DẪN NHẬP
Giới luật tỷ kheo ni gồm 348 giới điều,
được gọi là "Ngũ thiên thất tụ". Trước hết, "thất tụ" là
bảy nhóm
như sau:
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di
Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn
Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa
Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa
Nhóm 5: 8 pháp Hối quá
Nhóm 6: 100 pháp Chúng học
Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
Phân loại theo các việc cần phải cấm chỉ không
được làm (chỉ trì) hoặc cần
phải làm
(tác trì) thì có bảy nhóm như trên, gọi là "Bảy tụ", cũng như
những
chương, điều được nêu trong bộ
luật
hình sự ở đời. Những việc Phật cấm
chỉ không
được làm, nếu làm thì phạm, gọi là "chỉ trì tác phạm" như
giới sát
đạo dâm vọng v.v. Những việc Phật dạy
phải làm
không được bỏ qua, thì gọi là
"tác trì
chỉ phạm", ví như những việc bố tát, tụng giới, yết ma, tự tứ, vân
vân.
Nhưng phân loại theo tội phạm và mức độ xử
phạt (tỉ như định mức án trong bộ luật hình sự ở
đời) thì chỉ có năm
mục, gọi là "Năm thiên"
đáng nói, đó là:
Thiên 1: Tội ba la di, là khi phạm vào một trong tám
pháp ba la di
nói trên (nặng nhất). Mức xử phạt là đuổi
ra
khỏi chùa.
Thiên 2: Tội Tăng tàn,
là khi
phạm một trong 17 pháp Tăng tàn
nói
trên. Mức xử phạt là sám hối trước hai bộ đại
tăng và hành sám một thời gian, bằng cách làm các việc do tăng
chỉ định.
Thiên 3: Tội Ba dật đề,
là khi
phạm vào hai nhóm 3 và 4 nói trên. Mức hành sám ngang nhau, nhưng
một bên
có vật trình ra trước Tăng để xả (nói
theo
luật pháp ở đời là "có tang vật cần tịch thu") rồi sám hối
tội
đáng đọa lạc, nên gọi là "Xả
đọa". Còn một bên không có
tang vật,
nhưng có những hậu quả xấu như mang tai tiếng cho
đoàn thể hoặc gây thiệt hại
cho người
khác, gọi là pháp "Đọa" vì
khiến cho
người phạm rơi vào những ô nhiễm do tham sân hoặc do
đam mê sáu trần cảnh, không
đem lại giải thoát.
Thiên 4: Tội Thâu lan giá, là loại tội "non Ba la di
già Tăng
tàn" ví như trong pháp ba la di thứ tám, mà mới phạm có bảy
việc,
hoặc hai ba bốn việc; hoặc khi cố ý giết mà
đối tượng chưa chết, hoặc âm mưu bại lộ, bất thành. Do vậy
nên có
ba cấp bực Thâu lan giá
Thiên 5: tội Đột cát
la, nhẹ nhất
nhưng dễ phạm, là khi vi phạm các pháp trong những thiên
còn lại
(5, 6, 7) gồm hai thứ: "ác tác" (làm bậy) và "ác thuyết" (nói
bậy); tựa
như loại tội "vi cảnh" trong luật đời.
Sự tích giới luật được viết sau
khi tham
khảo:
1. Tỳ kheo ni giới, bản dịch của HT. Trí Quang.
2. Trung bộ kinh ba tập, bản dịch của HT. Minh Châu.
3. Bản dịch bộ "Tứ Phần Tỳ kheo ni Giới bản chú giải" hai tập
của Ni sư
Phật Oanh, (Thích nữ Trí Hải dịch, 1975).
4. Bản dịch bộ "Luật Ngũ phần" 30 quyển, trong
Đại tạng kinh (dịch giả Thích nữ Trí
Hải,
1989).
5. "L’enseignement monastique du Petit Véhicule" bản dịch của
Thích nữ
Tuệ dung.
Điều đáng nói sau khi xem
những sự tích này là, với "con mắt
thông suốt ba cõi và tấm lòng nghĩ thấu ngàn
đời", đức Phật đã quán sát căn
cơ hạ
liệt của chúng sinh thời mạt pháp nên khiến ra co những vị
làm hành
vi quấy để cho ngài có dịp chế
giới.
Người đọc cần phải nghĩ nhớ thâm ân
chư Phật
bồ tát, không được có tâm phỉ báng như nói "thời Phật mà
còn loạn
thế". Xét cho kỹ, ta vẫn thấy được
yếu tố rất
đáng kính và dễ thương nơi những vị "bồ tát nghịch hành"
hiện tướng
phạm giới này là, họ rất thật thà, không bao giời chối cãi hay
biện hộ cho
những việc quấy mình đã làm.
Lại nữa,
so với một tăng đoàn
đông đảo gồm một ngàn hai trăm
năm chục "toàn là những bậc đại
a la
hán" (được kể trong nhiều kinh) và nhiều vị khác chưa chứng
đạo, thì con số hai mươi ba vị
Tăng
(Lục quần và Thập thất quần), và Nhóm 6 tỳ kheo ni "làm
gương mẫu"
cho sự phạm giới quả thực quá ít.
Trong nhiều bộ luật còn kể chuyện ngài Ưu ba cúc
đa (Upagupta) xuất gia sau khi Phật
nhập diệt
không bao lâu. Lúc đó có một vị ni sống tới trên 120 tuổi,
bà
đã từng
được trông thấy Phật và sinh hoạt của chúng tăng
thời Phật. Ưu ba cúc đa xin bà kể cho ngài và một số tỷ
kheo bạn
hữu nghe về đời sống thanh tịnh của
tăng già
thời Phật, vì nghe ai cũng chê uy nghi tế hạnh của tăng
chúng bây giờ thua xa thuở Phật còn tại thế. Ni bà hẹn với
chúng tỷ
kheo của Ưu ba cúc đa một buổi đến tư
thất.
Gần tới giờ hẹn, ni bà treo một bát dầu
đầy trên
đỉnh cánh cửa đi vào. Khi họ đã
vào hết trong phòng và ngồi xuống xin ni bà kể về uy nghi tế hạnh
của tỷ
kheo thời Phật, Ni bà mở lời: "Vào thời Phật, trong chúng tăng
có Lục quần tỷ kheo là những vị thường bị khiển trách là
thiếu uy
nghi nhất, nhưng vẫn còn có uy nghi tế hạnh hơn chúng tỷ kheo bây
giờ
nhiều lắm. Chẳng hạn, Lục quần tỷ kheo đẩy
cửa đi vào phòng thì sẽ không làm đổ
dầu như thế... (bà đưa tay chỉ
ra
cửa)". Khi Ưu bà cúc đa và
đại chúng nhìn theo tay Ni bà
chỉ, họ
mới trông thấy những giọt dầu rơi trên nền
đất, cùng bát dầu đầy treo
lửng lơ trên
cánh cửa ra vào.
Mỗi giới điều được thâu tóm thành
bốn chữ, chỉ cốt để giúp trí nhớ và
học thuộc lòng. Muốn rõ nghĩa phải xem nội dung của giới
điều và xem sự tích. Khi
đọc sự tích, ta có thể thấy rõ
nguyên
do chế giới và mục tiêu mỗi giới, đồng
thời
cũng có thể thấy cái tinh thần nằm ở đằng sau chữ nghĩa, vượt trên
chữ nghĩa và truyện tích. Có vậy mới thấy giới luật tuy nhiều mà
rút lại
không ngoài bốn chữ "thiểu dục tri túc" hay không ngoài hai chữ
"tàm quý".
Và có vậy mới thấy 348 giới cũng không thấm gì, Phật dạy bao nhiêu
cũng
không đủ nếu ta chỉ hiểu trên
ngôn từ
mà không đạt ý. Do đấy mà có
đến ba ngàn uy nghi tám vạn tế
hạnh
để kiện toàn một con người
xứng
đáng bậc "Chúng trung tôn".
---*---
Phần một
TÁM PHÁP BA LA DI
Tóm tắt
1. Làm hạnh bất tịnh
2. Lấy của không cho
3. Sát sinh đủ cách
4. Dối nói đắc đạo
5. Nhiễm tâm xoa chạm
6. Nhiễm tâm tám sự
7. Che giấu tội trọng
8. Theo người bị cử.
1. LÀM HẠNH BẤT TỊNH:
Lúc Phật ở Xá vệ, có ngài Tu đề na
(Sudina) làm hạnh bất tịnh với vợ cũ. Nguyên Tu
đề na con nhà giàu,
đã có vợ, nghe Phật thuyết
pháp bèn năn
nỉ cha mẹ bất đắc dĩ phải để cho ông đi tu. Không bao lâu, gặp mùa
đói kém Phật cho phép chúng tỷ kheo
tản mác
đi khất thực các nơi. Tu đề na dẫn một đoàn tăng
chúng về thôn nhà khất thực. Cha mẹ nhân cơ hội ấy năn
nỉ Tu đề na hoàn tục, Tu đề na
không
chịu; cha mẹ lại năn nỉ Tu đề na ở lại với vợ cũ một đêm
để ông bà có cháu bế cho vui
cửa vui
nhà, hơn nữa khi chết còn có người cúng cơm, thờ tự. Tu
đề na cuối cùng phải xiêu
theo. Nhưng
khi trở lại trong tăng chúng, ông cảm
thấy
bứt rứt, hối hận, khổ sở. Các tỷ kheo bạn tới hỏi thăm, ông nói
thật, và
cùng đi đến Phật kể rõ sự
tình. Phật
quở trách đủ thứ và dạy
đó là việc không
đáng làm, phi phạm hạnh. Nhân
đấy Phật chế giới.
