MỘT TRĂM
LẺ MỘT CÂU
CHUYỆN THIỀN
Trần Trúc
Lâm dịch
1. Một Cốc Trà
Nan-In, một
thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến
tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót. Vị
giáo sư nhìn cốc nước tràn cho đến khi không nhịn được, bèn lên tiếng: "Nó
đã đầy tràn rồi, không thêm được nữa đâu!"
"Thì
cũng như chiếc cốc này" Nan-In thong thả nói, "ông đã mang đầy tư
kiến và thành kiến. Làm sao tôi có thể chỉ cho ông về Thiền nếu ông không cạn
cốc của ông?"
2. Tìm Thấy Viên Ngọc Trên Ðường Bùn
Gudo tuy là
quốc sư, nhưng ngài vẫn hay du hành như một kẻ khất sĩ lang thang. Một hôm trên
đường đi Edo, một trung tâm văn hóa và chính
trị quan trọng, ngài đến gần một ngôi làng có tên là Takenaka. Trời đã tối và
mưa tầm tả, Gudo ướt mẹp và đôi dép rơm đã tơi tả. - một căn nhà tranh gần
làng, ngài thấy có khoảng bốn hay năm đôi dép bày ở cửa sồ và muốn vào hỏi mua
một đôi. Người đàn bà thấy ngài ướt lạnh, thương tình mời ngài trú qua đêm.
Gudo nhận lời và cám tạ bà ta. Ngài đến trước bàn thờ giữa nhà tụng một thời
kinh. Sau đó bà mẹ của bà chủ và bầy con ra chào. Nhìn thấy cả nhà buồn bả,
ngài hỏi cớ sự. "Chồng con là kẻ cờ bạc say sưa", người đàn bà kể lể.
"Khi ổng ăn bạc thì uống rượu say mèm rồi về nhà đánh đập vợ con. Nếu ổng
thua thì đi vay mượn khắp nơi. Lắm khi say quá lại không về nhà. Con phải làm
sao?"
"Ðể bần
tăng giúp cho," Gudo nói. "Ðây có ít tiền, hãy đi mua một chung rượu
ngon và ít đồ nhấm. Rồi bà đi nghỉ đi. Bần tăng sẽ tọa thiền trước bàn
thờ." Nữa đêm, ông chồng say khướt trở về, la lối om xòm. "Con mẹ nó
đâu, tao về nhà đây này. Có cái gì ăn không?"
"Có"
Gudo nói, "Bần tăng bị mắc mưa và được bà nhà thương tâm cho tạm trú qua
đêm. Ðể đền đáp bần tăng có mua một ít rượu và đồ nhấm dành cho ông dùng."
Gã đàn ông
hài lòng, uống sạch chung rượu rồi ngã lăn trên sàn mà ngủ. Gudo tọa thiền cạnh
bên. Sáng sớm hôm sau, gã đàn ông tỉnh dậy quên hẳn mọi chuyện đêm qua.
"Ông là
ai? - đâu đến đây?" gã hỏi Gudo khi ngài vẫn còn trầm tư mặc tưởng.
"Bần tăng là Gudo từ Ðông Kinh đến, trên đường đi Edo,"
Thiền sư trả lời.
Gã đàn ông
xấu hổ quá, liền miệng xin lỗi quốc sư. Gudo mĩm cười.
"Mọi sự,
mọi vật trên đời đều vô thường," ngài giảng giải. "Cuộc đời rất ngắn
ngủi. Nếu ông cứ tiếp tục cờ bạc và rượu chè thì ông chẳng làm được việc gì hữu
sự, lại còn làm khổ vợ con."
Gã đàn ông
chợt ngộ, như ra khỏi cơn mê.
"Ðại sư
nói đúng," anh ta dõng dạc. "Làm sao con có thể đền bù cho ngài về
lời dạy này! Hay là để con mang hành lý hộ ngài và tin ngài một đoạn đường.ẽ
"Nếu ông
muốn," Gudo tán đồng.
Hai người lên
đường. Sau khoảng ba dặm, Gudo bảo y quay về.
"Xin
được thêm năm dặm nữa," gã nài nỉ. Họ tiếp tục đi.
"Giờ ông
nên quay về," Gudo khuyên.
"Hẳn
thêm mười dặm nữa," gã đàn ông xin.
"Hãy về
ngay," Gudo bảo sau khi đã đi hết mười dặm.
"Xin cho
con theo Ðại sư suốt đời," gã tuyên bố.
Những thiền
sư hiện đại của Nhật đều là môn đệ của người kế thừa Gudo. Tên của ngài là
Mu-nan, người đàn ông đã không bao giờ quay trở lại.
3. Thật Vậy Sao?
Thiền sư
Hakuin được mọi người tán tụng là một bậc đạo hạnh. Cạnh thiền thất có một cô
gái xinh đẹp mà bố mẹ là chủ một cửa hàng thực phẩm. Bỗng dưng một hôm bố mẹ cô
khám phá ra rằng cô đang mang bầu. Cô không chịu khai ai là tác giả của cái bào
thai, nhưng sau bao lân cật vấn cô bảo là Hakuin.
Cha mẹ cô
điên tiết lên đến đối chất với Hakuin. Ngài chỉ nói "Thật vậy sao?".
Ngay khi đứa
bé vừa chào đời, nó được giao cho Hakuin, lúc bấy giờ danh dự của ngài đã bị
tổn thương nghiêm trọng, nhưng ngài vẫn thản nhiên. Ngài tận tình chăm sóc đứa
bé và thường đi sang hàng xóm để xin sữa và các thức cần thiết khác để nuôi trẻ
sơ sinh.
Một năm sau,
cô gái xinh đẹp kia không chịu đựng được lương tâm cắn rứt, bèn thú nhận với bố
mẹ rằng người cha thật sự của đứa bé là anh hàng cá trẻ tuổi. Bố mẹ cô gái vội
vả đến tạ lỗi với thiền sư, mong ngài thứ tội và xin nhận lại đứa bé.
Hakuin chấp
thuận và khi trao đứa bé lại ngài chỉ nói: "Thật vậy sao?".
4. Vâng Lời
Khi thiền sư
Bankei thuyết pháp, thính giả không những chỉ là thiền sinh mà còn có mọi hạng
của các tông phái khác. Ngài không bao giờ trích dẫn kinh sách hoặc say sưa
biện luận. Thay vào đó, lời ngài giảng đi thẳng vào tâm người nghe.
Thính chúng
đông đảo của ngài làm cho một vị tăng của phái Nichiren tức giận, bởi vì ngay
cả đồ đệ của ông ta cũng bõ đi nghe thiền. Vị tăng cao ngạo kia quyết định tìm
đến thiền đường để tranh biện với Bankei.
"Này,
ông giáo thiền kia!" vị tăng gọi lớn. "Ðợi một chút. Ai kính phục ông
đều nghe lời ông cả, nhưng một kẻ như ta đây không hề phục ông. Vậy ông có thể
làm cho ta vâng lời ông được chăng?ẽ
"Hãy đến
gần đây, ta sẽ chỉ cho" Bankei nói.
Với vẻ tự
đắc, vị tăng nọ vạch đám đông bước đến.
Bankei mĩm
cười bảo "Ông hãy sang bên trái ta."
Vị tăng làm
theo.
"Không,"
Bankei nói, "Chúng ta có thể nói chuyện d hơn nếu ông bước sang bên phải.
Hãy qua đây." Ông tăng lại vênh váo bước sang bên phải.
"Ông
thấy không" Bankei nhỏ nhẹ, "ông đang tuân theo lời ta và ta nghĩ ông
cũng là một người rất tốt. Bây giờ hãy ngồi xuống và lắng nghe."
5. Nếu Yêu, Hãy Yêu Công Khai
Hai mươi tăng
sinh và một ni sinh tên là Eshun, đang tu thiền với một vị thiền sư. Eshun rất
đẹp mặc dù đã cạo đầu và khoác áo nâu sòng. Vài tăng sinh đem lòng yêu trộm.
Một tăng sinh viết cho cô một lá thư tình và mong được gặp riêng. Eshun không
trả lời. Ngày hôm sau vừa hết buổi giảng của thầy, Eshun đứng dậy nói lớn, ám
chỉ vào người đã gởi thư cho cô: "Nếu sư huynh nào đó yêu tôi thực sự thì
ngay bây giờ hãy đến đây ôm tôi."
6. Không Có Lòng Nhân
- Trung hoa,
có một bà lão đã tận tình săn sóc cho một vị tăng hơn hai mươi năm. Bà đã xây
một thảo am và lo cơm nước cho ông ta để chuyên tọa thiền. Ðến một hôm bà muốn
thử xem ông đã tu hành đến đâu. Bà đi tìm được một cô gái xuân tình phơi phới.
"Ðến ôm ổng," bà bảo cô gái, "rồi hỏi ổng: Bây giờ làm trò gì
nữa? "
Cô gái liền
tìm đến vị tăng và chẳng bõ mất thì giờ nhào vào ôm và vuốt ve ông ta, rồi hỏi
ông ta làm gì tiếp.
"Một cổ
thụ mọc trên đá lạnh vào mùa đông," vị tăng trả lời một cách văn hoa.
"Còn đâu lửa lòng."
Cô gái trở về
thuật lại tự sự.
