Ảnh minh họa
Trong
nhà Phật, có rất nhiều kinh nói về chữ hiếu. Không luận là người tại
gia hay xuất gia, đều được Đức Phật dạy cho biết cách hiếu thuận
Chẳng
hạn như trong kinh Hiếu tử có nói: “Cha mẹ sanh con, cưu mang mười
tháng, như mang trọng bệnh, đến ngày sanh nở, mẹ sợ cha lo, tình cảnh
như vậy, lời không nói hết”.
Kinh Phạm võng, quyển hạ, nói: “Hiếu là pháp chí đạo, cho nên lấy hiếu làm giới”.
Kinh
Đại thừa bổn sanh tâm địa quán, quyển thứ 2, phẩm báo ân, nói: “Cha có
ân từ, mẹ có ân bi, nếu như có người cung kính cúng dường cho 100 vị Đại
Bà la môn tu hạnh thanh tịnh, hay 100 vị Đại thần tiên đắc quả ngũ
thông, hay 100 vị thiện hữu, nhất tâm cúng dường trải qua hết trăm ngàn
kiếp, công đức có được cũng không bằng khởi một niệm có hiếu với cha mẹ.
Vì vậy, siêng năng tu tập và hiếu dưỡng cha mẹ có phước đức như cúng
dường chư Phật, không có sai biệt”.
Luật ngũ
phần, quyển 20, nói: “Nếu như có người vai phải cõng cha, vai trái cõng
mẹ, dù cho cha mẹ đại tiểu tiện trên đó cũng không nản lòng; lấy thức ăn
và y phục tốt nhất trong thiên hạ để cúng dường cha mẹ, trải qua một
trăm năm, cũng không thể đền đáp được công ơn lớn như núi Tu Di của cha
mẹ. Cho nên, phải tận tâm, tận lực, suốt đời cung dưỡng cha mẹ, nếu
không làm được, tất mang trọng tội”.
Kinh
Tăng chi, phẩm hai pháp cũng nói: “Có hai người không thể báo ơn hết
được. Đó là cha và mẹ”. Rồi Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu có người
vai trái vác cha, vai phải vác mẹ, trải qua ngàn vạn năm, lo áo quần,
cơm nước, giường nệm, ngọa cụ, thuốc men chữa bệnh, đại tiện, tiểu tiện
ngay trên vai, vẫn chưa thể báo ơn hết được. Tỳ kheo nên biết, cha mẹ ân
trọng, bồng bế, nuôi dưỡng, tùy lúc giữ gìn không lỡ thời tiết, xem như
mặt trời, mặt trăng. Do phương tiện này mà biết ân này khó báo đáp. Cho
nên, này các Tỳ kheo, phải cúng dường cha mẹ, thường phải hiếu thuận”.
Công
ơn cha mẹ như thế là không thể nào nói hết, là vô lượng, vô biên. Thế
nhưng sự báo hiếu, tức là sự đền đáp công ơn ấy lại hữu hạn. Hữu hạn
trước hết là bởi đời người quá ngắn, cho nên tận cả cuộc đời mà vẫn chưa
thể báo hiếu xong. Hữu hạn nữa là các pháp của thế gian không phải là
pháp chí thiện, không đủ giá trị để đền đáp công ơn to lớn của mẹ cha.
Nhưng cái hữu hạn hơn hết là sự thấy biết hạn hẹp của chúng sanh, tức là
không thấy được công ơn trời biển của mẹ cha; và không biết cách báo
hiếu chí thiện.
Phật
ra đời là để khai mở sự thấy biết này cho chúng sanh, trước khi khai mở
tuệ giác giải thoát. Nói cách khác, Phật dạy cho chúng sanh hiếu thuận
với cha mẹ trước, để làm tròn bổn phận con người trước rồi mới dạy cho
pháp giải thoát. Điều này được thấy rõ trong Bồ tát giới Phạm võng, ngay
sau khi thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni đã quy định rằng: “Hiếu thuận đối với Cha mẹ, Sư trưởng,
chư Tăng, đối với Tam bảo - sự hiếu thuận phù hợp Chánh pháp chí
thượng, sự hiếu thuận ấy gọi là giới, cũng gọi là năng lực chế ngự, đình
chỉ mọi sự tội lỗi”. Cho nên đạo Phật còn gọi là Đạo hiếu.
Đạo
hiếu đó mỗi người phải tự thực hiện, phải tự báo hiếu cha mẹ mình chứ
không thể trông nhờ vào người khác. Kinh Tăng nhất A hàm cho biết, khi
Di mẫu của Phật, tức Đại Ái Đạo Tỳ kheo ni nhập Niết bàn, chư Thiên,
Trời, Rồng… muốn thay Phật thực hiện nghi lễ trà tỳ, nhưng Phật không
cho phép.
Ngài nói:
“Cha mẹ sinh con, cho con nhiều lợi ích, ân trọng dưỡng nuôi, bú mớm ẵm
bồng, cần phải báo ân, không được không báo ân. Chư Thiên nên biết, chư
Phật quá khứ, thân mẫu sinh thành đều diệt độ trước, sau đó chư Phật Thế
Tôn đều tự cúng dường trà tỳ xá lợi. Giả sử chư Phật Thế Tôn ở tương
lai, thân mẫu sinh thành cũng diệt độ trước, sau đó chư Phật đều tự cúng
dường. Do phương tiện này biết Như Lai nên tự cúng dường cha mẹ, chẳng
phải Trời, Rồng, Quỷ thần làm được”.