Lời bàn:
Tội ba la di còn dịch là: "tha thắng", là
để cho cái khuynh hướng khác, không phải mình (tự) thắng
lướt, làm
cho mình không còn là mình nữa. Chính đây
là
nguồn gốc của mọi pháp tu và giới luât Phật chế: khiến cho con
người
đừng đi lạc xa cái "tánh thường" của mình,
nếu lỡ đi xa một chút thì phải
nhớ mà
quay trở lại. Khi Phật chưa chế giới thì chưa gọi là "phạm", thế
nhưng sau
khi Tu đề na làm hạnh bất tịnh
thì tự
thấy hổ thẹn khổ sở. Điều đó chứng tỏ
tánh
thường của chúng ta vốn tự thanh tịnh, không xen lẫn dâm dục, nên
khi làm cái sự gì khác (tha) với tánh thường ấy, thì tâm tự thấy
khó chịu.
2. LẤY CỦA KHÔNG CHO:
Phật ở Xá vệ, Tỳ kheo Đàn
ni ca
(Dhanya) con nhà thợ gốm phạm trước tiên. Ông làm một chòi lá
trong rừng
để ở, một hôm đi khất thực về thấy chòi
đã bị những người kiếm củi và
chăn
trâu phá hết vách mái. Ba lần như vậy, nhớ nghề cũ, ông bèn
ra tay
nung đất làm gạch xây một cái
nhà có
mái đỏ chói. Một hôm Phật và
chúng tăng
đi qua trông thấy, biết của tỷ kheo xây, Phật bèn sai Anan
tới phá,
rồi cấm đệ tử không được tự tay đào
đất, nung ngói gạch xây nhà,
vừa mất
thì giờ hành đạo vừa tổn hại chúng
sinh. Đàn
ni ca khi trở về thấy ngôi nhà ngói cũng bị phá, hỏi ra biết
được là do lệnh Phật, ông bèn
vào rừng
tìm cây để làm nhà gỗ. Quan
giữ rừng
không cho, nhưng Đàn ni ca
bảo, vua
đã cho tôi rồi. Quan nói nếu
vua
đã cho thì xin
đại đức cứ tự tiện mà chặt
đốn. Đàn ni ca
đốn hết những cây gỗ quý lâu năm. Khi
ngự giá
qua rừng, trông thấy cây cối ngã nghiêng, những cây gỗ quý
dành
để tu bổ cung đình
đã biến mất, vua cho
đòi quan giữ rừng
đến hỏi. Quan tâu, vì thấy vua
một
Phật, mà có vị tỷ kheo bảo vua đã
cho
chặt, nên ông đã
để cho vị ấy chặt cây. Nhà vua
tức
giận cực điểm, cho là quan nói
láo,
sai bắt nhốt vào cũi giải về cung trị tội. Giữa
đường gặp Đàn ni ca, ông ta
kêu khóc
ầm ĩ. Tỷ kheo bảo không sao, để tôi
tới bảo
cho vua nhớ, rồi vua sẽ thả ông về. Tỷ kheo đến thẳng cung vua,
nói: "Vua
không nhớ sao, ngày làm lễ đăng
quan,
vua có đọc bài diễn văn hứa
khi lên
ngôi, vua sẽ cho phép các vị xuất gia tự do hành
đạo và xử dụng tất cả những
vật cần
dùng hiện có trong nước. Bởi thế mà tôi đốn
những cây gỗ tôi cần để làm nhà". Vua ngao ngán. Căn
cứ theo luật pháp, tội tỷ kheo ấy đáng bị xử tử nhưng vì
tôn kính
đức Phật, nên vua chỉ mắng cho
một
trận là "kẻ giặc, kẻ ngu si không biết gì cả, hãy
đi đi cho khuất" và
đuổi tỷ kheo về.
3. GIẾT HẠI MẠNG NGƯỜI:
Phật ở Xá vệ chế giới. Nhiều tỷ kheo phạm. Bấy giờ vào một mùa
an cư,
Phật dạy cho chúng tỷ kheo hành trì pháp môn quán sát 32 uế vật
trong
thân, cốt để nhàm chán thân
thể, trừ
ái dục, gọi là quán bất tịnh. Một số đông
tỷ
kheo sau khi đắc quả nhờ pháp tu này,
đâm ra chán ghét thân thể xú uế bèn
đem y bát của mình (tất cả gia tài của một tỷ kheo thời
Phật) thuê
một người đồ tể giết giùm cái
thân.
Trong một ngày mà trong vườn Cấp cô độc
có
đến sáu mươi người chết theo cách ấy. Khi giải hạ, thấy số chúng
đến yết
kiến Phật gảim thiểu, hỏi nguyên do, Phật bèn quở trách sự
hủy hoại
thân thể. Thay vì quán bất tịnh, bấy giờ Phật dạy các tỳ kheo quán
hơi thở
và các pháp "quán tịnh" như quán màu sắc các loại hoa xanh vàng
đỏ trắng, hư không, ánh sáng... gọi là
quán "biến xứ" hay kasina. Đồng thời
Phật cho
biết, các vị a la hán ấy hủy hoại thân thể là do dư báo của
nghiệp
"sát" lâu xa về trước, đến khi đắc
quả họ vẫn
còn phải thọ báo lần cuối cùng. Tất cả những vị ấy xưa kia
đều đã từng làm nghề
đồ tể giết hại súc sinh.
4. ĐẠI VỌNG NGỮ:
Phật chế giới này lúc ở thành Tỳ xá ly, trong giảng
đường lâu các bên sông Di hầu.
Gặp
thời đói kém, vào ngày tự tứ,
chư tăng
đến đảnh lễ Phật. Ai cũng gầy ốm xanh xao vì suy dinh
dưỡng, nhưng
đặc biệt có một tốp tỳ kheo mập mạp
hồng hào.
Khi Phật hỏi cách sinh hoạt tu hành của họ trong mùa an cư ra sao,
khất
thực có dễ kiếm hay không, họ bạch: "Dạ bạch thế tôn, dễ lắm. Vì
chúng con
thay phiên nhau để một người ngồi
thiền giữa
công cộng, trong khi những người kia thì
đi khắp nơi quảng cáo rằng vị ấy
chính là
một bậc a la hán, ai cúng dường vị ấy sẽ được
phước lớn lao. Thiên hạ đua
nhau đem
thực phẩm thượng hạng tới cúng, do vậy chúng con khất thực không
khó khăn
gì cả". Phật quở trách thậm tệ cái thói vì y thực mà dối
xưng thần
thánh ấy, và chế giới.
Phụ:
Nhân đây Phật kể cho chúng tỳ kheo
nghe
chuyện về hoàng hậu Ba tư nặc. Trước
đây bà vốn là một nữ tì giữ việc chăm
sóc vườn lài cho một nhà giàu. Một hôm, sau khi cúng dường
phần
ăn sáng của mình cho một sa
môn khất
thực, nữ tì gặp vua Ba tư nặc đi vào
vườn hoa. Nàng ân cần đón tiếp, khiến
ông vua
hài lòng đến độ ngay hôm ấy,
vua cho
mời ông trưởng đến để ngỏ ý muốn bỏ tiền chuộc nữ tì
đưa về hoàng cung. Sau khi về
cung,
vua lại còn phong ngay cho nàng làm đệ
nhất
phu nhân, gọi là Mạt lợi phu nhân (Mallika hay Cô Gái Vườn
Lài).
Khi được làm hoàng hậu, Mạt
lợi phu
nhân nhớ đến vị sa môn bà
đã cúng dường buổi sáng cùng
ngày gặp
đức vua, và muốn cho
đi tìm ngài. Khi hỏi ra mới
biết vị sa
môn mà bà đã cúng dường
đó chính là
Đức Phật. Bà liền
đến nơi Đức Phật xin đảnh lễ quy y, và
trở thành một phật tử.
Một hôm bà đi đến Đức Thế Tôn để
hỏi ngài
do nhân gì đời trước mà nay bà
được cái phước được gặp Đức Thế Tôn và
lại được làm hoàng hậu. Phật
kể, vào
một tiền kiếp xa xưa, bà làm một phụ nữ giào mộ
đạo, ham làm phước và cầu mong
được gặp bậc minh sư. Vào một
mùa
đói kém khất thực khó khăn, trong xứ bà
ở có bỗng có một nhóm năm vị sa môn
đến thay
nhau tọa thiền ngoài công viên, bà đến
đảnh lễ và rước về nhà cúng dường tứ sự. Năm
vị này không có giới đức, chỉ
hiện
tướng sa môn để thụ hưởng của bà, đồng
thời đi các nơi dối gạt mọi người để thủ lợi, làm cho ai
cũng nghĩ
họ là thần thánh, cúng dường trọng hậu. Do nhân ầy mà trải qua
nhiều
đời kiếp, họ phải làm thân nô
tì
để trả nợ cũ. Còn cô gái, do
nhân cúng
dường với tâm thanh tịnh và lòng khao khát cầu gặp minh sư, mà nay
được cái phước gặp Phật và ở
địa vị cao sang.
