Tôi được biết đến đạo Phật lần đầu qua cuộc nói chuyện với
một thầy giáo Bách khoa. Cuộc nói chuyện tuy ngắn, nhưng đã để lại ấn
tượng mạnh mẽ. Những điều nghe được là một triết lý sống sâu sắc và tôi
dự định sẽ phải tìm hiểu. Về sau, được nghe giảng bởi những vị thầy tài
ba uyên bác, được đọc những câu của Albert Einstein viết về Đạo phật,
tôi càng muốn đi đến Tây tạng quê hương của đạo Phật.
Đầu tiên là cuộc hành trình đến Tây Tạng. Trưởng nhóm chúng tôi là một
phụ nữ trí thức, bỏ dở nghiên cứu trên đại học ở Mỹ để đi tu học đạo.
Bay đến Thành đô, thành phố mười hai triệu dân lớn thứ tư Trung quốc,
chúng tôi nghỉ lại để thuê xe đi Tây tạng. Thành đô cũng có nhiều cây
như những thành phố khác của Trung quốc, có những con đường trồng đến
năm hàng cây ngăn giữa các làn đường trông thật đẹp. Loáng thoáng xe máy
xe đạp; ôtô nườm nượp nhưng hiếm nghe tiếng còi; phố xá ngay ngắn với
nhiều cửa hiệu sang trọng; trang phục của các cư dân cùng phong cách đi
lại của họ và xe cộ...Tất cả đều toát lên dáng vẻ một thành phố văn
minh.
Tôi chạnh lòng nghĩ: Tại sao chí ít ta không trồng được những hàng cây
trên đường đẹp như hay hơn Bắc kinh, Thượng Hải? Nhiều lúc đi phố, thấy
dòng chữ "Hà nội xanh, sạch, đẹp" tôi cảm thấy xấu hổ, vì so với chỉ
tiêu cây xanh trên đầu người, ta quá thấp trên thế giới và sạch đẹp thì
hiện nay dân tình xôn xao là còn thua cả Lào.
Từ Thành đô đến Pêma Tung (một trong những trung tâm Phật giáo lớn nhất
Tây tạng) nằm trong thung lũng Dzogchen phải mất hơn hai ngày ôtô (đi từ
lúc chưa có ánh mặt trời đến tận hoàng hôn). Qua khỏi ranh giới Trung
quốc, ngay từ Kanding, thành phố nổi tiếng đầu tiên trên đất Tây tạng,
sự khác biệt của Tây tạng đã hiện lộ. Những câu kinh phật khắc to trên
núi cùng với rất nhiều kiểu cờ ngũ sắc và các giải băng in kinh phật
được cắm và giăng thành từng mảng lớn trên các sườn núi.
Thành phố nằm giữa núi này khá đẹp và luôn rì rào tiếng nước từ các sông
suối chảy ngay cạnh nhà, xuyên qua thành phố. Có lẽ cảnh đẹp đã tạo
không khí cởi mở hưng phấn hơn, nên một bạn Việt nam cất tiếng hỏi: "Về
lịch sử, hình như Tây tạng đã từng độc lập?". Một người bạn Trung quốc
cùng đi nói: "Đúng, Tây tạng đã từng độc lập trong lịch sử. Mà đến đây,
tôi thấy văn hóa đúng là khác biệt". Bạn người Việt lại hỏi vui: "Thế
trước đây học sử, bạn có bao giờ thấy dạy Việt Nam là một nước của Trung
Quốc không?". Bạn Trung Quốc cười to trả lời: "Ồ không! Chỉ là Trung
quốc người quá đông mà tài nguyên thì thiếu, nên thỉnh thoảng nói nơi
này nơi kia là của mình". Tất cả cùng cười và chúng tôi cảm thấy quý mến
anh bạn trẻ đang đại diện cho dân tộc mình lúc này và hiểu hơn về nhân
dân Trung quốc.
Chúng tôi đi giữa núi non bao bọc, khe suối sông ngòi chẩy triền miên
lúc thì róc rách, lúc lại ào ào dưới chân núi và hai bên đường đi. Suốt
gần ngàn cây số núi non trùng điệp ấy, luôn thấy các đội làm đường Trung
Quốc với các phương tiện hiện đại. Vừa đại tu, vừa làm mới, nhiều đoạn
còn trồng cỏ hai bên sườn và có lan can bảo vệ khá đẹp. Chúng tôi cũng
đã đi qua đường hầm xuyên núi trên 4km, dài nhất châu Á. Khi chưa có
đường hầm này, xe cộ qua đây thường bị tai nạn. Các cơ quan hành chính,
cảnh sát, quân đội, trường học cùng những khu dân cư mới đã và đang được
xây dựng thêm. Có những ngôi làng mới khá đẹp, nghe kể chính phủ trang
bị đủ tivi máy giặt..., nhưng người Tây tạng không đến ở. Họ quen sống
trong những cái lều di động theo các đàn gia súc.
