- Khái lược về chữ Việt cổ:
Từ hàng nghìn năm qua, các nhà khoa học trong và ngoài nước đều khẳng định: Việt Nam
có chữ viết từ rất sớm, trước chữ Hán cả nghìn năm và hoàn toàn khác
chữ Hán. Các nhà nghiên cứu, Anh, Tiệp xác nhận: “Ngay từ trước công
nguyên, người Việt đã có chữ tượng thanh - loại chữ ghép chữ cái thành
từ”. Điều này được thể hiện trên các di chỉ khảo cổ đồ gốm, đồ đồng của
thời kỳ Đông Sơn như: lưỡi cày, lưỡi xéo, đặc biệt là trống đồng…cùng
các hình vẽ chữ viết trên đá cổ Sa Pa, Xín Mần. Pá Màng… theo một hệ
thống nhất quán, tất cả đều thể hiện đó là những chữ viết cổ từ thời kỳ
tiền văn tự, phát triển và hoàn thiện dần thành bộ chữ “khoa đẩu”.
Ở
Việt Nam, từ lâu, những nhà nghiên cứu như: Trương Vĩnh Ký, Vương Duy
Trinh, Lê Huy Nghiệm, Lê Trọng Khánh, Hà Văn Tần, Trần Trọng Thêm, Phạm
Ngọc Liễn, Đỗ Văn Xuyền… cùng đông đảo các nhà nghiên cứu Việt kiều đã
có những thành công đáng kể. Qua các di chỉ khảo cổ, đặc biệt là các di
chỉ thuộc nền văn minh Đông Sơn, trống đồng Lũng Cú, các bản khắc đá
cổ… các nhà khoa học đã có những luận cứ chắc chắn, khoa học chứng minh
cho sự tồn tại của chữ Việt cổ - chữ “khoa đẩu” mà thuở xưa Hùng Quốc
Vương cho khắc trên lưng rùa bản tóm tắt lịch sử nước ta tặng cho vua
Nghiêu để tỏ tình hòa hiếu – (Theo cổ sử Trung Quốc “vào thời Vua
Nghiêu ( năm 2357 trước công nguyên) có sứ giả Việt Thường đến kinh đô
tại Bình Dương (phía bắc sông Hoàng Hà - tỉnh Sơn Tây ngày nay) để dâng
một con thần quy, vuông hơn ba thước, trên lưng có khắc chữ Khoa Đẩu
ghi việc từ khi trời đất mới mở trở về sau”. Vua Nghiêu sai chép lấy
gọi là Quy Lịch. Sách Lĩnh Nam Chích Quái của ta cũng ghi rõ điều này.
Trong một bản Ngọc phả từ thời vua Trần Thái tông cũng ghi: “Nghiêu
thế, Việt Thường thị kiến thiên tuế thần qui, bối hữu Khoa đẩu” nghĩa
là thời vua Nghiêu, nước Việt Thường tặng rùa thần nghìn tuổi, lưng có
chữ Khoa đẩu). Đó chính là bộ chữ ẩn trong bộ chữ “hỏa tự” do Tri châu
Phạm Thận Duật tìm thấy ở Tây Bắc năm 1855 - 1856, cùng nhiều tài liệu
khác có cùng cấu trúc đồng dạng – (Vương Duy Trinh năm 1903 là Tổng đốc
Thanh Hóa, ông viết trong “Thanh Hoá quan phong” in năm 1903 đã cho
rằng chữ Thái là chữ Việt cổ còn sót lại ở Tây Bắc. Vương Duy Trinh
viết: “Vì thập châu (vùng Tây Bắc) là nơi biên viễn (biên giới xa) nên
dân ta còn lưu giữ được thứ chữ ấy. Các nơi khác, Sĩ Nhiếp (186) bắt bỏ
hết để học Hán tự”. Bộ chữ Thái thổ tự của Phạm Thận Duật phát hiện năm
1855 cũng ở vùng Tây Bắc). Các nhà khoa học cho rằng văn tự này có thể
là một biến thể của chữ “Khoa đẩu” hay “Hoả tự” đã ghi trong cổ sử. Thứ
chữ đã tồn tại trong nền văn hoá tiền Việt - Mường. Do không được sử
dụng phổ biến, bộ chữ này bị đóng băng, không phát triển theo kịp những
biến âm trong tiếng nói người Việt hiện đại. Đến thế kỷ 16 khi đạo
thiên chúa truyền vào nước ta, một nhóm trí thức người Việt đã cùng các
giáo sĩ phương tây La Tinh hoá bộ chữ này thành chữ Quốc ngữ mà ta đang
dùng ngày nay. Bộ chữ khoa đẩu ấy hình thành và phát triển đồng hành
với dân tộc Lạc Việt cả về thời gian, không gian và quá trình lịch sử.