Nghe Phật dạy, Mạt lợi phu nhân tò mò hỏi: "Bạch Thế tôn, vậy
ra nhờ
cúng dường năm sa môn ấy mà
nay con
được gặp Phật. Thế thì con rất
muốn
gặp lại các ngài để đền ơn. Xin Thế
tôn cho
con được biết hiện nay những vị ấy tái sinh chỗ nào?" Phật
dạy: "Họ
ở ngay bênh cạnh bà! Đó là năm
tên đầy tớ của bà hiện
nay, làm
các công việc đánh xe, nấu bếp, giặt
ủi..."
Nghe Phật dạy, hoàng hậu khóc ròng: "Bạch Thế tôn, con thực
đã gây tội lỗi tầy trời!
Đối với những bậc tôn sư đã
đem lại cho con cái phước báo ngày
nay, con đã không tôn kính
cúng dường
mà lại thường sai sử đánh mắng".
Phật an ủi bà: "Không phải lỗi tại bà, đó
là quả báo mà các ông ấy phải gặt mà thôi".
Hoàng hậu nói: "Bạch Thế tôn, nhưng khi đã
biết như vậy, thì con cũng không thể nào tiếp tục sai khiến chúng
được nữa. Con sẽ cho gọi chúng đến để
trả tự
do, và xin đức Thế tôn thuyết
pháp cho
chúng".
Thế rồi bà cho gọi bốn người đánh
xe trong
đoàn tùy tùng như Phật đã
chỉ.
"Bạch Thế tôn, còn một người nữa ở đâu?".
- "Còn ở trong cung, đang lau chùi
nhà tắm".
Hoàng hậu đau buồn cho gọi đủ năm tên
đầy tớ đến. Khi đến, muốn tránh Phật,
tất cả
năm người đều đứng nấ sau cánh cửa. Phật dùng thần lực
khiến cho họ
xoay về hướng nào cũng thấy ngài đứng
ngay
trước mặt. Khi đã xoay đủ
chiều mà
không tránh nổi, họ bưng mặt khóc: "Chúng tôi khổ sở
đủ điều mà sa môn này còn
nhiễu loạn
chúng tôi!".
Phật thu nhiếp thần lực, ôn tồn bảo: "Cũng chính các con tự làm
tự chịu
đấy thôi".
Năm tên nô lệ nói: "Làm
đầu tắt mặt tối mới có được bát cơm
ăn, chừng
nào mới hết nỗi khổ này!".
Hoàng hậu bèn lên tiếng: "Thôi ta trả tự do cho các người, khỏi
làm nô
lệ nữa".
Năm tên nô lệ
đồng loạt quỳ mọp dưới chân hoàng
hậu
mà khóc lóc: "Tâu lệnh bà, chúng con có lỗi lầm gì xin lệnh bà cứ
hành
phạt sao cũng được, nhưng xin lệnh bà
đừng đuổi chúng con. Chúng con muốn
phục dịch
hầu hạ lệnh bà mãi mãi!".
Phật dạy cho Mạt lợi phu nhân biết, khi chưa trả hết nợ thì năm
tên nô bộc ấy vẫn còn ở lại, dù bà có hành hạ xua
đuổi chúng đến đâu. Nhưng đến khi đã
trả hết nợ cho bà thì dù bà không nói, chúng cũng sẽ tự
động ra đi. Mạt lợi phu nhân thấm
thía lời
Đức Thế Tôn dạy, đảnh lễ rồi xin cáo từ.
5. NHIỄM TÂM XOA CHẠM:
Phật ở Xá vệ chế giới. Thâu la nan đà
phạm đầu tiên.
Trưởng giả Đại Thiện Lộc Lạc có tình
ý với Tỷ kheo ni Thâu La Nan Đà,
nên
vì cô này mà thỉnh đại chúng về nhà
thọ trai. Ni cô này cũng để ý trưởng
giả, đến
ngày thọ trai cô làm bộ ốm, ở lại trong chùa không
đi. Tới giờ ăn, trưởng giả đến chùa
gặp Thâu La Nan Đà làm các
việc như
trên. Khi đại chúng thọ trai trở về,
sa di ni
giữ chùa bạch chúng việc Thâu La Nan Đà
đã làm, nội vụ cuối cùng
được trình lên Phật. Sau khi
quở trách
Thâu La Nan Đà xong Phật chế
giới ba
la di thứ 5.
6. NHIỄM TÂM TÁM SỰ:
(Tám sự là: có tâm ô nhiễm mà nắm tay, nắm áo, vào chỗ vắng,
đứng chung, đi chung, xúc chạm, dựa
kề, hò
hẹn - với nam) Phật ở Xá vệ chế giới: Thâu La Nan
Đà phạm
đầu tiên, cùng với Sa Lâu Lộc Lạc.
7. CHE GIẤU TỘI NẶNG:
Phật ở Xá vệ chế giới; Thâu La Nan Đà
bao che cho em ruột là Đề Xá phạm tội
ba la
di, sau cô này bỏ đạo hoàn
tục
cô kia mới nói mình đã biết
chuyện
đó từ trước, nhưng không nói cho
chúng tăng
biết vì sợ xấu lây.
8. THEO NGƯỜI BỊ CỬ:
Phật ở thành Tỳ xá ly chế giới; Tỳ kheo ni Ủy thứ phạm
đầu tiên.
Xiển đà (Channa) trong
chúng tỷ
kheo phạm nhiều tội như ăn biệt
chúng, v.v...
bị tăng yết ma quở trách, tăng chưa làm pháp yết ma giải
tội. Ông
đến chùa ni và
được em gái là tỳ kheo ni Ủy
thứ giúp
đỡ mọi sự. khi bị tăng quở trách. Cô còn
nói: "Đấy là anh ruột tôi,
không giúp
đỡ lúc này thì lúc nào mới
giúp".
---*---
Phần hai
MƯỜI BẢY PHÁP TĂNG
TÀN
Tóm tắt
1. Làm người mai mối.
2. Vu khống tội nặng.
3. Xuyên tạc tội nặng.
4. Đi thưa kiện người.
5. Biết giặc mà độ.
6. Giải cho tội trọng.
7. Phạm vào bốn sự.
8. Nhiễm tâm thọ thực.
9. Khuyên thọ nhiễm thực.
10. Phá tăng hòa hiệp.
11. Hỗ trợ phá tăng.
12. Hoen ố tín đồ.
13. Không nghe can gián.
14. Thân nhau giấu tội.
15. Xúi đừng ở riêng.
16. Giận bỏ tam bảo.
17. Chê bai chúng tăng.
1. MAI MỐI:
Phật ở Xá vệ chế giới. Tỳ kheo Ca la phạm
đầu tiên. Ông giỏi về khoa bói toán, nên nhiều cư sĩ
đến nhờ ông coi ngày coi tuổi
để dựng vợ gả chồng cho con cái họ.
Ông nhờ
thế mà được nhiều người thân
cận cúng
dường. Nhưng có những cặp vợ chồng sau khi cưới nhau gặp rắc rối,
cơm
không lành canh không ngọt, hò bèn đến
chùa mắng vốn. Các tỳ kheo bạch Phật.
2. VU KHỐNG:
Phật ở Xá vệ chế giới này. Tỳ kheo Tư Địa
phạm. Lúc ấy Đạp bà ma la đã
chứng quả a la hán, phát nguyện làm tri sự phân phối phòng ốc,
đồ nằm và cử tăng
theo thứ tự thọ thực tại các nhà cư sĩ. Vào ngày kết hạ an
cư, Tư
địa đến vườn Cấp cô độc lúc trời đã
tối, chư tăng đến trước đã yên
chỗ.
Chỉ còn môt chỗ nghỉ tồi hơn các chỗ khác,
Đáp bà ma la đưa Tư địa đến
đấy và
phân phối mền chiếu cũ cho ông. Tư địa
tức
giận, nghĩ Đáp bà ma la còn đồ
tốt mà
muốn chơi xấu mình. Sáng hôm sau, ông lai
được phiên thọ thực tại một nhà cư sĩ giào có, nhưng lại
cúng toàn
thực phẩm dơ. Nguyên vì Tỳ kheo Tư địa
mang
tiếng xấu trong giới cư sĩ, nên khi nghe ông
được cắt phiên
đến nhà ấy thọ thực, chủ nhà
bèn
đổi ý định cúng thực phẩm thượng
hạng, mà
chỉ cúng những thứ hạng nhì hạng ba. Tư địa
lại nghi Đạp bà la ma xúi, nên ôm hận trong lòng.
Để trả thù, ông
đến chùa ni gặp cô em gái là
Di
đa la nhờ cô này vu khống cho
Đạp bà ma la phạm giới dâm
dục, làm
hạnh bất tịnh với mình. Giữa đại
chúng, trước
sự vu khống của ni cô, tôn giả Đạp bà ma la chứng tỏ sự
thanh tịnh
của mình bằng cách xòe ngón tay út phát ra ánh sáng và bạch Phật::
"Bạch
Đức Thế Tôn, từ khi cha sinh mẹ đẻ, dù
trong mộng con cũng chưa từng có một ý niệm nhiễm ô
đối với phụ nữ, huống hồ là
phạm giới
bằng thân hay lời". Đức Phật xác
chứng cho
lời nói của tôn giả, quở trách hai anh em Tư địa và Di
đa la ni đủ điều rồi chế giới: Không
được vu
khống vô căn cứ, muốn cử tội nặng của người nào, phải
đủ chứng cớ rõ ràng gồm ba sự
là thấy,
nghe và nghi.