"Cứ nghĩ
ta đã nuôi y hơn hai mươi năm!" Bà già kêu lên giận dữ, "Y đã không
màng đến nhu cầu của cô, y đã không rũ lòng giải thích cho cô. Y không cần phải
đáp ứng dục tình, nhưng ít ra cũng phải có chút lòng thương."
Nói liền, bà
đến đốt rụi thảo am.
7. Lời Rao
Tanzan viết
sáu mươi tấm bưu thiếp vào ngày cuối của đời ngài, rồi bảo thị vệ gởi đi. Xong
ngài viên tịch. Tấm bưu thiếp viết:
Ta sắp rời
khỏi thế gian này. Ðây là lời tuyên bố cuối cùng của ta.
Tanzan
Ngày 27 tháng
7 năm 1892
8. Những Cuộn Sóng Lớn
Buổi đầu của
thời Minh Trị, có một đô vật sĩ tên là O-nami (Ðại Ba).
O-nami mạnh
vô song và rất am tường nghệ thuật đô vật. Trong những cuộc đấu riêng trong nội
viện, y còn hạ luôn cả sư phụ nữa, nhưng trước công chúng thì y lại nhút nhát
đến nỗi môn đệ của y lại đánh ngã được y.
O-nami thấy
cần phải tìm một vị thiền sư nhờ giúp đở. Vừa lúc, có một vị sư du hành tên là
Hakuju đang dừng chân ở một ngồi chùa nhỏ gần đó, O-nami tìm đến ngay và trình
bày nỗi khổ tâm.
"Ðại Ba
là tên của ngươi," vị thiền sư trầm ngâm, "vậy thì hãy ở lại trong
chùa tối nay. Hãy tưởng tượng rằng ngươi là những cuộn sóng lớn. Ngươi không
còn là đô vật sĩ nhút nhát nữa. Ngươi là những đợt sóng thần cuốn phăng tất cả.
Cứ làm như thế thì ngươi sẽ trở thành đô vật sĩ vĩ đại toàn quốc.ẽ
Thiền sư lui
nghỉ. O-nami tỉnh tọa cố tưởng tượng mình là những ngọn sóng. Y nghĩ ngợi lung
tung. Rồi dần dần y có cảm giác của những làn sóng. Ðêm dần qua thì ngọn sóng
càng lớn. Chúng cuốn phăng cả bông hoa trong các bình cúng. Ngay cả tượng Phật
trên bàn thờ cũng bị chìm. Trước bình minh thì chẳng còn thấy chùa đâu mà chỉ
là một đại dương bao la.
Ðến sáng,
thiền sư thấy O-nami còn đang trầm tư mặc tưởng, môi nở nụ cười. Ngài vỗ vai đô
vật sĩ. "Bây giờ không còn gì đáng ngại nữa," ngài bảo. "Ngươi
là những cuộn sóng ấy. Ngươi sẽ cuốn phăng mọi vật trước mắt."
Ngày hôm ấy,
O-nami thắng trận thi đấu một cách d dàng. Về sau không còn ai trên nước Nhật
có thể hạ y được nữa.
9. Mặt Trăng Không Thể Bị Ðánh Cắp Ðược
Ryokan, một
vị thiền sư sống cuộc đời hết sức giản đơn trong một thảo am ở dưới chân núi.
Một đêm có kẻ đạo chích đột nhập nhưng nhìn quanh chẳng có gì đấng lấy cả.
Ryokan vừa trở về, bắt gặp kẻ trộm.
"Có lẽ
ngươi từ xa lắm đến thăm ta," ngài nói với hắn, "và không nên về tay
không. Hãy cầm lấy bô quần áo của ta như là một món quà mọn."
Kẽ trộm sững
sốt. Hắn vơ bộ quần áo và chuồn ngay.
Ryokan ngồi
trần truồng ngắm trăng. "Thiệt đáng thương," ngài trầm ngâm, "Ta
ước gì có thể tặng cho hắn mặt trăng tuyệt đẹp này."
10. Bài Thơ Cuối Của Hoshin
Thiền sư
Hoshin sống ở Trung Hoa nhiều năm trước khi quay về vùng đông bắc nước Nhật dể
thu dạy đệ tử. Khi già lắm ngài mới kể lại cho đệ tử nghe một câu chuyện mà
ngài đã từng nghe ở Trung quốc. Chuyện kể: ?
Một năm vào
cuối tháng chạp, Tokufu đã quá già nói với đệ tử: "Ta không sống được đến
sang năm vậy các con hãy săn sóc ta thật tốt trong năm nay nhé."
Tăng chúng
nghĩ rằng ngài chỉ nói đùa, thế nhưng vì ngài là bậc thầy đạo cao đức trọng cho
nên các thiền tăng thay nhau chăm sóc ngài rất mực cho hết những ngày còn lại
trong năm.
Vào đêm giao
thừa, Tokufu nói: "Các con rất tốt với ta. Chiều mai, khi tuyết ngừng rơi,
ta sẽ xa các con."
Tăng chúng
cười rân, nghĩ rằng thầy mình đã quá già nên lẩm cẩm bởi vì đêm rất tỏ và chẳng
thấy tuyết đâu. Nhưng đến nữa đêm tuyết bắt đầu rơi, và đến sáng hôm sau thì
chẳng thấy thầy đâu nữa. Họ tìm đến thiền đường thì thấy ngài đã viên tịch. ?
Sau khi kể
xong, Hoshin nói với môn đồ: "Cũng chẳng khó mấy để một thiền sư đoán được
ngày mình viên tịch, nhưng nếu muốn thì ông ta có thể làm được."
"Thầy
làm được không?ẽ một đệ tử hỏi. "
"Ðược
chứ," Hoshin trả lời. "Ta có thể cho các con biết việc ta sẽ làm sau
bảy ngày nữa."
Chẳng có môn
đồ nào nào tin hết, và cũng chẳng ai để ý đến câu chuyện đã nói cho đến một hôm
ngài cho gọi bọn họ lại.
"Bảy
ngày trước," ngài nhắc lại, "ta nói với các ngươi rằng ta sẽ lìa xa các
ngươi. Theo thông lệ thì nên để lại một bài thơ giả biệt, nhưng ta thì chẳng
phải là thi sĩ hoặc kẽ viết chữ đẹp. Một đứa trong các con ghi hộ ta mấy lời
cuối cùng này."
Ðồ chúng
tưởng ngài đùa cợt, nhưng một đệ tử đã chuẩn bị để ghi chép.
"Con sẳn
sàng chưa? Hoshin hỏi.
"Bạch
thầy, rồi ạ," đệ tử đáp.
Rồi Hoshin
đọc bài kệ:
Ta đến từ
trong sáng
Và về với
trong sáng.
Là cái gì
vậy?
Bài thơ thiếu
một câu nữa để trở thành bài hài cú, người đệ tử nhắc: "Sư phụ, còn thiếu
một câu nữa."
Hoshin gầm lên
như sư tử hống: "Kaa!" rồi thăng.
11. Câu truyện Về Nàng
Shunkai
Shunkai còn
có tên khác là Suzu, một giai nhân sắc nước hương trời. Lúc còn trẻ nàng đã bị
ép hôn; không bao lâu sau cuộc hôn nhân đổ vở, nàng theo học triết ở một trường
đại học.
Ai nhìn thấy
Shunkai cũng đều thầm yêu trộm nhớ. Ðã thế, nàng đến đâu cũng gây được cảm
tình. Khi không hài lòng với triết học, nàng đến một thiền viện để học thiền,
và rồi các thiền sinh lại mê nàng như điếu đổ . Số của Shunkai thật là đào hoa.
Sau rốt nàng
thực sự trở thành một thiền sinh ở Kyoto.
Các sư huynh ở thiền viện Kennin đều ca tụng lòng thành của nàng, và một vị
trong số đó kết thân và giúp nàng thấu triệt được thiền.
Viện trưởng
của thiền viện là Mokurai, Tịnh Sấm, rất là khắc khe. Ngài tự giử giới rất
nghiêm và đòi hỏi mọi thiền sinh cũng phải như thế. Nhưng than ôi, trong nước
Nhật hiện đại, tăng sinh lại lấy vợ. Mokurai thường phải dùng chổi để xua đuổi
phụ nữ ra khỏi các thiền viện của ngài, khi thấy có bóng hồng thấp thoáng.
Nhưng khổ
thay, đuổi ra bao nhiêu lại vào càng nhiều hơn. Bà vợ của ông trưởng tràng lại
bắt đầu ghen tương với Shunkai. Bà càng điên tiết hơn khi nghe các thiền sinh
ca ngợi sự liu ngộ thiền của nàng. Sau rốt bà đi phao tin về sự liên hệ giửa
Shunkai và người bạn thiền huynh; vì vậy mà hai người bị đuổi ra khỏi thiền
viện.
"Ta có
thể chịu một phần lỗi," Shunkai thầm nghĩ, "nhưng bà vợ của ông
trưởng tràng cũng không thể ở lại thiền viện khi bạn của ta bị đối xử bất công
như vậy."
Ðêm ấy
Shunkai phóng hỏa đốt rụi thiền viện có từ 500 năm. Hôm sau nàng bị nhà chức
trách bắt giử.
Một luật sư
trẻ chú ý đến nàng và muốn giúp làm cho bản án nhẹ hơn. "Ông không nên
giúp tôi," nàng nói. "Bởi vì tôi sẽ gây nên tội khác để lại bị cầm
tù."
Sau bảy năm
bị giam giử, và ngay cả ông cai ngục 60 tuổi cũng mê mệt vì nàng, cuối cùng
Shunkai được thả.