Tuy nhiên, người Tây tạng cũng đang xây cho mình những ngôi nhà cải
biên: thân nhà kiểu Tây tạng, mái kiểu Trung hoa. Họ cũng đã dùng nhiều
xe máy phân khối lớn để chở người và hàng hóa. Trên đường đi, chúng tôi
cũng thường gặp những đàn cừu, hươu, nai và đặc biệt là những đàn bò
"iac" với những cái đuôi có lông rậm, dài khá đẹp, loài bò đặc sản của
Tây tạng, giá đắt hơn bò thường, thịt ngon và mềm.
Khi gần tới nơi, tại trạm xăng cửa ngõ, tôi thấy các sư aó nâu, áo vàng
lái ô tô từ thung lũng đi ra, còn những người tây Âu thì từ ngoài đi
vào. Hình ảnh đó làm nảy ra trong tôi ý nghĩ: các thế hệ chút chit của
Phật đang xâm nhập cuộc sống hiện đại, còn những con người của xã hội
văn minh hiện đại thì đang đi tìm những tinh túy, nguyên nhân của sức
mạnh vĩ đại của Phật.
Sự khác biệt của Tây tạng tăng dần theo rừng cờ và giải băng kinh Phật
cho đến khi gần như phủ dầy trên các dãy núi, thì đó cũng là lúc chúng
tôi đến Pêma Tung - bừng sáng và uy nghi. Đây là một thung lũng có thế
núi tuyệt đẹp. Ở giữa là ngọn núi băng. Dưới chân núi băng là ngôi chùa
dát vàng rực rỡ. Đi giữa sương mù và mây ở độ cao 4500m2 trong không khí
loãng luôn cho tôi cảm giác nửa thật nửa hư, vừa huyền bí nhưng lại vẫn
sáng tỏ. Cảm giác đó hiện rõ mỗi khi tôi ngửa đầu nhìn lên con sông
băng uốn lượn vắt ngang triền đỉnh núi. Tiếp sau núi băng là những cái
hồ trên đỉnh rất thiêng và đẹp, nhưng tôi sẽ không đủ thời gian để leo
lên.
Vừa xuống xe, chúng tôi gặp ngay một vị Lama (một danh hiệu đáng kính
trong đạo Phật Tây tạng). Các bạn đã từng đến đây năm ngoái xin hẹn gặp.
Vậy là chúng tôi cất dọn hành lý rồi leo núi ngay để đến "cốc" của
Lama. Đó là một hốc núi nhỏ chừng 2m vuông. Ngoài đôi ba vật cũ bẩn
không biết để làm gì, một lớp mỏng nhìn không rõ là rơm rạ hay bông bết
dính lót trực tiếp trên nền đất đá để nằm cũng rất bẩn, "cốc" không hề
có chăn hay một mảnh vải.
Trả lời chúng tôi, Lama nói dù băng tuyết phủ ngoài về mùa đông, bên
trong "cốc" vẫn ấm. Các bạn hài lòng khi được vị Lama giải đáp cho nhiều
điều. Tôi hỏi người bạn Việt đi tu là có thể sống trong "cốc" như thế
này không, thì bạn lắc đầu. Mọi người cùng đùa vui xem ai có thể ở
được trong "cốc" và trong bao lâu. Đây là một hình thức tu nguyên thủy
còn giữ ở Tây tạng. Không chỉ các sư thầy, mà có cả các sư cô cũng tu
trong các "cốc". Lama cho biết là số "cốc" như thế này đã giảm rất nhiều
so với trước kia. Lama đã sống mấy năm trong "cốc" nhưng rất khỏe mạnh.
Tổ tiên lai với người Mông cổ, nên Lama cao lớn và rất đẹp. Tôi nói
vui: đúng là một tác phẩm hoàn hảo của tạo hóa, đất trời.
Ngày hôm sau, chúng tôi lại được nói chuyện với một vị Lama người Mỹ -
Úc đi tu từ tuổi "teen". Về sau, chúng tôi được biết là ông có tên trong
nhóm dịch giả nổi tiếng và là tác giả một cuốn từ điển Tạng - Anh. Ông
sống nhiều ở Nepal, Tây tạng và thỉnh thoảng đi giảng đạo ở các nước.