3. XUYÊN TẠC PHỈ BÁNG:
Phật chế giới này lúc ở Xá vệ. Tư địa
sau
khi bị Phật quở trách tội nhờ em gái vu khống cho Đạp bà ma
la, bèn
tìm cách khác để phỉ báng. Một hôm
xuống đồi,
trông thấy hai con dê, từ đấy
ông bèn
nảy ý đặt tên cho dê cái là Di
đa la và dê
đực là
Đạp bà ma la, rồi tuyên bố giữa chúng tăng:
"Tôi đích thân thấy Di đa la và Đạp bà
ma la hạnh dâm dục, phạm hạnh bất tịnh. Chứng cớ rõ ràng, không
phải là
tội ba la di vô căn cứ đâu". Khi tăng
hỏi ông
đã thấy trong trường hợp nào và ở đâu,
ông đáp lúc đi xuống đồi, ngay trên bãi cỏ lúc chúng
đang cùng
ăn cỏ với nhau. Đại chúng nghe lạ tai, bèn hỏi tiếp mới vỡ
lẽ
đấy là hai con dê
được Tư địa đặt tên. Như vậy
gọi là
lấy một chút cớ nhỏ ("thủ phiến") thuộc về chuyện khác ("ư dị phận
sự
trung", như để, người trùng
tên)
để vu oan cho người.
4. ĐI THƯA KIỆN NGƯỜI:
Phật ở Xá vệ chế giới. Có một cư sĩ cúng
đất cho ni chúng làm chùa, một thời gian sau ni chúng bỏ
chỗ ấy
đi dựng chùa nơi khác, chỗ cũ
thành
một đám đất hoang. Con của cư sĩ đến
canh
tác, liền bị ni đi kiện. Quan xử cho ni được kiện và tịch
biên tài
sản của người con cư sĩ. Nhiều người bàn tán chuyện này
đến tai Phật, Phật chế giới. Sau đó
một
trường hợp tương tự xảy ra là, ni chúng bỏ chùa
đi vắng cư sĩ chủ chùa bèn
đem chùa cúng cho một nhóm
Phạm chí
ngoại đạo. Nhiều kẻ thấy vậy bất bình,
đưa việc ấy ra tòa. Ni chúng
sợ phạm
giới Phật chế không dám đi. Vì
thiếu
nhân chứng nên tòa xử cho Phạm chí được
kiện,
ni chúng bị mất chùa. Phật chê tòa xử bất minh và nhân
đấy chế lại giới này, cho phép
nếu tòa
mời hay có việc chính đáng thì
Tỳ kheo
được phép đến cửa quan.
5. BIẾT GIẶC MÀ ĐỘ:
Phật ở Xá vệ chế giới. Có những nam nữa dòng họ Ly xa
(Licchavi) vào
rừng cắm trại, bị một cô gái điếm ăn
trộm hết
bảo vật rồi chạy vào trốn trong chùa ni, xin cạo tóc xuất
gia. Khi
quan quân truy nã bắt được, bèn
chê
bai ni chúng đồng lõa với bọn
trộm
cướp.
6. GIẢI CHO TỘI TRỌNG:
Phật ở Xá vệ chế giới. Tỳ kheo ni Ủ y thứ phạm tội bị chúng tăng
quở trách chưa hành sám mà Thâu la nan
đà vì tình riêng, đưa ra ngoại
giới làm
phép giải tội cho cô này.
7. PHẠM VÀO BỐN SỰ:
Phật ở Xá vệ chế giới. Hai Tỳ kheo là Thâu la nan
đà và Sai ma thường phạm bốn
việc là
một mình qua sông, một mình vào xóm, một mình ngủ lại và một mình
đi sau, khi được hỏi lý do thì
các cô
bảo "để gặp nam tử". Các Tỳ kheo ni
thiểu dục
quở trách và trình lên. Phật chế giới Tỳ kheo ni không
được làm bốn việc một mình ấy,
để đề phòng chỉ trích và hỗ
trợ phạm
hạnh.
8. NHIỄM TÂM THỌ THỰC:
Phật ở Xá vệ chế giới. Ni cô tên Đề
xá nan
đà có nhan sắc, thường tới nhà một ông trưởng giả
để khất thực. Ông này cúng cho
cô
nhiều thực phẩm hảo hạng trong một thời gian dài, cuối cùng một
hôm nọ khi
vào khất thực, cô bị ông ta ôm chầm lấy. Ni cô la làng. Khi mọi
người kéo
tới, ông trưởng giả phân bua: "Tôi có ý muốn mua cô này về làm vợ
bé
đã lâu, nên cúng dường trọng
hậu. Số
tiền tôi bỏ ra bấy lâu cho cô đã
đủ mua một nàng hầu".
Mọi người hỏi ni cô: "Ni cô có biết ông này có tình ý với cô
hay
không?".
Đề xà đáp "Biết".
Mọi người bĩu môi chê trách: "Biết sao còn nhận
đồ cúng của ông ta? Biết sao còn
rộng
họng la lớn thế".
Ông trưởng giả sai người trói ni cô lại, chừng nào có tiền
đem hoàn
đủ số mới thả về. Cô khóc lóc thảm thiết. Chợt có một nhóm thương
gia ở
đâu tình cờ đi qua, trông thấy
ni cô
bị hành hạ, bèn bảo ông trưởng giả: "Chớ
đụng vào những của nợ ấy.
Đấy là những
đệ tử của Đức Thế Tôn mà tất
cả vua,
đại thần đều kính trọng, ai khôn hồn
thì
đừng dây dưa tới họ, coi chừng mang
hoạ".
Tất cả mọi người đều tin lời
thương gia vì
năng đi đây đi đó biết nhiều hiểu
rộng, bèn
cởi trói thả cho Đề xá ra về, còn
hăm
he: "Liệu hồn, sau đừng dẫn xác tới đây nữa".
9. KHUYÊN NHẬN NHIỄM THỰC:
Phật ở Xá vệ chế giới. Một Tỳ kheo ni lớn tuổi có một
đệ tử nhan sắc mỹ miều thường đem đồ
khất
thực ngon về cho bà dùng. Trải qua một thời gian dài, bà
chuyên
được thực phẩm hảo hạng do ni cô khất
thực về
dâng. Nhưng sau đó, thực phẩm ni cô đem về càng ngày càng
tệ; bà
thầy nuốt không xuống (vì đã
quen
ăn ngon) bèn hỏi ni cô: "Trước
đây ngươi thường xin được toàn
đồ ngon không, tại sao sau này
ngươi
đem về tinh ròng những thứ ma
chê quỷ
hờn thế?".
Ni cô thực tình kể: "Bấy lâu có một ông nhà giàu thường cúng
cho con
toàn thực phẩm hảo hạng. Một hôm cúng xong ông ta hỏi, cô có biết
tại sao
tôi cúng dường cho cô không? Con trả lời, thí chủ cho tôi là vì
muốn cầu
phước chứ còn vì sao nữa. Ông trưởng giả nói không phải, vì tôi
yêu ni cô
đấy thôi. Chính vì ông trưởng
giả nói
như vậy, nên từ đấy con không tới nhà
ông ta để khất thực nữa, vì
Phật
đã chế giới không
được nhiễm tâm nhận đồ ăn".
Bà thầy nghe xong nói: "Người kia có nhiễm tâm hay không mặc
kệ, miễn
sao ngươi không có nhiễm tâm là được
rồi, sợ
nỗi gì. Họ đã cho
đồ ăn thì cứ tới mà nhận
đi chứ".
Cô đệ tử cãi lại: "Phật
đã chế giới xuất gia phải
thiểu dục
tri túc, sao thầy đã không
khuyên con
những điều tốt đẹp, lại còn vì
thức
ăn mà xúi con làm bậy?".
- "Có gì là bậy? Ta có xúi ngươi phạm giới
đâu cà?".
Hai thầy trò cãi nhau càng lúc càng hăng,
đến tai những vị khác, cuối cùng trình lên Phật. Phật xử
cho ni cô
đệ tử nói có lý, và quở trách
bà thầy
tham xơi ngon xúi bậy.
Câu chuyện này chứng tỏ tinh thần bình
đẳng trong Phật giáo. Liên hệ thầy trò trong giáo lý Phật
thường
được đề cao hết mực, bậc thầy đôi khi
còn
quan trọng hơn tam bảo, vì nhờ thầy mà ta biết
đến tam bảo. Nhưng không phải vì
thế
mà người đệ tử trở thành mù
quáng vô
trách nhiệm đối với bản thân, mọi sự
đều nhất
nghe theo thầy. Vì ngoài bậc thầy còn có Chánh pháp và
lương tâm
của mình là những tiêu chuẩn để phân
biệt
phải quấy; nếu thầy nói những lời mà mình xét không thích
hợp với
chánh pháp hoặc với lương tâm, thì có thể trình bày lý do bất tuân
mà
không sợ phạm tội hỗn láo hay phản thầy.
10. PHÁ TĂNG HÒA HỢP:
Phật ở Xá vệ, Đề bà
đạt đa (Devadatta) phạm đầu tiên.