Nhưng từ đó,
chẳng ai muốn gần gủi giúp đở nàng. Ngay cả các thiền sinh, những kẽ vốn tin
vào giác ngộ giải thoát trong đời này với thân xác này, cũng xa lánh nàng.
Shunkai khám
phá ra rằng Thiền là một việc mà kẽ theo thiền lại là một việc khác hẳn. Nàng
mắc bệnh và kiệt lực.
Nàng gặp một
tăng sĩ phái Shinsu, và được dạy niệm danh hiệu Ðức Quán Thế- Âm. Nhờ vậy tâm
hồn Shunkai được an ủi. Nàng chết khi còn tuyệt đẹp ở tuổi vừa ba mươi.
Khi còn đói
rách, nàng đã viết lại câu chuyện về đời nàng để kiếm sống. Câu chuyện được lan
truyền ở Nhật; rồi những kẻ đã từng xa lánh nàng, đã từng ganh ghét và thóa mạ
nàng nay lại đọc chuyện đời nàng trong nước mắt ràng rụa vì hối hận.
12. Ông Tầu Vui Vẻ ( (Hay Ông Thần Tài --
LND.)
Nếu ai đi phố
Tàu ở Mỹ cũng đều thấy tượng của một vị mập mạp mang một túi vải. Những kẻ kinh
doanh gọi là Ông Tầu vui vẻ hay Ông Thần tài.
Thực ra ông
này tên là Hotei, sống ở thời nhà Ðường. Ông chẳng có ý tự gọi mình là thiền sư
hoặc kết nạp môn đồ.
Ông đi rảo
khắp phố phường, vai mang một cái túi vải lớn trong đó chứa đủ thứ kẹo, bánh,
trái cây người ta cúng biếu, rồi ông lại phát cho lũũ trẻ hay chạy theo ông vui
đùa. Ông đã tạo nên một nhà trẻ giửa phố.
Khi nào ông
gặp một kẽ mộ đạo, ông ngữa tay xin: "Cho tôi một hào." Và nếu có ai
bảo ông trở về chùa màthuyết pháp, ông lại trả lời: "Cho tôi một
hào."
Một hôm đang
vui chơi với đám trẻ, tình cờ có một thiền sư đi qua, dừng lại hỏi: "Thế
nào là yếu tính của Thiền?ẽ
Lập tức,
Hotei yên lặng bỏ túi vải nặng nề xuống đất.
Vị thiền sư
kia hỏi tiếp: "Thế thì, cái thực dụng của Thiền là gì?ẽ Nhanh chóng, Ông
Tầu vui vẻ vác cái bị lên vai và tiếp tục đi.
13. Một Ông Phật
Tại Ðông Kinh
vaụo thời Minh Trị, có hai vị thiền sư nỗi danh với tánh tình khác hẳn nhau.
Một vị là Unsho, ở Shingon chuyên giử giới luật rất mực. Ngài không bao giờ
uống rượu và ăn sau 11 giờ sáng. Vị kia là Tanzan, dạy triết tại trường Ðại học
Hoàng gia, chẳng hề giử giới. Khi ngài đói thì ăn, buồn ngủ thì đánh một giấc
dù ban ngày.
Một hôm Unsho
đến viếng Tanzan, và thấy vị này đang uống rượu.
"Chào sư
huynh,ẽ Tanzan lên tiếng. "Uống cùng tôi một chén chăng?ẽ
"Tôi
chẳng bao giờ uống rượu!" Unsho dõng dạc bảo.
"Kẻ
không biết uống rượu chẳng phải là người," Tanzan nói.
"Này, Sư
huynh gọi tôi không phải là người chỉ vì tôi không say sưa ư!" Unsho bất
bình lớn tiếng. "Nếu không phải là người, tôi là gi vậy?ẽ
"Một ông
Phật," Tanzan trả lời.
14. Con Ðường Bùn Lầy
Một hôm
Tanzan và Ekido cùng đi trên một con đường lầy lội. Cơn mưa nặng hạt vẫn còn
rơi. Qua một khúc quanh, họ gặp một người thiếu nữ xinh đẹp trong bộ kimono với
đai lưng bằng lụa, ngập ngừng không băng qua đường được.
"Này cô
bé," vừa nói xong, tức thì Tanzan bế cô gái sang bên kia đường.
Ekido không
trò chuyện nữa cho mãi đến đêm khi hai người đến trú ở một ngôi chùa. Không còn
chịu được nữa Ekido phàn nàn với Tanzan: "Chúng ta là tăng sĩ, không được
đến gần phụ nữ, nhất là con gái trẻ đẹp. Nguy him lắm. Tại sao sư huynh lại phạm
giới?"
"Ủa, tôi
đã để cô gái ở đấy rồi mà," Tanzan nói. "Sư huynh còn mang cô ấy theo
ư?"
15. Shoun Và Mẹ
Shoun đã trở
thành một thiền sư của phái Soto. Cha ngài qua đời khi ngài còn là một thiền
sinh, để lại một mẹ già ngài phải chăm nom. Mỗi khi đến thiền đường ngài đều
đưa mẹ theo. Vì mẹ ngài luôn ở bên cạnh, cho nên khi viếng các tự viện, ngài
không thể ngụ cùng chư tăng. Ngài xây một thảo am kế cận để được săn sóc cho
mẹ. Ngài thường chép kinh kệ để sinh sống. Khi Shoun mua cá cho mẹ, kẻ chợ đều
mĩa mai, bởi nghĩ rằng ngài phạm giới, nhưng ngài bõ ngoài tai. Tuy vậy, mẹ
ngài lại đau lòng khi thấy mọi người đàm tiếu con mình. Sau rốt bà bảo Shoun:
"Mẹ nghĩ mẹ có thể trở thành ni cô và ăn chay được." Bà liền thực
hành và tu học.
Shoun rất
thích nhạc và đã từng là bậc thầy về đàn tranh. Mẹ ngài cũng biết chơi đàn
tranh. Có nhiều đêm trăng tròn, hai mẹ con thường hòa đàn với nhau.
Một đêm có
người con gái đi ngang nhà và nghe được tiếng đàn, liền mời ngài đến nhà nàng
đánh đàn vào đêm sau. Ngài nhận lời. Vài ngày sau, ngài gặp cô gái ngoài phố và
cám ơn nàng về lòng hiếu khách. Mọi người đều cười chế nhạo vì người thiếu nữ
đó là gái giang hồ.
Một ngày kia
Shoun phải đến thuyết pháp ở một ngôi chùa xa. Vài tháng sau, ngài trở về và
được tin mẹ vừa mất. Người quen không biết ngài ở đâu để báo tin, nên tiến hành
tang l.
Shoun bước
đến, dùng gậy gõ lên quan tài. "Mẹ ơi, con đã về đây," ngài nói.
"Con ạ,
mẹ vui lắm khi thấy con trở về," ngài tự trả lời.
"Vâng,
con cũng vui lắm," Shoun trả lời. Rồi ngài tuyên bố cùng mọi người:
"Tang l đã xong. Xin chôn cất tử tế."
Khi Shoun về
già, ngài biết không còn sống được bao lâu, liền gọi môn đồ đến vào một buổi
sáng rồi bảo rằng ngài sẽ viên tịch vào buổi trưa. Ðốt hương trước di ảnh của
mẹ và sư phụ, ngài viết một bài kệ:
Ta đã cố sống
cho trọn vẹn trong năm mươi sáu năm,
Rong ruỗi
trên đời.
Bây giờ mưa
đã tạnh và mây đang tan,
Có gương
trăng tròn trong bầu trời xanh.
Môn đệ của
ngài vây quanh tụng kinh, và Shoun ra đi trong tiếng kinh cầu.
16. Không Xa Cõi Phật
Một sinh viên
đại học đến thăm Gasan và hỏi: "Có bao giờ ngài đọc Thánh kinh không?
"Không,
hãy đọc cho ta nghe," Gasan bảo.
Người sinh
viên mở cuốn Thánh kinh và đọc một đoạn ở phần Thánh Ma-thi-ơ (Matthew):
"Còn về đồ mặc, sao các ngươi lo lắng làm chi? Hãy gẫm xem hoa huệ ngoài
đồng lớn lên thế nào: chẳng lao khổ, chẳng kéo chỉ, nhưng ta nói cùng các
ngươi, dẫu Sa-lô-môn vinh hiển cả thể, cũng không mặc được bằng một trong những
hoa ấy... Vậy nên, chớ lo lắng chi về ngày mai, vì ngày mai sẽ tự lo lắng cho
ngày mai."
Gasan bảo:
"Ai đã nói được những lời đó, ta cho là kẽ giác ngộ."
Người sinh
viên đọc tiếp: "Hãy xin, sẽ cho, hãy tìm, sẽ gặp; hãy gỏ, sẽ mở cho. Vì
hai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gỏ thì được mở cho."
Gasan nhận
xét: "Thật tuyệt. Ai nói điều ấy không xa cõi Phật là bao."
Lời Dạy Dè
Xẻn
Một bác sĩ
trẻ ở Ðông kinh tên là Kusuda gặp một người bạn đang học thiền. Anh bác sĩ trẻ
hỏi thiền là gì.
"Tôi
không thể nói được," người bạn trả lời, "nhưng có một điều chắc chắn là
nếu anh ngộ được thiền thì anh không còn sợ chết nữa."
