phát hành tháng 10/1999.
5. Bài Người thích tình ca do chính tác giả hát trong cùng CD Tự họa.
6. Lời bài hát Tình mẹ của Ngọc Sơn.
7. Trước 75, người ta chỉ đánh giá một loại nhạc đó là “Nhạc thương mại”
gần như lên án như kiểu gọi “sến” hiện nay. Tuy nhiên xét về hoàn cảnh
xã hội đương thời, chinh chiến, bắt lính...thì không thể đáng giá theo
người yêu thích “Nhạc thương mại”, khác xa bài hát về “lính Cộng hòa”