Đề bà đạt
đa ganh tị với uy thế của Phật, cố dựa thế lực của chính quyền vu A
xà
thế để tự xưng Phật và lập
riêng một tăng
đoàn có quy luật khắc khe hơn giới luật Phật chế, như phải
khất
thực suốt đời không được nhận lời mời
ăn tại
nhà cư sĩ, phải suốt đời mặc y
phấn
tảo (lượm vảo bỏ đống rác mà mặc) vân vân. Một số tăng
khoái khổ hạnh quá khích đi theo Đề bà
đạt đa.
11. HỖ TRỢ PHÁ TĂNG:
Phật ở Xá vệ chế giới, nhóm đi
theo Đề bà
đạt đa phạm tội này.
12. HOEN Ố TÍN ĐỒ:
Phật ở Xá vệ chế giới. Hai Tỳ kheo Mã túc và Mãn túc ở chung
tại một
thôn xóm giao du với cư sĩ, làm nhiều việc phi pháp, không có uy
nghi,
tiếng đồn đến tận vườn Cấp cô độc.
Phật sai
Xá lợi phất và Mục kiền liên đến
nơi
cử tội hai Tỳ kheo làm hoen ố tín đồ.
Vì chưa bao giờ trông thấy vị Tỳ kheo nào khác ngoài hai
ông ấy,
nên khi Xá lợi phất Mục kiền kiên đến,
cư dân
trong vùng bảo nhau: "Hai ông này không nhanh nhẩu hoạt bát
gì cả,
cũng không thân mật vui vẻ với mình, khác xa hai vị ta thường
cúng. Người
gì đâu mà
đi khất thực thì cứ lầm lì chằm bẵm không cười không nói,
chán thấy
mồ". Làm cho người ta có một hình ảnh sai lạc về Phật Pháp Tăng
như vậy, gọi là hoen ố tín đồ
hay làm
dơ nhà người, "ô tha gia".
13. ÁC TÁNH CHỐNG CAN:
Phật ở Xá vệ chế giới. Tỳ kheo Xa nặc (Channa, có chỗ dịch âm
là Xiển
đà) một trong Lục quần, ỷ dòng
họ cao
sang, không nghe lời chúng tăng can
gián, còn
bảo: "Đáng lẽ tôi dạy các vị mới phải
chứ,
sao các vị lại dạy tôi. Tại sao? Chư vị thuộc đủ các giai cấp,
thuộc nhiều
dòng họ (bạch tánh) tụ họp lại đây,
trong khi đó dòng họ của tôi thì thù thắng hơn tất cả chư
vị. Vậy,
các vị chẳng nên đem lời khuyên
can
tôi, tôi cũng không khuyên can gì các vị". Các Tỳ kheo
đến bạch Phật, Phật quở trách Xiển đà
rồi chế giới.
14. THÂN NHAU GIẤU TỘI:
Phật ở Xá vệ, hai Tỳ kheo ni Tô ma và Bà phả
đi ở chung trong một thôn xóm, thân
nhau,
sinh hoạt không khác gì người thế tục, bị
đời chê bai phỉ báng
đến tai Phật.
15. XÚI ĐỪNG Ở RIÊNG:
Phật ở Xá vệ, Tỳ kheo ni Thâu la nan đà
xúi Tô ma, Bà Phả di đừng nghe lời
chúng tăng
mà ở riêng.
16. GIẬN BỎ TAM BẢO:
Phật ở Xá vệ chế giới.Nhóm 6 ni phạm đầu
tiên.
17. KHÁNG CỰ KHÔNG PHỤC:
Phật ở Xá vệ chế giới. Nhóm 6 Tỳ kheo phạm lỗi, tăng
chúng quở trách thì chống cự không phục tùng.
Phật nhân đấy để chuyện về mục
đồng tên
Hoan hỉ thường đến nghe pháp. Vào
thời
Phật Ca Diếp, mục đồng ấy đã
làm một
vị Tỳ kheo tinh thông ba tạng,có tài phân xử. Một hôm có hai Tỳ
kheo
đền nhờ ông xử đoán một việc tranh
chấp, ông
vận việc nên giới thiệu họ đến
nhờ
chúng tăng phân xử. Khi xong việc trở về, nghe thuật lại cách phân
xử của
tăng, ông bèn chê: "Chúng tăng
xử đoán
việc như thế không khác gì lối xử của bọn chăn
trâu". Do lời nhục mạ ấy mà ông phải làm kẻ chăn
trâu nhiều đời kiếp.
---*---
Phần ba
BA MƯƠI PHÁP XẢ
ĐỌA
(NI TÁT KỲ BA DẬT ĐỀ)
Tóm tắt
1. Hạn giữ y dư (10 ngày)
2. Lìa y mà ngủ
3. Hạn cất vải dư (1 tháng)
4. Xin y không thân
5. Nhận vải quá phần
6. Xin thêm tiền y
7. Khuyên chung tiền lại
8. Đòi quá 6 lần
9. Cầm giữ tiền của
10. Mua bán bảo vật
11. Bán mua đổi chác
12. Xin bát quá phần
13. Không thân xin nhờ
14. Bảo thợ dệt thêm
15. Cho rồi đoạt lại |
16. Cất chứa nhiều
đồ
17. Giữ y cúng gấp
18. Xoay nhiều về một
19. Đòi vầy
đòi khác
20. Pháp đường thành y
21. Xoay một về nhiều
22. Cúng vầy xoay khác
23. Xin vầy xoay khác
24. Chứa nhiều bát tốt
25. Chứa nhiều đồ đẹp
26. Không cho bệnh y
27. Dùng y phi thời
28. Đổi rồi đòi lại
29. Áo dày quá giá
30. Áo mỏng quá giá |
1. GIỮ Y QUÁ HẠN:
Phật ở Xá vệ chế giới tỷ kheo không được
giữ quá 3 y. Vào một mùa an cư, tôn giả A nan
được cúng dường một tấm y ca sa đẹp.
Ngài
đã có đủ
y, nhưng muốn giữ cái y này để
dành
cúng tôn giả Ca diếp đang an cư xa
chưa về, mà
lại sợ phạm giới bèn đến bạch Phật.
Phật hỏi:
"Ca diếp chừng nào về đến?"
A nan thưa: "Bạch Đức Thế Tôn,
khoảng mười
ngày nữa".
Phật bèn chế giới hạn cho phép chứa y dư là trong vòng 10 ngày,
quá hạn
ấy phải bạch tăng để làm phép
"tịnh
thí". Tịnh thí có hai loại, là "chân thật tịnh khí" và "triển
chuyển tịnh
thí". Loại một là cho đứt một người nào
chưa đủ ba y. Loại hai là sau
khi bạch
chúng để xả y dư, đương sự nói lên
tên
người mình muốn cho, rồi mỗi khi cần dùng những y ấy, thì phải
mượn. (Theo
HT Trí Quang).
Theo Ni sư Phật Oanh thì trong pháp "chân thật tịnh thí"
đương sự phải hỏi chủ mới được mặc, còn
"triển chuyển" thì khỏi cần hỏi cũng mặc
được, không phạm.
Chân thật tịnh thí thì ở giữa chúng, đương
sự tác bạch với một vị như sau: "Bạch đại đức, tôi có y dư này
chưa
làm pháp tịnh thí, nay muốn thanh tịnh nên xả cho
đại đức".
Triển chuyển tịnh thí thì bạch:
"Bạch đại đức, tôi có y dư chưa làm
pháp tịnh thí, nay muốn thanh tịnh nên xả cho
đại đức. Xin đại đức triển chuyển tịnh thí giùm tôi".
Vị thọ tịnh trong trường hợp này nên nói:
"Đại đức, xin nghe cho. Đại đức có
y dư,
chưa tác tịnh, vì muốn thanh tịnh nên cho tôi, tôi sẽ
nhận".
Nhận xong lại hỏi:
"Nay đại đức muốn tôi chuyển cho
ai?".
Đương sự đáp: "Cho vị tên Cột".
Vị thọ tịnh nên nói:
"Đại đức, xin nghe cho. Y dư của
đại đức
chưa tác tịnh, vì muốn thanh tịnh nên cho tôi. Nay tôi nhận
để cho vị tên Cột. Nhưng vị
tên Cột
đã có đủ
y, vậy đại đức nên vì Cột mà giữ gìn y ấy, khi cần thì cứ
lấy mà
mặc".
2. LÌA Y MÀ NGỦ:
Phật ở Xá vệ chế giới. Nhóm 6 Tỳ kheo phạm. Một Tỳ kheo trong
chùa ngày
nào cũng đem nhiều y ra phơi cho khỏi
hư mục.
Các Tỳ kheo hỏi sao có nhiều y dư không bạch, vị ấy đáp đấy là
của
Lục quần Tỳ kheo nhờ giữ hộ để du hành.
Phật nhân đấy nhóm tăng chế giới
không được
rời y ngủ cách đêm.
3. CHỨA VẢI QUÁ HẠN:
Phật ở Xá vệ chế giới. Sau khi Phật cấm chứa vải (y) dư, một Tỳ
kheo có
y tăng già lê bị rách, muốn
sắm y khác
nhưng chưa có đủ vải, mà không
dám giữ
những mảnh vải hiện có vì sợ phạm. Phật bèn cho phép nếu có hi
vọng
được thêm vải
để may y, thì cho phép giữ vãi
vụn chờ
được thêm cho
đủ. Lục quần Tỳ kheo nhân đấy đi xin
nhiều
vải ra phơi, các Tỳ kheo biết chuyện bạch Phật. Phật bèn
chế giới
cho giữ vải vụn trong vòng một tháng phải may thành y, quá hạn ấy
mà còn
giữ bo bo thì phạm Ni tát kỳ ba dật đề.