"Ðược,"
Kusuda nói. "Tôi sẽ thử xem. Vậy tìm thiền sư ở đâu?"
"Ðến
thầy Nan-in," người bạn bảo.
Thế là Kusuda
tìm đến Nan-in, mang theo con dao bén để xem thiền sư có thực không sợ chết.
Khi Nan-in
trông thấy Kusuda, ngài lên tiếng: "Chào ông bạn. Khỏe không? Chúng ta đã
lâu không gặp!"
Kusuda sửng
sốt, bảo: "Chúng ta không từng biết nhau mà."
"Ồ! đúng
thế," Nan-in trả lời "Tôi nhầm ông với một vị bác sĩ khác thường đến
đây học thiền." Với sự khởi đầu như vậy, Kusuda mất cơ hội thử thách vị
thiền sư, anh ngập ngừng hỏi xem nếu anh ta có thể học thiền được không?
Nan-in bảo
"Thiền chẳng khó. Nếu ông là thầy thuốc, hãy chửa trị bệnh nhân với từ
tâm. Ðó là Thiền.
Kusuda trở
lại viếng Nan-in ba lần và mỗi lần đều được dạy cùng một câu. "Một người
thầy thuốc chớ nên phí thì giờ ở đây. Hãy trở về chăm sóc bệnh nhân.ẽ
Kusuda vẫn
chưa hiểu tại sao lối dạy như vậy có thể giúp cho người học đạo không sợ chết.
Ðến lần thứ tư anh phàn nàn: "Bạn tôi bảo tôi rằng khi học thiền người ta
không còn sợ chết nữa. Mỗi lần tôi đến đây ngài đều bảo tôi phải về chăm sóc
bệnh nhân. Việc đó thì tôi rành lắm rồi. Nếu thiền chỉ có vậy thì tôi sẽ không
đến thăm ngài nữa."
Nan-in mĩm
cười và vỗ vai người bác sĩ. "Tôi đã quá khắc khe với ông. Ðể tôi cho ông
một công án."
Ngài dạy
Kusuda quán tưởng về KHÔNG của Joshu (Triệu Châu), bài đốn ngộ đầu tiên trong
cuốn Vô Môn Quan.
Hai năm liền,
Kusuda quán tưởng đến công án KHÔNG. Khá lâu anh tưởng chừng đãõ ngộ được chân
tâm, nhưng thiền sư vẫn bảo: "Ông chưa đạt đến.ẽ
Kusuda tiếp tục quán chiếu thêm một năm rưỡi nữa. Tâm bắt đầu
định. Các vấn nạn được giải tỏa. KHÔNG trở thành chân lý. Anh ta chăm sóc bệnh
nhân tốt hơn, mà chính anh cũng chẳng hề biết đến, anh đã không còn bận tâm đến
sự sống và chết nữa. Từ đó mỗi khi anh đến thăm Nan-in, vị sư già chỉ mĩm cười.
18. Ngụ Ngôn
Trong Kinh,
Ðức Phật có dạy một câu chuyện ngụ ngôn như sau: Một người đi qua một cánh đồng
và gặp một con hổ . Anh ta bõ chạy, con hổ đuởi theo. Ðến một bờ vực sâu, anh
chụp được một sợi dây leo và đu lững lơ gần bờ vực. Bên trên con hổ đang cúi
xuống đánh hơi. Run sợ cuống cuồng, anh nhìn xuống đáy vực sâu lại thấy một con
hổ khác đang nhe răng nhìn lên.
Bỗng lại xuất
hiện hai con chuột, một trắng một đen đang gậm nhấm sợi dây leo. Chợt anh thấy
một quả dâu chín mọng bên cạnh. Một tay nắm chặt dây, tay kia nhặt quả dâu bỏ
vào miệng. Chao ôi sao nó ngọt thế!
19. Nhất Ðế
Nếu ai đến
thăm thiền viện Obaku ở Kyoto
đều nhìn thấy một bảng gỗ khắc chữ đại triện "Nhất Ðế" trên cỗng. Ðối
với người biết thưởng thức lối viết chân phương ai cũng đều tấm tắt khen ngợi
là một tuyệt tác. Nó được viết bởi thiền sư Kosen hai trăm năm trước.
Thực ra ngài
viết trên giấy, rồi nghệ nhân mới dựa theo khắc trên gỗ thật lớn. Khi Kosen
viết thảo thì một thiền sinh đã đứng bên cạnh mài cả hàng mấy hủ mực lớn tướng,
và cũng bạo dạn không ngừng phê bình lối viết của sư phụ.
"Chưa
được," Y thưa với Kosen sau bản thứ nhất.
"Cái này
thì thế nào?ẽ
"Còn
kém, tệ hơn bản trước nữa," đệ tử phê.
Kesen kiên
nhẫn viết bản này qua bản khác cho đến khi đếm được tám mươi tư bản với chữ
"Nhất Ðế" chồng chất mà đệ tử vẫn chê.
Ðến một lúc
thiền sinh trẻ kia bước ra ngoài trong chốc lát, Kosen nghĩ: "Bây giờ là
lúc ta thoát ra khỏi cái dòm chừng của nó," và ngài phóng bút viết liền
tay với tâm thơ thới chữ "Nhất Ðế." Quay vào, nguời đệ tử reo lên:
"Tuyệt tác."
20. Lời Mẹ Dạy
Jiun, một vị
Thiền sư phái Shingon, vốn là một học giả chữ Phạn thời Tokugawa. Lúc còn là
thiền sinh, ngài hay thuyết giảng cho các đồng môn.
Khi hay tin,
mẹ ngài liền viết cho ngài một lá thư: "Con ạ, Mẹ không tin rằng khi con
hiến mình vào cửa Phật là cốt để trở thành một cuốn tự điển sống. Biện bác,
sành sõi, vẽ vang và tự màn chẳng đi đến đâu. Mẹ muốn con hãy dẹp cái trò lên
lớp đó đi. Hãy dọn mình tĩnh tu trong một tiểu viện ở chốn thâm sơn cùng cốc.
Dành mọi thì giờ cho việc thiền quán, may ra con mới ngộ được chánh đạo.
21. Tiếng Vỗ Của Một
Bàn Tay
Mokurai là
thiền sư của chùa Kennin, biệt danh là Tịnh Sấm. Ngài có một đệ tử được gởi gấm
tên là Toyo, chỉ mới có mười hai tuổi. Mỗi buổi sáng và mỗi buổi tối Toyo thấy
các đệ tử lớn tuổi hơn thường đến viếng sư phụ mong được chân truyền thiền học
và chỉ dạy công án để định tâm.
Toyo cũng ước
được tọa thiền.
"Hãy
ráng chờ thêm nữa," Mokurai bảo. "Con hãy còn bé lắm."
Nhưng đứa trẻ
cứ nài nĩ mãi nên sư phụ cũng chiều lòng.
Một buổi tối
Toya đến bên ngoài cửa phòng của sư phụ đúng giờ. Cậu đánh chiêng báo hiệu,
đãnh l ba lần ngoài cửa rồi đến ngồi trước mặt sư phụ trong sự yên lặng kính
cẩn.
"Con đã
nghe tiếng vỗ của hai bàn tay," Mokurai bảo. "Bây giờ chỉ cho ta
tiếng vỗ của một bàn tay."
Toyo cúi lạy
và lui về phòng mình mà quán chiếu đến công án này. Từ cửa phòng cậu ta có thể
nghe văng vẳng tiếng nhạc của các cô đầu geisha. "Ồ! có rồi!" cậu reo
lên.
Ðêm hôm sau,
khi sư phụ bảo cậu din tả tiếng vỗ của một bàn tay, Toyo bắt đầu đàn bài nhạc
của các cô đầu.
"Không,
không,ẽ thiền sư Mokurai bảo. "Chẳng phải thế đâu. Ðó không phải là tiếng
vỗ của một bàn tay. Con chẳng hiểu gì cả."
Cho rằng
tiếng nhạc văng vẳng quấy rầy quá, Toyo bèn tìm một căn phòng vắng lặng hơn.
Cậu ta nghĩ miên man. "Thế nào là tiếng vỗ của mộât bàn tay?" Cậu
chợt nghe có tiếng nước rơi. "Ta được rồi," cậu tưởng.
Khi cậu gặp
lại sư phụ, Toyo bắt chước tiếng nước rơi.
"Cái gì
vậy?’ thiền sư Mokurai hỏi. "Ðó là tiếng giọt nước rơi, nhưng không phải
là tiếng vỗ của một bàn tay. Ráng nữa đi."Thất vọng, Toyo mặc tưởng đến
tiếng vỗ của một bàn tay. Cậu nghe tiếng gió thỏang. Nhưng lại bị gạt đi.
Cậu nghe
tiếng cú kêu. Lại cũng bị từ chối.
Tiếng vỗ của
một bàn tay lại không phải là của bầy châu chấu.
Toyo đến và
đi cũng phải mười bận viếng Thầy với nhiều tiếng động khác nhau. Tất cả đều sai
bét. Cả một năm cậu cứ suy nghĩ về tiếng vỗ của một bàn tay là thế nào.
Cuối cùng,
cậu bé Toyo đi vào thiền định và quán chiếu tất cả các tiếng động. "Con
chẳng còn biết thêm tiếng động nào khác nữa," cậu giải thích về sau này,
"do đó con đạt đến tiếng động vô thanh."
Toyo đã ngộ
được tiếng vỗ của một bàn tay.