Vu lan tưởng nhớ mẹ cha. Cành hông sắc đỏ - màu yêu thương - Ảnh minh họa
Như
vậy, chư Phật trong ba đời đều phải đích thân cúng dường xá lợi cha mẹ
mình, bởi không ai có thể làm thay việc báo hiếu. Chư Phật còn thế huống
là hàng phàm phu chúng ta? Cho nên, mỗi chúng ta hãy tự báo hiếu cho
cha mẹ của mình, theo đúng lời Phật dạy, và đừng bao giờ vọng tưởng rằng
cứ đến mùa Vu lan thì ghi tên ông bà tổ tiên cha mẹ và gởi tiền xin lễ
kỳ siêu trong chùa là làm xong hiếu sự.
Phật dạy rất nhiều cách báo hiếu, nhưng tựu trung thì có hai cách chính, là hiếu thế gian và hiếu xuất thế gian.
Hiếu
thế gian là cách thường tình ai cũng có thể làm được, đó là cung cấp
cho cha mẹ cơm áo, thuốc thang, vật dụng, chăm sóc, thăm viếng, hầu cận…
nhưng hơn hết là sự ân cần, thương yêu, kính trọng mẹ cha.
Người
ta nói "của cho không bằng cách cho", nhất là cho cha mẹ. Cha mẹ cần
nơi con cái không phải là những vật chất, thứ mà cha mẹ đã từng khổ cực
tìm kiếm cho con. Cha mẹ cần ở nơi con sự trưởng thành và hạnh phúc, cần
nơi con tình thương và quan tâm. Cho dù vậy, cách báo hiếu này cũng chỉ
báo hiếu được phần nào công ơn của cha mẹ mà thôi, chưa thể gọi là tận
hiếu.
Tận hiếu phải là hiếu xuất thế gian, tức là khuyên cha mẹ làm lành, giữ giới, ăn chay, niệm Phật.
Kinh
Tỳ ni mẫu, quyển 2, nói: “Nếu cha mẹ nghèo khổ bần hàn, thì trước hết
phải khuyên cha mẹ thọ Tam quy, giữ Ngũ giới hay Thập thiện, rồi sau đó
mới cung phụng vật thực, y áo; bởi vì chỉ có cách báo hiếu theo Phật
pháp mới có thể giúp cho cha mẹ mãi mãi xa lìa khổ đau, thoát khỏi bần
hàn, được vui an lạc”.
Kinh Trung A hàm có
ghi lại sự kiện Di mẫu của Phật, bà Cù Đàm Di, cúng dường Thế Tôn tấm y
may bằng kim tuyến, Thế Tôn không nhận mà bảo bà hãy cúng dường đại
chúng. Tôn giả A Nan đã trách khéo Thế Tôn bằng cách nhắc nhở rằng Cù
Đàm Di có công nuôi dưỡng Thế Tôn khi thân mẫu của Ngài qua đời. Thế Tôn
đồng ý rằng Cù Đàm Di đã đem lại cho Ngài nhiều lợi ích, nhưng chính
Ngài cũng đã đem lại cho Cù Đàm Di nhiều lợi ích hơn nữa, đó là nhờ Ngài
mà Cù Đàm Di quy y Tam bảo, nghe pháp Tứ đế, thành tựu tín, giới, đa
văn, bố thí, trí tuệ…
Đức
Phật dạy: “Này A Nan, nếu có người nhờ người ấy mà được quy y Tam bảo,
không nghi ngờ Tứ đế, thành tựu tín, giới…, thì người này cúng dường lại
người kia suốt đời vẫn chưa thể đền ơn”.
Như
vậy, chỉ bằng cách dẫn dắt cha mẹ vào đạo, hướng dẫn cha mẹ quy y Tam
bảo, giữ Ngũ giới, niệm Phật cầu vãng sanh, nghe Phật pháp… mới có thể
báo hiếu đến chỗ rốt ráo, mới được gọi là tận hiếu. Hơn nữa, khi con cái
dẫn dắt cha mẹ vào đạo thì không những hiếu đạo được vuông tròn mà
ngược lại cha mẹ còn mang ơn con cái. Tuy nhiên, chúng ta ai cũng biết
rằng, một khi mình đã biết tu tập thì không bao giờ nghĩ rằng ai đó đã
mang ơn mình, huống nữa là nghĩ cha mẹ mang ơn mình sao?
Đó
là nói trường hợp cha mẹ chưa biết đạo. Trong trường hợp cha mẹ đã biết
đạo, đã biết tu tập thì phận làm con chỉ cần noi gương cha mẹ mà tu tập
cho tinh tấn thì đã là báo hiếu rồi.
Kinh Tăng nhất A hàm cho biết,
người nào có hiếu với cha mẹ thì sẽ được năm quả báo thù thắng vi diệu,
đó là: 1. ít bệnh, 2. đoan trang xinh đẹp, 3. có oai thế lớn, 4. được
sanh trong gia đình thượng lưu, 5. giàu sang phú quý.
Nhưng,
là người Phật tử, khi báo hiếu mẹ cha không ai nghĩ rằng mình báo hiếu
để cầu năm phước báo trên. Mục đích của sự tu tập là đạt được giác ngộ
giải thoát. Khi mục đích này đạt được thì phước báo đâu chỉ có năm sự
như trên!
Hiếu theo thế gian chỉ trong một
đời, đó là cái hiếu nhỏ; hiếu theo Phật giáo thời gian không thể tính
hết, nhờ vậy cha mẹ được sanh Tịnh độ, phước thọ vô cùng, số kiếp như
cát của sông Hằng, đó là đại hiếu. Vậy nên, mọi người hãy nhất tâm mà
niệm Phật để báo hiếu mẹ cha.
Nguyên Hùng (Nguyệt san Giác Ngộ số 185 - Vu lan 2011)