Bộ chữ ấy dùng để ghi tiếng nói của người Việt cổ trước công nguyên,
tồn tại song hành cùng ngôn ngữ Việt, thích ứng với đặc điểm ngôn ngữ
Việt. Cũng chính vì tìm được cách giải mã chữ Việt cổ mà các nhà nghiên
cứu hiện nay có thể đọc được dễ dàng những trang sách chữ Quốc ngữ có
tuổi hàng mấy trăm năm, nay chỉ còn lưu giữ giải rác trong dân và trong
thư viện Lisbon, Pari, Roma… mà đến thế kỷ 16 khi đạo thiên chúa truyền
vào nước ta, một nhóm trí thức người Việt đã cùng các giáo sĩ phương
tây La Tinh hoá bộ chữ này thành chữ Quốc ngữ mà ta đang dùng ngày nay.
Đặc biệt theo: “Những tín hiệu thu được từ bản lược đồ địa danh ngôn
ngữ Việt cổ” của giáo sư Lê Trọng Khánh, thì không gian phân bố của chữ
Việt cổ vô cùng rộng lớn, góp phần vào việc vạch phương hướng tìm hiểu
cương vực và nguồn gốc người Việt cổ. Như vậy “Chữ viết đóng góp quyết
định vào nền văn minh Việt cổ” và: “Sự đồng nhất ngôn ngữ trên chữ viết
và địa danh cổ càng khẳng định tính chất bản địa của người Việt cổ có
nguồn gốc Đông Sơn và rất gần với nhau. Vấn đề này có liên quan đến
việc phân bố dân cư cổ đại có nguồn gốc chung trên một địa bàn. Sự đồng
nhất ngôn ngữ trên chữ viết và địa danh cổ, tổ tiên trực tiếp của chúng
ta ngày nay. Người Lạc Việt đã sáng tạo văn minh Đông Sơn, có ảnh hưởng
rất lớn đối với các dân tộc khác trước công nguyên” – (Lê Trọng Khánh).
Cũng chính vì vậy mà bao năm Sỹ Nhiếp ra lệnh triệt phá, tàn sát, bộ
chữ “khoa đẩu” của người Việt cổ vẫn có một sức sống bất diệt. Do tính
chất khoa học và tiến bộ đặc biệt của bộ chữ Việt cổ đã được sáng tạo
theo kiểu Alphabet, nên chỉ cần điều chỉnh đôi chút, các dân tộc Bách
Việt đã có thể sử dụng để ghi tiếng nói của dân tộc mình, cũng như của
Tổ Tiên Bách Việt.
Một
trong những thành tựu rực rỡ nhất mà ông cha ta xây dựng nên từ thời
tiền sử là thành tựu giáo dục. Thời Hùng Vương chúng ta đã có một hệ
thống giáo dục với các trường học, các thầy cô giáo và các học sinh.