22. Tim Ta Nóng Như Lửa
Soyen Shaku,
vị Thiền sư đâu tiên đặt chân đến Hoa Kỳ, bảo: "Tim ta nóng như lửa, nhưng
mắt ta lại lạnh như tro." Ngài đặt ra những qui định sau và thực hành mỗi
ngày.?
Buổi sáng,
trước khi đắp y, đốt hương và tọa thiền.
Ngủ đúng giờ.
Nhận phần ăn của mình cũng đúng lúc. Ăn vừa đủ, không ăn cho thỏa mãn.
Thái độ khi
tiếp khách cũng giống như khi mình ở một mình. Khi ở một mình cũng giử thái độ
y như lúc tiếp khách.
Chú ý vào
mình nói cái gì và bất cứ điều gì mình nói. Thực hành mãi.
Khi cơ hội
đến, không buông trôi, nhưng phải suy nghĩ kỷ trước khi hành động.
Không nên hối
tiếc chuyện đã qua. Hãy hướng về tương lai.
Phải có thái
độ vô úy của một kẻ anh hùng, nhưng có quả tim của một trẻ thơ.
Khi đi ngủ, hãy ngủ như là giấc ngủ cuối. Khi thức dậy, hãy tức
khắc rời xa giường y như khi ta vứt đi đôi giày cũ.
23. Sự Ra Ði Của ESHUN
Khi Sư bà
Eshun, tuổi đã quá 60, sắp lìa trần, bảo chư tăng chất một giàn củi lớn ngoài
sân.
Ngồi ngay
ngắn giửa đống củi, bà bắt đầu cho đốt lửa ở xung quanh.
"Sư
bà!" một vị tăng gào lên, "có nóng lắm không?"
"Chỉ có
người u mê như ngươi mới quan tâm đến chuyện cỏn con như vậy," Eshun trả
lời.
Lửa bùng lên,
và bà viên tịch.
24. Tụng Kinh
Một nông dân
nhờ một vị tăng phái Tendai tụng kinh cho vợ anh ta vừa mất. Sau thời kinh, anh
hỏi: "Ngài có tin rằng vợ tôi hưởng được phước đức của thời kinh không?ẽ
"Chẳng
những chỉ vợ của gia chủ mà tất cả chúng sanh đều được hưởng cả," vị tăng
trả lời.
"Nếu
ngài bảo mọi chúng sanh đều được phước,ẽ người nông dân bảo, "vậy thì họ
sẽ dành hết vì vợ tôi rất yếu đuối. Xin ngài chỉ tụng kinh cho vợ tôi
thôi."
Vị tăng giải
thích rằng người Phật tử nào cũng muốn hồi hướng công đức cho tất cả chúng
sinh.
"Ðó là
một giáo lý cao thượng,ẽ anh nông dân kết luận, "nhưng xin ngài dành cho
một ngoại lệ. Tôi có tên láng giềng thô bạo hằng xử tệ với tôi. Xin ngài loại
nó ra khỏi cái thành phần chúng sinh kia nhé."
25. Ba Ngày Nữa
Suiwo, đệ tử
của Hakuin, là một thiền sư giỏi. Trong thời an cư kiết hạ, một đệ tử từ một
đảo phương nam nước Nhật đến gặp thầy. Suiwo trao cho một công án: "Nghe
tiếng vỗ của một bàn tay."
Người đệ tử
đã trải qua ba năm mà vẫn chưa ngộ được. Một đêm nọ, ông ta đến gặp Suiwo nước
mắt đầm đìa. "Con đành chịu xấu hổ trở về quê thôi," ông ta bảo,
"vì con chẳng giải được vấn nạn."
"Hãy đợi
thêm một tuần nữa đi và ráng chú tâm thiền định." Suiwo khuyên. Người
thiền sinh vẫn chẳng liu ngộ được. "Ráng thêm một tuần nữa," Suiwo
bảo. Người đệ tử vâng lời nhưng vẫn vô ích.
"Thêm
một tuần nữa." Lại vô hiệu. Chán nãn quá, người thiền sinh xin được về
quê, nhưng Suiwo yêu cầu thiền quán thêm năm ngày nữa. Chẳng đi đến đâu. Rồi
ngài phán: "Thiền thêm ba ngày nữa, nếu ngươi không ngộ được thì hãy tự tử
đi."
Ðến ngày thứ
hai, vị thiền sinh hốt nhiên thoắt ngộ.
26. Tranh Biện Ðể Ðược Tạm Trú
Các vị tăng
khi đi hoằng pháp đó đây, nếu khởi biện và thắng được một cuộc tranh luận về
Phật pháp với các vị đang trụ trìỉ ở một tự viện thì được lưu trú, nhưng nếu
thua thì lại xách gói ra đi.
Trong một
ngôi chùa ở phía bắc nước Nhật, có hai vị tăng sĩ huynh đệ kia cùng tu. Vị sư
huynh thì uyên bác, nhưng sư đệ thì dốt nát mà lại chột mắt. Có một vị tăng du
hành đến xin tạm trú, đã nhã nhặn thách thức một cuộc tranh luận về giáo pháp
thâm diệu. Vị sư huynh hôm ấy đã mỏi mệt vì nghiên cứu kinh sách nên bảo sư đệ
thay thế. "Hãy ra tiêp và hãy đối thoại trong tĩnh lặng" Sư huynh căn
dặn.
Rồi vị sư đệ
và người lữ khách cùng đến trước điện Phật và ngồi xuống.
Một lát sau,
người lữ khách đứng dậy vội vả đến thưa cùng vị sư huynh: "Sư đệ của ngài
quả là tuyệt. Ông ấy hạ bần tăng rồi."
"Hãy nói
lại cho ta nghe chuyện đối thoại," vị sư huynh nói.
"À thế
này!" người lữ khách kể, "trước tiên bần tăng giơ lên một ngón tay
tượng trưng cho Ðức Phật, Ðấng Giác ngộ. Sư đệ liền giơ lên hai ngón, ám chỉ
Ðức Phật và giáo pháp của Ngài. Bần tăng giơ lên ba ngón tượng trưng Phật, Pháp
và Tăng. Sư đệ liền giơ nắm đấm trước mặt bần tăng, ám chỉ rằng cả ba đều khởi
từ nhất thể. Như thế là sư đệ đã thắng và bần tăng không có lý do gì lưu lại
đây cả." Nói xong, lữ khách ra đi.
"Lảo
quái tăng ấy đâu rồi?" vị sư đệ chạy vào phòng sư huynh hỏi.
"Ta biết
rằng đệ đã thắng cuộc tranh luận."
"Thắng
con khỉ họ. Tôi định nện cho lảo ta một trận."
"Kể cho
ta nghe chuyện gì đã xảy ra nào," sư huynh bảo.
"Thế nào
ư! vừa gặp tôi là lảo giơ một ngón tay lên, ý muốn sĩ nhục tôi bằng cách ám chỉ
tôi chột mắt. N lảo là khách nên tôi ráng lịch sự, rồi thì lảo giơ lên hai
ngón, ý mừng rằng lảo có hai con mắt. Kế đến tên mắc dịch đó lại giơ lên ba
ngón, muốn nói rằng giữa hai người chỉ có ba con mắt. Tôi cáu quá định đấm cho
lảo một quả nhưng lảo lại chạy mất và chuyện chỉ có vậy!"
27. Giọng Nói Của Hạnh Phúc
Sau khi
Bankei qua đời, một người mù thường sống cạnh thiền viện kể với bạn rằng:
"Bởi tôi mù nên không thể nào nhìn thấy rõ mặt ai, vì thế tôi đoán được
tâm tánh của mỗi người qua tiếng nói. Thông thường khi tôi nghe ai khen ngợi kẻ
khác hạnh phúc hay thành công, tôi còn nghe được cái giọng thầm kín của ganh
tị. Khi nghe lời chia buồn kẻ khác gặp điều bất hạnh, tôi nghe có giọng khóai
trá thỏa mãn, rõ là kẻ nói lời chia buồn mà lòng thì sung sướng vì có những món
kẻ kia bỏ lại để cho mình chiếm đoạt.
"Chỉ
riêng giọng nói của Thiền sư Bankei là luôn luôn thành thực. Khi ngài nói lời
vui vẻ, tôi chỉ nghe độc có giọng vui vẻ. Khi ngài tỏ lòng buồn rầu, tôi chỉ
nghe độc một giọng buôn rầu."
28. Hãy Tự Mở Kho Báu Của Mình
Daiju tìm đến
Thiền sư Baso ở Trung quốc để học đạo. Baso hỏi: "Ông tìm kiếm cái
gì?"
"Ðạo
gíác ngộ," Daiju trả lời.
"Ông đã
có sẵn kho báu, tại sao còn phải tìm kiếm bên ngoài?" Baso hỏi.
Daiju thắc
mắc: "Kho báu của tôi ở đâu?"
Baso trả lời:
"Cái mà ông vừa hỏi là kho báu của ông đấy."
Daiju hốt
nhiên thoắt ngộ! Từ đấy về sau ngài thường khuyên bạn bè: "Hãy mở kho báu
của mình ra mà dùng."
29. Không Nước, Không Trăng
Khi sư cô
Chiyono theo học Thiền với thiền sư Bukko của phái Engaku, đã lâu mà cô vẫn
chưa đốn ngộ.
Mãi đến một
đêm sáng trăng nọ, cô gánh nước đầy trong hai thùng gổ niềng bằng tre. Niềng tre
đứt và đáy thùng bung ra. Ngay lúc ấy Chiyono hoắc ngộ.