4. XIN Y KHÔNG THÂN:
Phật ở Xá vệ chế giới này. Tỳ kheo Bạt nan
đà có tài ăn nói lưu loát,
biết nhiều
hiểu rộng, một buổi sáng sớm tình cờ gặp một ông trưởng giả
mặc áp
lông cừu sang trọng đi vào
vườn Cấp cô
độc vãn cảnh. Nghe Tỳ kheo nói
chuyện
quá hay, ông ta phát tâm muốn cúng dường: "Tôi muốn cúng dường
đại đức, đại đức cần gì xin
nói cho
tôi biết?".
Bạt nan đà muốn trêu ông ta
bèn
nói: "Điều mà tôi cần, ông
không thể
nào cho được, nói ra cũng vô ích mà
thôi".
Trưởng giả năn nỉ: "Không hề gì,
xin đại đức cứ nói đi. Tôi sẽ đá
ứng".
- "Thật không?".
- "Thật".
Bạt nan đà nói: "Tôi cần
cái áo
lông cừu trên người ông đang mặc".
Ông trưởng giả nói: "Cũng được,
nhưng xin
hãy để đến mai, tôi sẽ cho
người mang
đến. Vì hôm nay đi dạo sớm,
tôi chỉ
khoác một cái áo này ra ngoài cho mau".
Bạt nan đà bèn bảo: "Thấy
chưa? Tôi
đã nói là
điều tôi xin, ông không thể nào đáp
ứng, thì nay quả nhiên như vậy".
- "Không phải là tôi không thể cúng cho
đại đức cái áo này, tôi chỉ nói là hãy
để đến mai".
- "Tôi không cần nó ngày mai, tôi cần ngay bây giờ. Ông tiếc
của thì cứ
nói phứt đi, đừng bày
đặt nói loanh quanh để từ chối".
Bị chạm tự ái, ông trưởng giả bèn cởi phăng
cái y đưa cho tôn giả rồi hằm hằm ra về. Thấy ông mang giày
da sang
trọng, vận quần xa tanh dài láng bóng, nhưng mình lại ở trần trùng
trục mà
tản bộ giữa đường, không ai không
ngạc nhiên.
Về đến cổng, gia nhân ra chào
đón thấy vậy thất kinh hỏi dồn: "Thưa
chủ
nhân, cái áo cừu đẹp của chủ đâu rồi? Phải chăng chủ đã bị
bọn cướp
đường trấn lột?".
- "Phải, ta đã bị Sa môn
Thích tử
trấn lột mất cái áo cừu". Thiên hạ bu tới biết chuyện, chê bai Tỳ
kheo
tham cầu không biết chán; dù người ta có cho cũng không nên nhận
những vật
đắt giá, huống hồ cưỡng bức mà
xin.
Khi câu chuyện này đến tai Phật, ngài
bèn họp tăng chế giới: "Với người cư
sĩ không
thân, không được xin y".
5. NHẬN VẢI QUÁ PHẦN:
Phật ở Xá vệ chế giới này. Khi các Tỳ kheo bị cướp sạch hết y
phục
được phép đi xin y, các cư sĩ thấy
tội nghiệp
bè đua nhau cúng y cho họ. Lục
quần Tỳ
kheo xúi những vị này nên thừa dịp ấy cứ nhận thật nhiều
rồi về cho
bớt anh em. Phật bèn chế giới không được
nhận
quá phần y mình được giữ.
6. XIN THÊM TIỀN Y:
Phật ở Xá vệ, Bạt Nan Đà
phạm
đầu tiên. Các Tỳ kheo
đi khất thức nghe một nhà cư
sĩ nọ
đang bàn tính chuyện may y
cúng cho Tỳ
kheo Bạt Na Đà, bèn về mách
lại. Bạt
Nan Đà thân hành
đi đến nhà ấy, nói: "Lành
thay, nghe
nói cư sĩ muốn cúng cho tôi, vậy hãy cúng một tấm y như vậy như
vậy...".
Thái độ của Bạt Nan Đà làm cư
sĩ bất
mãn, nhất là ông đòi một cái y
đắt tiền hơn cái giá tiền y mà
họ muốn
cúng.
7. KHUYÊN CHUNG TIỀN LẠI:
Cũng như trên, người phạm là Bạt Nan Đà.
Ông nghe lỏm biết có hai nhà cư sĩ cùng muốn cúng y, sợ họ cúng
hai cái y
xấu (mà ông có thể phải xả bớt một), ông bèn
đến điều đình hai nhà nên chung tiền sắm một cái cho tốt.
Cư sĩ chê
bai, Phật chế giới.
8. ĐÒI QUÁ 6 LẦN:
Phật ở Xá vệ chế giới. Bạt Nan Đà
được cúng tiền y, giao cho một cư sĩ
giữ. Đến
khi cần, ông đi đến cư sĩ gặp lúc ông này
đang bận túi bụi công việc, sắp phải
dự một
phiên họp hàng năm của các
thương gia,
ai đi trễ bị phạt năm trăm quan tiền. Cư sĩ giữ tiền của Bạt Nan Đà
năn nỉ ông ta chờ đến khi đi họp về
sẽ giao
tiền may y, nhưng Bạt Nan Đà nhất quyết
đòi cho
được, cuối cùng ông ta phải về nhà lấy, và do vậy trễ cuộc
họp,
phải bị phạt. Cư sĩ chê bai: "Tỳ kheo gì mà lại làm cho người ta
sạt
nghiệp".
9. CẦM GIỮ TIỀN CỦA:
Phật ở Xá vệ, Bạt Nan Đà
phạm. Nhân
Bạt Nan Đà có vàng do bà vợ
một ông
đại thần cúng, ông đem vào chợ
gửi cho
cư sĩ giữ, bị chê bai. Phật khiển trách và chế giới.
10. MUA BÁN BÁO VẬT:
Phật ở Xá vệ. Bạt Nan Đà
đem vật xin được chỗ này
đến chỗ kia trong chợ mà
đổi chác. Khi Xá Lợi Phất đi khất
thực đến
những nơi đã từng đổi chác với
bcn, họ
bèn hỏi: "Ông có gì đổi không?
Trước
đây một tỳ kheo luôn luôn có thứ này thứ khác
để đổi với chúng tôi, nay ông đến tay
không
thì sao được?" Xá Lợi Phất về
bạch
Phật, Phật chế giới.
12. XIN BÁT QUÁ PHẦN:
Phật ở Xá vệ. Bạt Nan Đà
làm bể
bình bát, bèn đến các nhà cư
sĩ xin.
Nhà nào ông cũng khai rằng bát bể, hãy cho tôi một cái mới. Các cư
sĩ ai
cũng hoan hỉ cúng dường. Cúng xong gặp nhau họ khoe: "Hôm nay tôi
làm
được việc phước đức lớn".
- "Việc gì?"
- "Cúng bát cho Tỳ kheo".
- "Cúng cho ai?"
- "Đại đức Bạt Nan Đà Thích
tử!".
- "Thì tôi cũng vậy". Khi ấy họ vỡ lẽ Bạt Nan
Đà đến nhà
ai cũng xin bát, lấy làm bất mãn, chê bai tới tai chúng tăng.
13. KHÔNG THÂN XIN NHỜ:
Phật ở Xá vệ. Bạt Nan Đà
đi đến các nhà cư sĩ xin chỉ
để dệt y tăng già lê (đại
y). Sau khi xin được thật nhiều chỉ có thể may đến ba cái y, ông
đem tới
một người thợ dệt không thân nhờ dệt giúp. Thợ dệt trông thấy Tỳ
kheo xin
quá nhiều chỉ, bèn chê vị ấy tham cầu không chán.
14. BẢO THỢ DỆT THÊM:
Phật ở Xá vệ chế giới. Bạt nan đà nghe lỏm có cư sĩ đang gửi chỉ
nơi một
thợ dệt để dệt y cho mình bèn tức tốc đến nơi thợ dệt ấy mà hỏi
thực hư.
Thợ dệt xác nhận, và đưa chỉ người kia cúng cho ông ta xem. Bạt
nan đà
bảo, cứ dệt cho dày, tốt, rồi tôi sẽ trả thêm tiền công cho. Thợ
dệt nói
bấy nhiêu chỉ thì dày, tốt gì nổi, phải thêm vào mới đủ. Bạt nan
đa bèn
tới nhà cư sĩ nọ, nói cái y dệt cúng cho tôi còn thiếu chỉ. Gặp
lúc cư sĩ
vắng nhà, bà vợ đưa chỉ tốt cho tỳ kheo đem đi. Khi thợ dệt giao
hàng đến
nhà, cư sĩ thấy cái y có hai thứ chỉ, không như ý mình muốn cúng
ban đầu,
bèn hỏi vợ mới biết tỳ kheo đã đến nhà lấy thêm chỉ tốt hơn để
giao cho
thợ dệt. Cư sĩ nổi giận chê bai phỉ báng.