Tôi cảm thấy ông như một cuốn từ điển về đạo Phật.
Tiếp đến, chúng tôi lại gặp được một vị Lama người Tây tạng chỉ dưới ba
mươi, nhìn thông minh hiền hậu, khá ít nói có lẽ vì khó khăn ngôn ngữ.
Vị đã hỏi về mục đích sống của người hiện đại. Trước ngày về, chúng tôi
cũng đã được gặp các nhà lãnh đạo cao nhất và vị sáng lập ra Pêma Tung.
Có thể vì ngôn ngữ hạn chế, các cuộc gặp thiếu thoải mái, cởi mở và cũng
không giúp tôi hiểu biết thêm được là bao về đạo Phật hay Tây tạng. Đời
sống của các tu sỹ nói riêng và của thung lũng nói chung còn khá cách
biệt nhìn từ hình thức đến nội dung. Nhưng thế giới bên ngoài vẫn ùa vào
đây từ mọi ngả, liên tục với những hàng quán và cửa hiệu mới xuất hiện
cùng các hình thức khác.
Vào các ngày lễ, dân cư toàn vùng tụ tập tại chùa dường như không để lại
một ai trong nhà: từ trẻ sơ sinh cho đến những cụ già còng lưng chống
gậy, với những trang phục nghiêm chỉnh và có lẽ là đẹp nhất của họ. Đời
sống tâm linh là sự sống còn của người Tây tạng. Tôi được chứng kiến
những nghi lễ hành đạo rất khác lạ cùng những đạo cụ, nhạc cụ rất đặc
biệt. Giờ nghỉ trưa, mọi người nằm trực tiếp trên những bãi đất đá lơ
thơ cỏ dại. họ sống hòa quyện với thiên nhiên. Nơi đây có cả trường đại
học phật giáo nổi tiếng từ xa xưa và một tu viện.
Tôi đã đến thăm tu viện Dzogchen, một trong sáu tu viện lớn của giáo
phái phật giáo ra đời đầu tiên ở Tây tạng và có ba trăm tu viện chi
nhánh. Tuy đã xây lại năm 2003, nhưng bên ngoài trông rất cũ kỹ, bên
trong chỉ lơ thơ đôi ba chiếc bàn ghế bẩn thỉu trông thật xác xơ. Song
có lẽ đây là dấu hiệu của đổi thay, vì tôi thấy hàng ngày các xe tải
liên tục chở đến cát sỏi, vật liệu xây dựng cùng với những công trình
mới đang dần xuất hiện, mang dáng dấp hiện đại hơn. Các bạn đã đến đây
năm trước cũng kể rằng, năm nay điều kiện sống đã khá hơn vì có thêm nhà
khách và có nhà vệ sinh (tuy khá bẩn). Nhưng vẫn chưa có nhà tắm và
nước nóng, tuy thời tiết lúc này đang như mùa đông ở Hà nội. Đương
nhiên, chúng tôi đã xác định là quên đi vấn đề tắm gội trong thời gian ở
Tây tạng. Đã có những anh chị suốt đợt đi trước cả tháng không tắm.
Nhưng thật kỳ diệu, tôi hầu như không thấy ngứa ngáy vì không khí ở đây
thật là tinh thiết.
Một lần quỳ ngắm kỹ bức tượng phật trong ngôi chùa chính nhân lúc vắng,
tôi giật mình vì vẻ đẹp và linh hồn toát ra từ bức tượng. Tôi cảm giác
như chưa được thấy ở đâu một tượng Phật đẹp như thế. Không gian đó quyện
vào những giai điệu cùng lời ca Tây tạng đã đem đến một cảm giác yên
bình trong sâu thẳm, để rồi cho ta cái nhìn rõ hơn về những gì thấp hèn
vô nghĩa và tiếp thêm sức mạnh. Lúc đứng dậy, tôi thấy hai phụ nữ Mỹ
(tôi gặp buổi sáng) đang quỳ cạnh, với nét mặt và ánh mắt đầy niềm tin
kính. Người bạn Mỹ nói rằng cùng với vài người khác, họ có một hành
trình giống năm ngoái và chỉ ở lại mỗi chùa một đêm. Có thể vì điều kiện
sống quá khổ? Nhưng tôi nghĩ ngôn ngữ là một cản trở lớn.
Việc giảng đạo chủ yếu bằng tiếng Tạng và không có máy dịch nên bản thân
tôi rất tiếc là không hiểu được; nhiều điều nghi vấn không được giải
đáp chưa kể đến những bí ẩn đã được đọc trong sách của các nhà thám hiểm
Tây tạng trước đây, cũng không có ai để trò chuyện. Dù sao, như mọi
người nói, thì đặt chân được đến miền đất thiêng Pêma Tung, Dzongchen
này là đã phúc đức lắm rồi.