Ðể ghi lại sự
chứng nghiệm, cô viết thành một bài kệ:
Như thế, ta
đã cố giữ cái thùng gổ cũ
Sợi niềng tre
đã yếu và sắp đứt
Cho đến lúc
cái đáy thùng bung ra
Chẳng còn
nước trong thùng
Chẳng còn
trăng trong nước
30. Tấm Danh Thiếp
Keichu, Một
Ðại thiền sư thời Minh Trị, trụỉ trì đại tự viện Tofuku ở Kyoto. Một ngày nọ, thống đốc của Kyoto đến thăm ngài lần
đầu.
Viên thị vệ
đưa vào tấm danh thiếp ghi: Kitagaki, Thống đốc Kyoto.
"Ta
chẳng có việc gì quan hệ với ông này," Keichu nói với thị vệ. "Bảo
ông ta về đi."
Viên thị vệ
mang tấm thiếp trở ra với lời cáo lỗi.
"Ðấy là
lỗi tại tôi," ông thống đốc nói và lấy bút xóa đi mấy chữ Thống đốc Kyoto. "Xin thưa lại
với đại sư lần nữa."
"Ồ!
Kitagaki đấy à?" thiền sư thốt lên khi nhìn thấy tấm danh thiếp. "Ta
muốn tiếp ông ấy."
31. Mọi Thứ Ðều Là
Thượng Hảo Hạng
Khi Banzan đi
qua chợ nghe được câu chuyện đối thoại giửa anh hàng thịt và người khách mua.
"Bán cho
tôi miếng thịt ngon nhất trong hàng của ông," khách bảo.
"Món gì
trong hàng của tôi cũng đều thượng hảo hạng cả," anh hàng thịt trả lời.
"- đây, bà không thể tìm thấy miếng thịt nào mà không phải là thượng hảo
hạng."Qua câu chuyện, Banzan chợt liu ngộ.
32. Thời Giờ Là Châu Báu
Một Sứ quân hỏi
Takuan, một vị thiền sư, một lời khuyên cách dùng thì giờ như thế nào. Ông ta
cảm thấy thời gian trôi lâu quá, suốt ngày ngồi cứng người ở trướng để mọi
người bái kiến.
Takuan viết
tám chữ Hán để trao lại:
Một ngày
không có hai
Thời giờ là
châu báu.
Ngày này
không hề trở lại
Mỗi phút đáng
giá một viên ngọc quí.
33. Bàn Tay Của CỦA MOKUSEN
Mokusen Hiki trụ trì ở một tự viện thuộc tỉnh
Tamba. Một trong nhưng đệ tử than phiền với ngài về tánh bủn xỉn của vợ mình.
Mokusen đến viếng bà vợ của người đệ tử và giơ ra nắm đấm trước mặt người đàn
bà.
"Vậy là
có ý gì?" bà ta ngạc nhiên hỏi.
"Giả sử
nắm tay của ta cứ như thế này mãi. Bà gọi nó là gì?" ngài hỏi.
"Dị
dạng," người đàn bà trả lời.
Rồi ngài xòe
bàn tay ra trước mặt bà và hỏi: Giả sử nếu nó cứ như thế này mãi, bà gọi thế
nào?"
"Một
loại dị dạng khác," bà ta trả lời.
"Nếu bà
hiu được như vậy," Mokusen kết luận, "bà là một người vợ tốt."
Xong ngài ra về.
Sau lần viếng
thăm đó, người đàn bà hết lòng giúp chồng bố thí và tiết kiệm.
34. Một Nụ Cười Trong Ðời
Suốt đời
Mokugen, chưa ai thấy ngài cười cho đến khi sắp chết. Vào ngày cuối ngài bảo
với các đệ tử trung thành: "Các con học với ta hơn mười năm nay. Giờ hãy
cho ta thấy lối liu ngộ thiền của các con như thế nào. Ai biểu lộ rõ nhất sẽ
được truyền y bát và kế tục ta."
Mọi người đều
chăm chú vào gương mặt nghiêm trọng của Mokugen mà không ai trả lời.
Encho, một đệ
tử theo thầy đã lâu, bước đến cạnh giường. Ông đẩy chén thuốc tới vài phân. Ðó
là câu trả lời của ông khi được hỏi đến.
Nét mặt thầy
càng thêm nghiêm trọng. "Con chỉ hiểu có vậy thôi ư?" Mokugen hỏi.
Encho lại đưa
tay ra kéo lui chén thuốc.
Một nụ cười
thật tươi lộ trên mặt Mokugen. "Thằng nhải," ngài nói với Encho.
"Con đã theo ta mười năm mà chưa hề thấy toàn thân của ta. Hãy cầm lấy y
bát. Chúng thuộc về con."
35. Mỗi Phút Ðều Là Thiền
Mỗi thiền
sinh phải sống cạnh thầy ít ra cũng phải mười năm trước khi thu dạy kẻ khác.
Tenno, vừa trải qua thời kỳ học tập và nay trở thành thiền sư, đến thăm Nan-in.
Hôm ấy trời mưa, nên Tenno mang guốc và cặp một cái dù. Sau khi chào hỏi,
Nan-in lên tiếng: "Có lẽ ông đã để guốc trước tiền đường. Ta muốn biết
chiếc dù của ông nằm bên phải hay bên trái của đôi guốc."
Tenno bối rối
không đáp lại ngay được. Ông ta hiểu ra rằng mình chưa sống thiền trong từng
phút. Ông ta trở thành đồ đệ của Nan-in, và học trong sáu năm nữa để đạt đến
mức thiền trong từng phút.
36. Mưa Hoa
Subhuti (Bồ
Tát Quán Tự Tại) là một đệ tử của Ðức Phật Thích Ca. Ngài có khả năng thấu
triệt được tiềm năng của pháp KHÔNG, quan niệm cho rằng sự vật không hiện hữu,
mà do tương tác giửa chủ thể và đối tượng.
Một ngày kia
Subhuti, đang hành thâm bát nhã chiếu Không dưới một đại thụ. Hoa bỗng rơi xung
quanh Ngài.
"Chúng
tôi xin cúng dường bài pháp về Không của Ngài," các phạm thiên thì thầm
bên Ngài.
"Nhưng
ta chưa nói gì về Không mà," Subhuti nói.
"Ngài
chưa nói đến Không, chúng tôi chưa nghe đến Không," thiên thần trả lời.
"Ðó thực sự là Không" Và hoa đổ xuống Ngài như mưa.
37. An Tống Kinh Ðiển
Tetsugen, một
kẻ mộ Thiền ở Nhật, quyết định ấn tống kinh Phật, lúc bấy giờ chỉ bằng Hán ngữ.
Bản in tạng kinh phải được khắc bằng bản gổ đến sáu ngàn tấm, một công tác to
lớùn vô lường.
Tetsugen bắt
đầu du hành và quyên tiền đóng góp của bá tánh thập phương. Vài kẻ có lòng,
biếu ông cả trăm lượng vàng, nhưng hầu hết còn lại thì chỉ cúng vài xu. Ông cảm
tạ mỗi khách bố thí lòng tri ân ngang nhau. Sau mười năm Tetsugen kiếm đũ số
tiền để khởi sự công tác.
Nhưng lúc ấy
sông Uji gây lụt lội. Nạn đói kéo theo. Tetsugen dùng tiền đã quyên góp được để
in kinh, phân phát cứu đói. Rồi ông ta lại bắt đầu đi quyên góp trở lại.
Vài năm sau,
một trậỉn ôn dịch tràn lan khắp nơi. Lần nữa, Tetsugen lại phân phát hết tiền
quyên góp để cứu nhân độả thế.
Ông lại khởi
công lần thứ ba, và sau mười hai năm ông đạt được ước nguyện. Bản gỗ in bộ kinh
đầu tiên hiện được trưng bày tại Tu viện Obaku ở Kyoto.
Người Nhật
thường truyền tụng cho con cháu nghe rằng Tetsugen đã làm ra ba bộ kinh, và
rằng hai bộ đầu còn vượt trội hơn bộ chót.
38. Sự Nghiệp Của GISHO
Gisho thọ
giới sa di lúc mười tuổi. Côâ trải qua thời huân tập cũng giống như những chú
tiểu khác. Khi đến tuổi mười sáu cô tìm học từ thiền sư này đến thiền sư khác.
Cô đã học với
Unzan trong ba năm, với Gukei sáu năm, nhưng vẫn chưa thấy được nẽo sáng. Cuối
cùng cô tìm đến thiền sư Inzan.
Inzan đối xử
với cô không phân biệt phái tánh. Ngài quát mắng cô như sấm động. Ngài tát cô
thẳng thừng cốt đánh thức bản lai diện mục của cô.
Ginsho lưu
học với Inzan mười ba năm, và ở đó cô thấy ra điều cô bấy lâu tìm kiếm!
Ðể ca tụng
cô, Inzan làm bài kệ:
Ni cô này học
với ta mười ba năm.
Ban tối cô
thiền quán chiếu công án sâu xa,
Ban sáng cô
lại đắm chìm trong công án khác,
Sư cô người
Hoa Tetsuma cũng không thể hơn cô,
Và kể từ
Mujaku chẳng có ai thành khẩn như Gisho!
Còn rất nhiều
cửa cô phải đi qua.
Cô còn phải
nhận nhiều cú đấm từ bàn tay sắt của ta.