15. CHO RỒI ĐOẠT LẠI:
Phật ở Xá Vệ chế giới. Trong vườn Cấp cô độc bấy giờ có một tỳ
kheo trẻ
tuổi giỏi đi khuyến hóa, thường được cúng nhiều Bạt nan đà tặng
cho ông
này một tấm y để dụ ông ta cùng đi với mình. Sau đó, có nhiều tỳ
kheo khác
nói cho tỳ kheo trẻ biết hoặc Nan đà thiếu tư cách, thường bị Phật
quở, và
khuyên ông ta đừng đi chung. Tỳ kheo trẻ nghe lời, đổi ý không
chịu đi
theo Bạt nan đà nữa. Bạt nan đà giận đòi y lại, ông kia nói: "Đại
đức đã
cho con rồi, sau bây giờ đòi lại?"
- "Ta cho ngươi vì nghĩ rằng ngươi sẽ theo ta. Bây giờ ngươi
đổi ý thì
hãy trả y lại."
Tỳ kheo trẻ không trả, Bạt nan đà dùng vũ lực cưỡng đoạt y lại, bị
chúng
tăng chê rồi bạch lên Thế Tôn. Phật chế giới đã cho rồi không được
đòi
lại.
16. CẤT CHỨA NHIỀU ĐỒ:
Phật ở Xá vệ chế giới này. Tỳ kheo Tất lăng già bà sa và chúng đệ
tử của
ông xin được nhiều vật thực, đem về chất đầy một nhà gồm những đồ
chứa đủ
cỡ, đựng sữa tươi, đường phèn, dầu, bơ… để ruồi bu, kiến đậu. Cư
sĩ vào
chùa trông thấy chê bai.
17. GIỮ Y CÚNG GẤP:
Phật ở Tỳ lan nhã, nhân lục quần tỳ kheo và Bạt nan đà mà chế
giới. Thể
theo lời cầu thỉnh của một Bà la môn giàu có, Phật cùng chúng tăng
đến
thôn ấp của ông mà an cư ba tháng mùa mưa. Sau đó, Bà la môn bị ma
ám nên
không nhớ gì đến chuyện đã thỉnh Phật. Suốt mùa an cư ấy Phật và
chư tăng
phải tạm dùng lúa ngựa để sống qua ngày. Khi sách mãn hạ an cư, Bà
la môn
mới nhớ tới chuyện cúng dường, bèn đến sám hối và thỉnh Phật cùng
chư tăng
lưu lại ba tháng nữa, nhưng Phật từ chối. Bà la môn năn nỉ xin
được có một
ngày cúng dường Phật và chúng tăng y thực. Phật im lặng nhận lời.
Bà la
môn bèn mang thật nhiều y thực thượng hạng đủ dùng cả ba tháng mà
cúng
dường Phật và chúng tăng trong ngày hôm đó để bù lại việc khinh
suất của
mình vừa qua. Lục quần tỳ kheo thấy Phật cho phép nhận y trong mùa
an cư,
và cấm nhận y khi an cư chưa xong, phải đợi cho đến ngày Tự tứ.
Về sau, có hai viên quan chưa đến mùa Vu lan (còn những mười
ngày nữa)
đã đến Tinh xá Kỳ viên xin cúng dường y gấp để đi đánh giặc, vì
không kịp
chờ đến ngày Tự tứ. Các tỳ kheo không dám nhận, bạch Phật, Phật
nhân đấy
chế giới này lần thứ hai, cho phép nhận y cúng gấp trước Tự tứ
mười ngày.
Quá mười ngày phải bạch trước chúng tăng để làm phép "chứa y dư",
nếu
không bạch thì cái y ấy gọi là y phi thời, nghĩa là nhận không
đúng lúc. Y
nhận đúng lúc, được phép mặc gọi là "thời y" nghĩa là y nhận từ
rằm tháng
bảy đến rằm tháng chạp (nếu có thọ y công đức).
18. XOAY NHIỀU VỀ MỘT:
Phật ở Xá vệ chế giới này. Bạt Nan Đà
biết một cư sĩ đang sắm sửa y thực để
cúng
cho chư tăng ở Kỳ viên tinh xá, bèn tới nhà nói: "Phật và
chúng tăng
đã được vua và
đại thần cúng nhiều y sang quý tốt
đẹp, chỉ
có tôi còn thiếu. Ông cúng chư tăng
thực phẩm là đủ rồi, khỏi cần
cúng vải
vóc làm gì". Cư sĩ làm theo lời, chỉ cúng thức
ăn. Các Tỳ kheo biết chuyện, bạch
Phật. Phật
chế giới "không được xoay vậy người ta định cúng chư tăng về cho
một mình
mình".
19. ĐÒI VẦY
ĐÒI KHÁC:
Phật ở Xá vệ chế giới. Tỳ kheo ni Thâu La Nan
Đà dung mạo xinh
đẹp, được sĩ khoái nên cô
đòi gì
được nấy. Vì quen được chiều
chuộng nên
cô yêu sách đủ điều, xin thứ này
được cư sĩ đáp ứng xong cô lại đổi ý
trả lại,
đòi thứ khác. Nhiều lần như vậy, cư sĩ
đâm chán, chê bai đồn đến tai
chúng
tăng.
20. PHÁP ĐƯỜNG THÀNH Y:
Phật ở Xá vệ chế giới này. Nhân thấy một chúng Tỳ kheo ni ngồi
giữa
trời mà bố tát thuyết giới, cư sĩ chung nhau tiền
đem đến cúng cho ni để làm một
pháp
đường (nhà
để chư tăng thuyết giới bố tát hay
giảng Kinh
Luật Luận). Chư ni nhóm họ bàn rằng, làm nhà thuyết giới
thì phải
trông coi thợ nề thợ một, vật liệu... quá phiền phức, mà mỗi tháng
chỉ có
hai lần bố tát là cần dùng đến nhà
ấy.
Còn y phục thì xin kiếm khó khăn, vậy
ta nên
đem tiền làm pháp
đường mà chia cho chúng may y.
về sau,
cư sĩ lại thấy chư ni ngồi bố tát giữa trời, hỏi ra mới biết tiền
họ cúng
làm nhà giảng đã
được phân manh mún chia nhau. Cư sĩ
chê
bai: "Ai chả biết y phục khó kiếm? Chính vì nghe Phật dạy làm pháp
đường cúng cho tứ phương tăng hành
đạo thì
được phước vô lượng, chúng ta mới đem tiền đến cúng làm
pháp
đường chứ". Giới này bao hàm
sự "xoay
vật cúng cho tứ phương tăng thành
ra
hiện tiền tăng trong chùa".
21. XOAY MỘT VỀ NHIỀU:
Phật ở Xá vệ chế giới. Bấy giờ các tỳ kheo ni ở Xá vệ nghe nói
ni sư An
Ổn sắp đến, họ bèn
đi khắp thành phố xin tứ sự
cho ni sư.
An Ổn là một ni sư có danh tiếng thời bấy giờ, nên nghe nói duyên
cho ni
sư An Ổn thì phật tử mộ đạo ai cũng
hoan hỉ
cúng dường trọng hậu đủ thứ cần dùng. Nhưng rốt cuộc chờ cả
tháng
ni sư không đến, chư ni bèn
đem phân chia cho chúng tất cả những gì
đã quyên cho bà An Ổn. Chia
xong thì
An Ổn là dò đến, không có vật dụng bà
ôm y bát vào thành để khất. Các cư sĩ
thấy, bèn
tới chùa hỏi: "Những vật thực và đồ dùng
chúng tôi cúng cho ni sư ấy đi đâu cả
rồi?".
Các Tỳ kheo ni cứ thật trình bày, cư sĩ chê bai
đủ điều, tới tai chúng tăng, tăng
bạch Phật.
Phật chế giới "hồi tác dư dụng" này, bao hàm sự "xoay
đồ cúng cho một người về cho nhiều
người" hay
cả chúng, nghĩa là lợi dụng danh nghĩa một vị có tên tuổi
để đi xin, rồi mang về phân chia cho
nhiều
người khác.
22. CÚNG VẦY XOAY KHÁC:
Phật ở Xá vệ, nhân ni An Ổn phạm mà chế giới. Bà
đi khất thực, khi được các cư sĩ hỏi
thăm về
chỗ ở, bà than phiền là chật chội, ồn ào,
đủ thứ. Cư sĩ chung tiền cúng cho bà
làm một phòng riêng mà ở cho thanh tịnh. Sau
đó, ni An Ổn đem tiền ấy sắm y để mặc, gặp cư sĩ hỏi bà vẫn
kêu rêu
như trước. Họ hỏi, thế thì bà chưa làm phòng riêng sao. Bà nói,
tiền các
vị cúng cho tôi làm phòng đã
được đem may y hết rồi. Cư sĩ chê
bai.
Phật chế giới này, cấm cái sự "người ta cho mình tiền
để làm việc này, mình lại
đem làm việc khác".
23. XIN VẦY XOAY KHÁC:
Phật ở Xá vệ, Lục quần Tỳ kheo ni đi
khắp
nơi quyên tiền về làm nhà cho tăng
chúng ở, khi được tiền về, lại không làm nhà mà
đem chia nhau để may y, bị cư sĩ chê
bai. Phật chế giới này, cấm cái sự "nhân danh một việc
để xin, khi được tiền lại dùng
vào
việc khác".
24. CHỨA NHIỀU BÁT TỐT:
Phật ở Xá vệ chế giới. Lục quần Tỳ kheo chứa nhiều bát
đẹp, dùng mỗi ngày một cái
không rửa,
để chất từng đống. Cư sĩ vào
chùa
trông thấy, chê bai Tỳ kheo ở dơ và không biết tàm quý, xin bát
thật
đẹp về mà vứt bừa bãi như gạch
vụn.