Hàng ngày vẫn có các nhóm người đến từ nhiều nước. Người Trung quốc,
Hồng Kông và Đài Loan đến khá đông và thường ở lại lâu. Mọi người ở đây
đối xử với nhau rất thiện hữu. Trước ngày về, tôi vô tình phát hiện ra
một khu lều trại của người nước ngoài. Đó là một bãi đất rộng, có hàng
chục cái lều đã và đang được dựng lên của những người đến từ các nước đa
phần là tây Âu: Anh, Pháp, Thụy điển, Đan mạch, Thụy sỹ...Tôi ngạc
nhiên thấy có nhiều thanh niên Nga, họ đến từ Petecbua và Macscova.
Tôi tiếc là không có thời gian để có thể nói chuyện lâu. Có không ít
người đã sống ở đây cả tháng, tuy dưới lưng họ là đất đá lổn nhổn, không
nhà vệ sinh và không mọi điều kiện sinh hoạt tối thiểu. Cạnh khu lều
của họ là ngôi chùa mới xây xong do người nước ngoài tài trợ. Tôi gặp họ
đúng trước ngày khai trương ngôi chùa nên được chứng kiến cảnh lao động
hăng hái của đội quân quốc tế cho ngôi chùa Phật. Tôi cũng gặp một
người Anh đã sống và làm việc nhiều năm ở Trung quốc. Anh đã thường
xuyên dành các mùa hè đến làm việc ở Pêma Tung, đã đưa mẹ cùng người
thân đến đây. Anh nói thạo cả hai thứ tiếng: Trung quốc và Tây tạng.
Tại thị trấn nhỏ gần Pêma Tung, tôi thấy có nhiều người mặc áo tu đi xin
tiền giống ở Việt Nam. Tôi đoán họ mặc giả sư. Nhưng một lần khi đang
nói chuyện với một người Mỹ biết tiếng Tạng ở Pêma Tung, đã có một vị sư
trẻ đến nhờ người Mỹ dịch hộ để xin tôi tiền. Tôi cũng nhìn thấy các sư
đã dùng tiền được phát trong các buổi lễ để mua ngay những cốc mỳ ăn
liền tại cửa hàng nhỏ mới mở và ăn rất ngon lành. Đời sống các sư cũng
như mức sống của người Tây tạng còn rất khổ. Và lẽ tự nhiên, các tu sỹ
đang đi vào cuộc sống hiện đại một cách tỉnh táo chủ động hay bị động vô
ý thức. Cảm giác rằng đạo Phật đang đứng trước những thách thức rất lớn
để bảo tồn và phát triển cứ tăng lên trong tôi.
Những gì nhìn thấy hàng ngày vẫn đưa tôi trở lại với ý nghĩ lúc ở trạm
xăng. Tôi hình dung như đang có hai dòng suối chảy ngược chiều: một dòng
của những người vì đời sống tâm linh, họ tìm đến đạo phật; giòng kia là
của các tu sỹ Phật giáo thâm nhập vào đời thường. Lúc gặp nhau, hai
dòng sẽ có thể quyện lại thành một dòng thác, cuốn đi mọi rác rưởi và
bệnh hoạn, làm con người có đủ sức mạnh đương đầu với những thách thức
cấp bách của thời đại đang tăng lên từng ngày. Nhưng đây là điều vô cùng
khó, đòi hỏi phẩm hạnh tài năng của những nhà truyền giáo và đời sống
tâm linh của những vị cầm đầu các quốc gia.
Đây cũng là suy nghĩ lúc tôi chia tay với thung lũng Dzogchen. Đường về
đã mất ít thời gian hơn vì tốc độ làm đường thật là nhanh. Điều này
chứng tỏ chính phủ Trung quốc cũng đang tích cực xây dựng và phát triển
Tây tạng.
Việt Nam là nước có đạo phật từ lâu đời và hiện đang phát triển. Nếu
chúng ta có một xã hội đầy tình yêu thương vị tha, dân trí cao, biết
sống hiến dâng, chắc chắn đất nước ta sẽ phát triển bền vững, dân tộc ta
sẽ có thể tiếp tục tự hào trong hòa bình xây dựng. Việt Nam sẽ là điểm
đến của bạn bè năm châu bốn biển. Đó cũng là đóng góp của chúng ta cho
sự phát triển của nhân loại.
Theo: tuanvietnam.net