Sau khi Gisho giác ngộ, cô đến tỉnh Banshu lập
ra thiền viện riêng, và thu dạy hai trăm sư nữ khác cho đến ngày cô viên tịch
vào một năm giữa tháng Tám.
39. Ngủ Trưa
Thiền sư
Soyen Shaku viên tịch lúc sáu mươi mốt tuổi. Hoàn thành sự nghiệp, ngài để lại
một giáo pháp dồi dào hơn bất cứ thiền sư nào khác. Giửa mùa hạ, đồ đệ của ngài
thường hay ngủ trưa, và ngài giả tảng lơ nhưng riêng ngài thì không bao giờ chểnh
mảng.
Khi mới mười
hai tuổi, ngài đã h�c thiền quán giáo pháp phái Tendai. Một buổi trưa hè, khí
trời oi ả, cậu bé Soyen duổũi thẳng chân đánh một giấc khi thầy vừa đi khỏi.
Ba giờ sau,
cậu chợt thức khi thầy trở vào, nhưng đã muộn. Cậu nằm đơ ra đấy ở ngưỡng cửa.
"Xin thứ
lỗi cho, xin thứ lỗi cho," sư phụ của ngài thầm thì, bước cẩn thận qua
thân cậu bé như thể là của bậc trưởng thượng. Sau lần ấy, Soyen không bao giờ
ngủ trưa nữa.
40. Trong Cõi Mộng
"Sư phụ
của chúng ta hay ngủ một giấc trưa," một đệ tử của Soyen Shaku kể.
"Khi bọn trẻ chúng tôi hỏi tại sao thầy làm vậy thì thầy bảo: �, ta đi vào
cõi mộng để gặp các bậc thánh nhân như Khổng Tử thường làm.’ Khi Khổng Tử ngủ,
ngài hay gặp các bậc thánh và sau đó kể lại với các đồ đệ."Một ngày nọ trời
nóng quá, vài đứa chúng tôi đánh một giấc. Sư phụ quở trách. ‘Chúng con đến xứ
mộng để gặp các bậc thánh nhân như Khổng Tử thường làm,’ chúng tôi vội giải
thích. ‘Các thánh nhân nói sao? Sư phụ gắt. Một đứa trong bọn tôi trả lời:
‘Chúng con đến xứ mộng gặp các thánh nhân và hỏi họ có gặp sư phụ của chúng con
đến đấy mỗi buổi trưa không, nhưng họ bảo chẳng hề gặp ông ấy,"41. Thiền
Của JOSHU
Joshu khởi sự
học Thiền lúc ngài đã sáu mươi tuổi và tiếp tục đến mãi tám mươi tuổi thì liểu
ngộ. Ngài dạy thiền từ khi tám mươi tuổi cho đến khi một trăm hai mươi tuổi.
Một lần có
một thiền sinh hỏi: "Nếu chẳng có gì trong tâm thì con phải làm sao?"
Joshu trả
lời: "Ném nó ra."
"Nhưng
nếu con chẳng có gì thì làm sao con ném nó ra được?" thiền sinh tiếp.
"Vậy
thì" Joshu bảo "Hãy khiêng nó ra."
41.Câu Trả Lời Của
Người Chết
Khi Mamiya,
về sau trở thành một giảng sư đại tài, đến một thiền sư để được chỉ giáo, liền
được cho một công án về tiếng vỗ của một bàn tay.
Mamiya chú
tâm quán chíếu đến đề thọai đầu này. "Ngươi vẫn chưa cố gắng lắm," vị
thiền sư bảo với ngài. "Ngươi vẫn còn quá vướùng mắc đến thức ăn, tài, vật
và cái tiếng động đó. Tốt hơn nếu ngươi chết đi thì mới giải quyết được vấn
nạn."
Lần sau
Mamiya đến bái kiếân thầy thì lại được hỏi đã được gì để chỉ tiếng động của một
bàn tay. Tức thì Mamiya ngã lăn ra như thể đã chết rồi.
"Thôi
được, ngươi đã chết," thiền sư quan sát. "Thế nhưng cái tiếng động
thì thế nào?"
"Con
chưa giải nó được," Mamiya ngước nhìn lên trả lời.
"Người
chết không nói được," thiền sư bảo. "Cút ngay!"
42. Thiền Trong Ðời Của Một Người Hành Khất
Tosui là một
thiền sư danh tiếng vào thời của ngài. Ngài trụ trì nhiều tự viện và giảng dạy
tại nhiều vùng.
Ngôi tự viện
sau chót ngài lưu trú lại đông nghẹt môn đồ nên ngài phải tuyên bố với tăng
chúng rằng ngài sẽ ngưng giảng dạy. Ngài khuyên họ nên giải tán và tìm nơi khác
mà tu học. Sau đó không ai còn gặp ngài đâu nữa.
Ba năm sau
một môn đồ tìm thấy ngài đang chung sống với đám hành khất dưới một cái cầu ở Kyoto. Lập tức ông ta van
xin ngài chỉ dạy.
"Nếu ông
có thể sống được như ta trong hai ngày thì ta sẽ giúp," Tosui trả lời.
Thế rồi vị
môn đồ ăn mặc như một kẻ hành khất sống với Tosui một ngày. Qua hôm sau có một
người hành khất qua đời. Nữa đêm, Tosui và người môn đồ khiêng xác chết lên
chôn ở triền núi rồi trở về chỗ trú ẩn dưới chân cầu.
Tosui ngủ
vùi, nhưng người môn đồ lại không thể nào chợp mắt được. Ðến sáng, Tosui bảo:
"Chúng ta không phải di xin ăn bửa nay. Ông bạn vừa chết đã để lại một ít
nơi kia." Nhưng người môn đồ lợm giọng không ăn được.
"Ta đã
bảo là ngươi không thể sống được như ta mà," Tosui kết luận. "Thôi
hãy rời khỏi đây và đừng quấy rầy ta nữa."
44. Kẻ Cướp Trở Thành Môn Ðồ
Vào một đêm
trong khi Shichiri Kojun đang tụng kinh thì một tên cướp xông vào với lưởi dao
bén đòi tiền hoặc giết ngài.
Shichiri bảo:
"Xin đừng náo động. Ông có thể lấy tiền trong ngăn kéo kia." và tiếp
tục tụng kinh.
Giây lát sau,
ngài kêu lên: "Xin đừng lấy hết tất cả. Ta cần một ít để đóng thuế ngày
mai."
Kẽ đạo chích
gom góp gần hết và sắp sửa chuồn. "Hãy biết cám ơn thí chủ chứ,"
Shichiri nói thêm. Tên cướp nói lời cám ơn và biến mất.
Vài ngày sau
tên cướp bị bắt và thú tất cả mọi tội, trong đó có chuyện liên quan đến
Shichiri. Khi Shichiri được vời đến để đối chứng, ngài bảo: "Ông này không
phải là kẽ cướp, ít ra là phần có liên quan đến bần tăng. Bần tăng biếu ông ấy
một ít tiền và ông ta có tỏ lời cám ơn."
Sau thời gian
ngồi tù, người đàn ông kia tìm đến Shichiri và trở thành để tử của ngài.
45. Ðúng Và Sai
Khi Bankei mở
an cư kiết hạ, môn đồ khắp nước Nhật qui tụ về đông đảo. Trong một lần như thế,
một dệ tử bị bắt gặp đang ăn cắp. Sự việc được trình lên Bankei với đòi hỏi kẽ
phạm tội phải bị trục xuất, Bankei bỏ qua.
Ít lâu sau
người đệ tử ấy lại bị bắt quả tang trong một trường hợp tương tự, và một lần
nữa Bankei lại bỏ qua. Việc này làm những môn đồ khác bất bình, họ liền làm một
thỉnh nguyện thư đòi đuổi tên ăn cắp, nếu không họ sẽ cùng nhau rời khỏi thiền
viện.
Sau khi xem
xong thỉnh nguyện, Bankei triệu tất cả môn đồ lại. "Các vị là những huynh
đệ sáng suốt," ngài nói. "Các vị biết thế nào là đúng và thế nào là
không đúng. Các vị có thể tìm nơi khác vừa ý để tu học, nhưng vị sư đệ này lại
không biết đâu là điều đúng và sai. Ngoài ta ra, ai là người chịu nhận dạy bảo
ông ấy. Ta sẽ giữ ông ấy lại đây cho dù các vị có bõ đi."
Một suối lệ
đầm đìa rửa sạch mặt vị đệ tử ăn cắp. Từ đấy mọi tham vọng lấy cắp đều biến
mất.
46. Cỏ Cây Giác Ngộ Như Thế Nào?
Dưới triều
đại Kamakura,
Shinkan tu học phái Tendai trong sáu năm,học Thiền thêm bảy năm; rồi ngài lại
du hành sang Trung quốc chiêm ngiệm Thiền học thêm mười ba năm nữa.
Khi ngài quay
về Nhật, nhiều người mong được tham vấn ngài về những điều bí him. Shinkan rất
họa hoằn tiếp khách, nhưng khi tiếp, ngài hiếm khi trả lời câu họ hỏi.
Một hôm có
một vị môn đồ năm mươi tuổi nói với Shinkan: "Tôi đã học giáo pháp của
phái Tendai từ khi còn bé, nhưng có một điều tôi không được thấu suốt là phái
Tendai cho rằng ngay cả cỏ cây cũng có thể giác ngộ được. Ðiều này đối với tôi
kỳ quặt quá."