25. CHỨA NHIỀU ĐỒ ĐẸP:
Phật ở Xá vệ, Lục quần Tỳ kheo chứa nhiều
đồ dùng màu sắc đẹp đẽ, cư sĩ
trông
thấy chê bai, nói giống hàng tạp hóa.
Phụ:
Kinh Phước Cái Chánh Hạnh sở tập quyển 6 nói: "Khi Phật ở thành
Vương
Xá, trong vườn trúc Ca Lan Đà
có con
trai trưởng giả sau khi nghe Pháp, xin Phật xuất gia. Người mẹ anh
ta chỉ
có một con nên không muốn rời, bảo con muốn xuất gia thì hãy
đợi mẹ chết đã. Người con tuân
lời
dạy, siêng năng làm lụng
được bao nhiêu tài vật
đều đem dâng mẹ, lại thường khuyên
bà
bố thí tu phước. Người mẹ được tài
vật
thì cất giữ chôn giấu, tiếc không nỡ đem
cho.
Nếu có Sa môn đến nhà khất thực thì mắng nhiếc nói rằng quỷ
tới.
Người con biết chuyện không vui càng khuyên can mẹ, người mẹ lại
nói dối
đã cho. Không lâu bà mẹ chết,
người
con mở hội bố thí rộng rãi để hồi
hướng cho
mẹ rồi xuất gia, tinh tấn tu hành đắc
quả A La Hán. Bên bờ sông Hằng vị ấy tu thiền
định trong một am cỏ, một hôm có con
quỷ đến
đứng trước mặt hình thể đen
xấu như
khúc gỗ cháy, đầu tóc lòa xòa cổ nhỏ bụng lớn, tay chân bốc
lửa,
kêu la gào thét. Tôn giả hỏi: "Ông là ai?".
Quỷ nói: "Tôi là mẹ ông, chết đã
25
năm, đọa vào ngạ quỷ, chịu
đói khát vô cùng, không nghe
đến cái tên
ăn uống và nước. Có khi tôi
vừa trông
thấy con sông lớn, thì bỗng nó khô cạn, trông xa thấy có rừng trái
cây,
tới gần lại không có gì. Tôi không được
lúc nào
an vui. Xin tôn giả cứu vớt. Cho tôi xin chút nước uống".
Tôn giả nghe xong buồn khóc nghĩa: "Sống không tu, chết
đoạ ác đạo". Bèn khuyên mẹ
phát tâm
hối lỗi. Quỷ cho biết chỗ chôn tài vật lúc sống, nhờ tôn giả
đem tài sản ấy thết trai cúng
dường và
xin những sa môn thọ thực chú nguyện cho bà
được thoát khổ. Tôn giả liền triệu tập thân quyến về nhà
đào của cải lên,
đem cúng dường tam bảo và bố
thí cho
kẻ ăn xin, lớn tiếng gọi tên
mẹ. Bấy
giờ Đức Thế Tôn dùng sức oai
thần gia
trì và thuyết pháp, 5000 chúng sanh nghe pháp
được ngộ, quỷ tháot khổ, chết ngay. Tôn giả lại nhập định quán
sát, thấy
mẹ sanh vào loài quỷ giàu có, bèn thuyết pháp cho bà nghe
về quả
báo của tham lam, khuyên bố thí. Bà quỷ phát tâm cúng dường chư tăng
hai cuộn vải, nhưng tăng chưa kịp chia thì quỷ tiếc, ban
đêm đến
lấy trộm. Tôn giả đến nơi quỷ đòi lại. Quỷ
ăn trộm lại ba lần như thế, chúng
tăng cắt ra
cho mỗi người một mảnh để vá áo. Quỷ cũng tới ăn trộm cái áo đi.
Phật dạy,
nên biết tâm bỏn xẻn thật tai hại, bị nó trói buộc vĩnh
viễn
đọa vào cõi xấu.
26. KHÔNG CHO BỆNH Y:
Phật ở Xá vệ chế giới. Sau khi Phật chế ba y cho Tỳ kheo và năm
y cho Tỳ kheo ni, có những Tỳ kheo ni có kinh nguyệt ra nhiều, sợ
phạm
giới không dám giữ vải vụn nên không
đủ để lót, làm dơ bẩn giường ghế. Do
đó, Phật cho phép ni được mặc thêm vải (y) lót bên trong
lúc bật
tịnh, ngoài mặc nê hoàn tăng (quần),
khi cần
phải trải thêm đồ lót ghế,
giường để
khỏi vấy bẩn.
Ni Chiên đàn thâu na mới
vừa dứt
kinh nguyệt, liền khoe mình không có tư tưởng dâm dục nên không
còn bất
tịnh, từ nay ai cần cô sẽ cho mượn "bệnh y" tức
đồ vệ sinh phụ nữ. Sau đó một Tỳ kheo
ni khác
cần, đến mượn thì ni cô này không cho, chính vì cô cũng
đang bất tịnh, nhưng đã lỡ lời
khoe
khoang nên không nói lý do tại sao không thể cho mượn. Cô kia bạch
chúng tăng.
27. DÙNG Y PHI THỜI: (làm y phải thời):
Phật ở Xá vệ chế giới, Lục quần ni phạm.
Y phải thời là y cúng và thọ nhận trong thời gian 5 tháng thọ y
công
đức, từ rằm tháng bảy đến rằm tháng
chạp; ngoài
thời gian ấy ra mà nhận thì gọi là y phi thời, phải "thuyết tịnh"
nghĩa là
đem ra giữa tăng mà xả bằng
pháp tịnh
thí chân thật hay triển chuyển đã
nói
ở giới số 1 Xả đọa ở trên.
"Thọ y công đức" là một
cách Phật
tưởng thưởng, cho phép chúng tăng xả
hơi sau
ba tháng an cư thanh tịnh. Trong thời gian thọ y công đức, có năm
sự được
phóng xả như sau: Một là được
chứa y
dư; hai lìa y ngủ; ba ăn biệt
chúng;
bốn ăn nhiều lần; năm đi ra khỏi dặn, vào bữa
ăn sáng (tiền thực) hoặc bữa ăn trưa
(hậu
thực).
Nếu không có thọ y công đức thì
năm
việc nói trên chỉ được một
tháng phóng
xả từ rằm tháng bảy tới rằm tháng tám.
28. ĐỔI RỒI ĐÒI LẠI:
Phật ở Xá vệ chế giới, ni Thâu la nan đà
đổi y với một cô khác, sau giận không
muốn
đổi, đòi lại.
29. ÁO DÀY QUÁ GIÁ:
Phật ở thành Tỳ xá ly, trong giảng đường
lầu các bên sông Di hầu. Khi Tỳ kheo Ca La
đến khất thực tại nhà một cư
sĩ quen
biết, gặp một người dòng họ Ly xa (Licchavi); ông ta phát tâm muốn
cúng
dường cho cô một món gì, yêu cầu cô nói ra vật dụng cô cần. Ni cô
nói
đã có đủ,
không cần gì cả. Người Ly xa năn
nỉ,
cô bèn đòi một cái y
quý, giá
thật đắt. Người Ly xa đã không
cho,
lại còn rêu rao là ni tham cầu không chán,
đáng lẽ dù được cho áo đẹp đắt
giá
cũng không nên nhận, huống hồ đi
xin.
(Xem chuyện số 4 ở chương này).
30. ÁO MỎNG QUÁ GIÁ:
Phật ở Tỳ xá ly, như trên. Tỳ kheo ni Bạt
đà Ca tỳ la đến nhà cư
sĩ mà
xin một tấm y mỏng trị giá 500 tấm vải mịn (trương
điệp), bị cư sĩ chê bai ham
hố. Phật
chế giới.
Phụ: Tỳ kheo Tất lăng dà ba
sa
được cúng một cái áo lông cừu đắt
giá, ông
mặc đi vào rừng. Bọn cướp trông thấy,
đi theo ngài bén gót. Nửa đêm
hôm ấy, bọn cướp đến gõ cửa
chòi. Ngài
nói:
- "Các ngươi muốn gì?".
- "Muốn cái áo lông cừu. Hãy đưa
ra đây".
- "Được. Hãy thò tay vào
song cửa
sổ, ta sẽ đưa ra cho".
Tôn giả gia trì thần lực vào cái y, khiến cho bọn cướp
đưa tay vào mà không tài nào
lôi ra
được, thất kinh kêu cứu. Tôn
giả thu
nhiếp thần lực, chúng bèn bỏ chạy một nước không còn dám bén mảng.
Sau tôn
giả về thuật lại câu chuyện, các Tỳ kheo bạch Phật. Phật lo sợ cho
các Tỳ
kheo đời mạt pháp không có được thần
thông
như tôn giả, nếu mặc y quý giá mà ở rừng thì có thể nguy
đến tánh mạng. Do đó ngài chế
giới
này, một phần để Tỳ kheo giữ hạnh
thiểu dục
tri túc, trừ thói kiêu mạn (khi thân cận giới nhà giàu mà
được đồ tốt), thói ràng buộc (được
đồ tốt thì dễ bị ràng buộc thân tình với người cho), và
nhất là
thói giữ của, luôn luôn lo sợ mất mát và hiểm nguy.
-ooOoo-