Cha ông ta đã phát minh ra giấy viết. Các nhà nghiên cứu đã dầy công
tìm hiểu và có được chính xác được tên tuổi 18 thầy giáo từ thời Hùng
Vương từ thời Hùng Vương thứ 6 và nhiều tên tuổi các học trò nổi danh
trong lịch sử. Theo một cuộc điều tra của
Pháp những năm 30 về hệ thống đền, đình ở nước ta - tài liệu vẫn còn
lưu trữ ở Viện Hán - Nôm, thì toàn miền Bắc và miền Trung có hơn 40
đền thờ các thầy cô giáo và những học trò thời trước Hán, tức là thời
Hùng Vương đến thời An Dương Vương. Tại thôn
Hương Lan, xã Trưng Vương, Thành phố Việt Trì (Phú Thọ) nằm trong địa
phận của Kinh đô Văn Lang xưa, có đền Thiên Cổ Miếu, nơi tương
truyền thờ hai vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang, đời Hùng Vương thứ 18,
dạy hai công chúa của Hùng Duệ Vương là Tiên Dung và Ngọc Hoa. Cho đến
nay, qua những chứng tích còn lại, đấy là ngôi đền thờ thầy cô giáo,
tôn vinh sự học cổ nhất ở Việt Nam. Các nhà nghiên cứu cũng thống nhất được bộ chữ Quốc ngữ được các giáo sỹ phương tây cùng những trí thức Việt Nam La Tinh hóa tên cơ sở bộ chữ “Khoa đẩu”, mà công đầu là của hai giáo sỹ Bồ Đào Nha: Cha Gaspan do Amaral và Cha Antonio Barbosa cùng đội ngũ những trí thức người Việt
bằng những căn cứ khoa học không thể chối cãi đã được giới nghiên cứu
trong và ngoài nước thừa nhận. Trên cơ sở công trình đó, sau này Alexandre de Rhodes hệ thống hóa và chỉnh lý hoàn thiện thêm.
Như
vậy, các công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước qua
hệ thống di chỉ khảo cổ, qua khảo cứu ngôn ngữ: thư tịch cổ, địa danh
ngôn ngữ… đã khẳng định chắc chắn: Chữ Việt cổ đã từng tồn tại và phát
triển ở trình độ cao từ rất sớm.
- Đôi điều suy nghĩ:
Các
công trình nghiên cứu mới mang tính tự phát, xuất phát từ cái tài, cái
tâm của một số nhà khoa học; chưa được các cơ quan chức năng coi trọng
đúng mức; chưa có sự tổ chức tham gia của nhiều nhà khoa học và chuyên
nghành liên quan; chưa có các hội thảo khoa học đúng nghĩa mang tầm
quốc gia về vấn đề này. Bởi vậy ngay trong giới nghiên cứu cũng chưa có
tiếng nói chung, con đường đến đích cũng vì thế mà dài thêm và không
tránh khỏi có những vấn đề còn phải bàn bạc.
Gần
đây có những công trình rất đáng chú ý, như: “Phát hiện hệ thống chữ
Việt cổ thuộc loại hình khoa đẩu”, của giáo sư Lê Trọng Khánh. Bằng những cứ liệu khoa học và khảo cứu ngôn ngữ mang tính bản địa đặc thù và nhất quán, giáo
sư đã chỉ ra được sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ từ thấp lên
cao. Song công trình chưa đưa ra được hệ thống chữ cái, cấu trúc ngữ
pháp, cách nói và viết của người Việt cổ. Song công trình cả cuộc đời
ấy có giá trị to lớn, đặt nền móng cơ sở vững chắc cho các công trình
nghiên cứu tiếp của các họcc giả khác. Trong công trình này có những
phần đặc biệt quí giá như: “Những tín hiệu thu được từ bản lược đồ địa
danh ngôn ngữ”. Theo giáo sư nghiên cứu địa danh cổ là cơ sở để suy
nghĩ về nguồn gốc người Lạc Việt. Và cùng từ lớp địa danh cổ này, khẳng
định một vấn đề quan trọng, người Lạc Việt là cư dân bản địa, bắt
nguồn từ một cộng đồng người cổ, vốn đã sinh sống trong tiền sử trên
đất nước ta. Người Lạc Việt từ Hai Bà Trưng trở về trước, trong ngôn
ngữ có lớp từ cơ bản là thống nhất; chính sự xâm nhập của người Hán –
là yếu tố cơ bản có tác động đến sự chuyển hóa dần dần tiếng nói của
người Lạc Việt thành những nhóm ngôn ngữ có yếu tố khác nhau trong lịch
sử.