"Có ích
gì không khi bàn luận đến cỏ cây trở nên giác ngộ?" Shinkan hỏi. "Vấn
đề là làm thế nào để ông được giác ngộ. Ông có quán chiếu đến điều đó
không?"
"Tôi
chưa hề nghĩ đến như vậy," vị khách già trầm ngâm.
"Vậy thì
hãy trở về và thiền quán đi," Shinkan kết thúc.
47. Người Nghệ Nhân Tham Lam
Gessen là một
vị tăng họa sĩ. Trước khi vẽ ngài luôn đòi hỏi phải được trả tiền trước và lệ
phí rất cao. Ngài bị mang tiếng là "Nghệ nhân tham lam."
Có một lần,
một cô đầu geisha đặt hàng cho một bức tranh. "Cô trả được bao
nhiêu?" Gessen hỏi.
"Với giá
ông đòi," cô gái trả lời, "nhưng tôi muốn ông vẽ trước mặt tôi."
Một ngày kia
cô đầu gọi Gessen đến. Nàng đang mở tiệc đãi khách. Gessen với ngòi bút tài
tình hoàn tất bức tranh, và đòi cái giá cao nhất.
Cô gái trả
tiền và nói với khách quí: "Nghệ nhân này chỉ chú ý đến tiền. Tranh của y
đẹp đấy nhưng tâm hồn của y thì nhơ bẩn; đồng tiền đã làm cho nó thành bùn lầy.
Vẽ với tâm hồn nhớp nháp như vậy, tranh của y không đáng để triển lãm. Nó chỉ
đáng cho cái quần lót của tôi thôi."
Nói liền,
nàng vén váy bảo Gessen vẽ bức khác phía sau quần lót của nàng.
"Cô sẽ
trả bao nhiêu?" Gessen hỏi.
"Ồ, thì
bất cứ giá nào," cô gái trả lời.
Gessen đòi
một giá thật cao, vẽ xong bức tranh theo yêu cầu, rồi bỏ đi.
Về sau người
ta biết được lý do vì sao Gessen tham tiền:
Trận đói
thường xảy ra ở vùng ngài ở. Kẽ giàu không muốn cứu giúp người nghèo, nên
Gessen lập một nhà kho bí mật không ai biết, gạo liãm luôn đầy ấp để phòng cứu
đói.
Con đường từ
làng của ngài đến ngôi Quốc tự hư hỏng quá nặng và nhiều khách thập phương khốn
khổ vì nó. Ngài muốn xây một con đường tốt hơn.
Sư phụ của
ngài qua đời mà không biết ước nguyện của Gessen là xây cho thầy một tự viện,
và Gessen quyết xây cho xong.
Sau khi hoàn
tất ba điều ước nguyện, ngài vứt bút cọ và vật liệu, về ở ẩn trong núi, không
bao giờ vẽ lại nữa.
48. Tỷ Lệ Chính Xác
Sen No Rikyu,
một trà sư, muốn treo một giỏ hoa trên một cột trụ. Ngài nhờ một người thợ mộc
giúp và chỉ cách cho ông ta treo cao hay thấp, qua bên phải hay qua bên trái
một tí, cho đến khi vừa đúng vào vị trí ưng ý. "Ðúng chỗ đó," sau rốt
Sen No Rikyu bảo.
Ðể thử thách
vị thiền sư, người thợ mộc đánh dấu, rồi gỉa vờ quên. Phải chỗ này không?
"Có thể là chỗ này?" người thợ mộc hỏi liên tục, chỉ khắp nơi trên
cột trụ.
Nhưng giác
quan của vị trà sư mới chính xác làm sao, chỉ khi đến đúng vào cái vị trí cũ
thì mới chấp thuận.
49. Phật Mũi Ðen
Một ni cô
mong cầu giác ngộ, tạc một tượng Phật giát vàng. Ði đâu cô cũng mang tượng Phật
theo.
Mấy năm trôi
qua, và vẫn mang theo tượng Phật, ni cô đến trú tại một tiểu tự viện vùng quê,
ở đấy có rất nhiều tượng Phật với bàn thờ riêng cho mỗi tượng.
Ni cô muốn
đốt hương cho riêng tượng Phật vàng của mình. Không muốn khói hương bay lan
sang các tượng khác, cô mới chế ra một cái phểu để nhờ đó hương đốt chỉ bay lên
đến tượng của mình mà thôi. Vì thế mà cái mũi tượng Phật vàng của cô bị nám đen
rất xấu xí, kỳ dị. Liu Ngộ Của RYONEN
Ni cô Ryonen
sinh năm 1797. Cô là cháu của một vị tướng quân nỗi tiếng của Nhật tên là
Shingen. Nhờ thiên tài thi phú và nét đẹp quyến rũ mà năm mười bảy tuổi cô đã
là một trong những hầu cận của Hoàng hậu. - tuổi trẻ đó, danh vọng mở ra hờ đón
trước mắt cô. Nhưng Hoàng hậu đột ngột qua đời và những mộng ước của Ryonen tan
theo mây khói. Cô nhận biết sự vật vô thường trong thế gian, và muốn tu học
Thiền.Họ hàng dĩ nhiên là không đồng ý và ép cô lập gia đình. Ryonen chỉ ưng
thuận khi họ hứa sẽ để nàng toại nguyện tu hành sau khi sanh ba đứa con. Nàng
thực hiện được điều đó trước khi hai mươi lăm tuổi. Vì thế chồng nàng và thân
thuộc không thể nào cản trở được quyết tâm của nàng. Nàng xuống tóc cạo đầu,
lấy pháp danh Ryonen, có nghĩa là liu ngộ, và bắt đầu cuộc hành hương tầm đạo.
Nàng đến
thành Edo và xin thầy Tetsugyu nhận nàng làm
đệ tử.
Nhìn qua, vị
thiền sư từ chối ngay vì nàng đẹp quá.
Ryonen tìm
đến vị thiền sư khác, tên là Hakuo. Hakuo cũng từ chối với cùng một lý do, bảo
rằng sắc đẹp của nàng chỉ gây rắc rối.
Ryonen lấy
một bàn ủi nóng áp lên mặt. Trong chốc lát vẻ đẹp của nàng vĩnh vin biến mất.
Hakuo sau rốt
nhận nàng làm đệ tử.
Ðể ghi nhớ
chuyện này, Ryonen viết một bài kệ trên mặt sau của một tấm gương:
Khi chầuHoàng
hậu ta đốt trầm để xông hương xiêm y trau chuốc. Bây giờ làm kẻ khất thực không
nhà ta lại đốt mặt để được vào thiền viện.
Ðến khi
Ryonen gần viên tịch, bà viết một bài kệ khác:
Sáu mươi sáu
lần đôi mắt này đã chứng kiến cảnh mùa thu thay đổi.
Ta đã nói
nhiều về sáng trăng,
Ðừng hỏi
thêm.
Chỉ lắng nghe
tiếng nói của hàng thông và bách hương khi gió lặng.
50. Liu Ngộ Của RYONEN
Ni cô Ryonen sinh năm 1797. Cô là cháu của một vị tướng
quân nỗi tiếng của Nhật tên là Shingen. Nhờ thiên tài thi phú và nét đẹp
quyến rũ mà năm mười bảy tuổi cô đã là một trong những hầu cận của Hoàng
hậu. - tuổi trẻ đó, danh vọng mở ra hờ đón trước mắt cô. Nhưng Hoàng hậu
đột ngột qua đời và những mộng ước của Ryonen tan theo mây khói. Cô nhận
biết sự vật vô thường trong thế gian, và muốn tu học Thiền.Họ hàng dĩ
nhiên là không đồng ý và ép cô lập gia đình. Ryonen chỉ ưng thuận khi họ
hứa sẽ để nàng toại nguyện tu hành sau khi sanh ba đứa con. Nàng thực hiện
được điều đó trước khi hai mươi lăm tuổi. Vì thế chồng nàng và thân thuộc
không thể nào cản trở được quyết tâm của nàng. Nàng xuống tóc cạo đầu, lấy
pháp danh Ryonen, có nghĩa là liu ngộ, và bắt đầu cuộc hành hương tầm đạo.
Nàng đến thành Edo và xin thầy Tetsugyu nhận nàng làm
đệ tử.
Nhìn qua, vị thiền sư từ chối ngay vì nàng đẹp quá.
Ryonen tìm đến vị thiền sư khác, tên là Hakuo. Hakuo
cũng từ chối với cùng một lý do, bảo rằng sắc đẹp của nàng chỉ gây rắc
rối.
Ryonen lấy một bàn ủi nóng áp lên mặt. Trong chốc lát
vẻ đẹp của nàng vĩnh vin biến mất.
Hakuo sau rốt nhận nàng làm đệ tử.
Để ghi nhớ chuyện này, Ryonen viết một bài kệ trên mặt
sau của một tấm gương:
Khi chầuHoàng hậu ta đốt trầm để xông hương xiêm y trau
chuốc. Bây giờ làm kẻ khất thực không nhà ta lại đốt mặt để được vào thiền
viện.
Đến khi Ryonen gần viên tịch, bà viết một bài kệ khác:
Sáu mươi sáu lần đôi mắt này đã chứng kiến cảnh mùa thu
thay đổi.
Ta đã nói nhiều về sáng trăng,
Đừng hỏi thêm.
Chỉ lắng nghe tiếng nói của hàng thông và bách hương
khi gió lặng.