Những
dẫn liệu về địa danh cổ không dừng lại ở giới hạn sử liệu khô khan mà
còn nêu lên nguyên nhân cơ bản lịch sử, đặc biệt từ sau cuộc khởi nghĩa
Hai Bà Trưng, phương Bắc đã chiếm đất và đồng hóa một bộ phận người Lạc
Việt ở Lưỡng Việt và làm phân liệt về tộc người thành các bộ phận khác
nhau
Giáo
sư vẫn ao ước có một sự tài trợ đúng mức về tinh thần và vật chất để
hoàn thành công trình: “Yếu tố Mường – Việt trong ngôn ngữ Thái”, thêm
một cứ liệu cho công trình chữ Việt cổ. Ở tuổi 87 trí tuệ còn rất minh
mẫn, sức khỏe còn tốt, bầu nhiệt huyết với văn hóa dân tộc vẫn tràn
đầy, song tiếc thay..!
Ông Đỗ Văn Xuyền ở thành phố Việt Trì, năm nay đã gần 80 tuổi, đã
mấy chục năm nghiên cứu về chữ Việt cổ. Theo ông là đã giải mã được bộ
chữ Khoa đẩu, dùng bộ chữ ấy ghi lại được các mặt đời sống xã hội từ cổ
đại cho đến hiện đại. Ông cũng dày công tìm được hệ thống thầy cô giáo
thời Hùng Vương trên khắp đất nước và khao khát công trình được nghiệm
thu, chữ Việt cổ được công khai thừa nhận và được đưa vào giảng dạy
trong nhà trường.
Dư
luận quan tâm rất cảm phục cái tài, cái tâm của các nhà nghiên cứu chữ
Việt cổ, song không khỏi băn khoăn: Cứ liệu để khẳng định sự tồn tại
của chữ Việt cổ qua di chỉ còn ít. Trong công trình của một nhà nghiên
cứu, Chữ “khoa đẩu” tìm được giống chữ Thái Việt Nam tới trên 70%,
nhưng việc chứng minh chữ Thái có nguồn gốc từ chữ Khoa đẩu chưa đủ
tính thuyết phục. Ngay cách đọc các chữ cái khoa đẩu cũng giống người
Thái đọc. Vậy ngày xưa ngôn ngữ nói của người Việt cổ như thế nào? Yếu
tố Việt trong ngôn ngữ Thái còn đến bây giờ như thế nào? Hiện nay còn
bao nhiêu phần trăm còn trong ngôn ngữ nói hiện đại? Cũng theo nhà
nghiên cứu đó, chữ khoa đẩu có thể ghi âm được mọi mặt sinh hoạt trong
xã hội hiện đại, vậy xã hội mà khi chữ khoa đẩu cực thịnh đã phát triển
tới mức nào..? Và tại sao cho đến nay công trình nghiên cứu chữ Việt cổ
chưa được trở thành công trình mang tầm quốc gia…?
- Thay lời kết:
Sự
tồn tại và phát triển của chữ Việt cổ là một sự thật khách quan, đượng
nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước thừa nhận, là niềm tự hào của
dân tộc Việt Nam.
Việc nghiên cứu, tìm và giải mã được chữ Việt cổ có tác dụng to lớn
giúp ta hiểu thêm về lịch sử nước nhà, tăng cường lòng tự hào dân tộc.
Công trình chữ Việt cổ của các nhà nghiên cứu, dù thành công ở mức nào
cũng rất đáng trân trọng. Bởi tất cả những tư liệu quí báu đó như những
đốm lửa làm nên ngọn lửa, soi sáng cho chúng ta trên con đường tìm
được, giải mã được, khẳng định được chữ Việt cổ của Tổ Tiên! Mong sao
công trình chữ Việt cổ của các nhà nghiên cứu được chú trọng và đầu tư
đúng mức trong lúc còn chưa quá muộn.
Trần Thi