Toàn cảnh phiên làm việc sáng nay
Nói đến dân tộc là nói đến sự dung chứa bao la mà trong đó bao gồm
một một tập thể phức hợp với nhiều cộng đồng văn hóa, tộc người khác
nhau. Phải làm sao để toàn thể công đồng và tộc người ấy được sống chung
an lành trong ngôi nhà chánh pháp nhiệm mầu với vi diệu pháp môn đó là
điều mà không phải một ngày, một năm mà là trách nhiệm của toàn thể
những người con trai lành, gái lành của Đức Thế Tôn trọng suốt cuộc đời
hành đạo của mình.
Tất cả các đại biểu về dự thảo tham luận đều có những khát khao,
những đóng góp, những giải pháp thiết thực cho nghành hoằng pháp. Điều
này có thể thấy được qua sự trăn trở, thao thức của PGS.TS Trần Hồng
Liên với tham luận “Hoằng pháp vùng dân tộc thiểu số nội dung và một số
giải pháp”. Toàn thể hội trường đều tâm đắc với những kế sách lâu dài mà
tác giả đã hoạch định cho nghành hoằng pháp như : đào tạo hoằng pháp
viên, xây dựng tự viện vùng dân tộc thiểu số, ấn tống kinh sách văn hóa
phẩm Phật giáo, tổ chức thường xuyên các buổi thuyết giảng trong tháng,
đặc biệt là kết hợp hoạt động từ thiện xã hội với hoạt động kinh tế…
Hoằng pháp vùng thiểu số không chỉ cần lòng nhiệt tình mà còn cần đến
kiến thức xã hội học, những hiểu biết về phong tục tập quán, đặc trưng
tộc người, đặc trưng tâm lý cũng như học tiếng dân tộc là điều mà không
phải hoằng pháp viên nào cũng nắm vững và có sẵn, thế nên về lâu dài các
hoằng pháp viên cần phải kiên định và bản lĩnh khi quyết định dấn thân
vào công tác hoằng pháp vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số.
Đại biểu trình bày tham luận
Đặc thù của Phật giáo là tính từ bi – chất keo kết dính vạn tấm lòng
trong một tấm lòng cũng là phương thức ứng xử đoàn kết, nhu nhuyễn trong
suốt quá trình hòa nhập, phát triển cùng dân tộc và các tôn giáo bạn,
chính vì điều này mà đề tài hội thảo Hoằng pháp kết hợp với hoạt động từ
thiện được nhiều đại biểu quan tâm. Ý kiến tham luận của Thạc sĩ Dương
Hoàng Lộc giảng viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại
học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh cũng chính là ý kiến chung của nhiều
đại biểu về tham dự hội thảo. Tuy nhiên, gần đây một số tổ chức từ thiện
đã lợi dụng lòng thương của con người để trục lợi gây hiểu lầm ngộ nhận
không ít cho quần chúng nhân dân; do vậy để làm tốt công tác này đòi
hỏi Phật giáo chúng ta phải có cơ cấu tổ chức vững mạnh, đường hướng cụ
thể, khả năng kinh tế tài chính chủ động…đặc biệt là phải làm tốt công
tác an sinh xã hội, tổ chức đào tạo cho các Tăng – Ni tham gia các khóa
học về công tác xã hội có như vậy mới thực sự là chỗ dựa tinh thần vững
chắc cho các đối tượng khó khăn, các đối tượng bị tổn thương trong xã
hội. Đây cũng là vấn đề được nhiều Tăng, Ni đóng góp, quan tâm qua các
phần tham luận của mình.
Kể từ khi Việt Nam
chính thức gia nhập WTO thì vấn đề hội nhập luôn là vấn đề “nóng” trên
dòng chảy văn hóa tâm linh. Cuộc hội nhập của văn hóa tôn giáo cũng
không nằm ngoài dòng chảy chung của dân tộc. Thế nên, đề tài về “ Hoằng
pháp thời hội nhập” “Hoằng pháp Phật giáo tại hải ngoại”… đặc biệt được
quan tâm. Những hạn chế của mặt trái nền kinh tế thị trường đã bộc lộ rõ
nét trên mọi bình diện kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục… lên một
bộ phận không nhỏ trong xã hội. Hiện tượng “cải đạo” tuy chưa ở mức “báo
động đỏ” nhưng cũng đáng để chúng ta tìm ra những lộ trình, bước đi hợp
lý nhằm bảo vệ màu cờ, sắc áo và nền tảng văn hóa của chính mình.
Chư tôn Tăng Ni đại biểu dự phiên làm việc sáng nay
Sư cô thích nữ Liên Châu với bài tham luận : “ Hoằng pháp tại hải
ngoại”cũng đồng quan điểm cho rằng “hòa nhập nhưng không hòa tan” làm
sao để bảo đảm tính trong sáng, xác thực những lời Phật dạy trước sự ồ
ạt, cuốn trôi của dòng chảy văn hóa Tây phương là điều không hề đơn
giản. Hội nhập lúc này là đi theo dòng chảy lớn của đất nước, là hòa
cùng nhịp sống hiện đại của dòng chảy toàn cầu hóa nhưng vẫn giữ được
đối tượng giới đức, niềm tin mà mình đã chọn lựa là vấn đề không hề đơn
giản. Kiều bào nước ngoài là sợi dây liên hệ mật thiết với Phật giáo dân
tộc. Vấn đề là làm sao để những thế hệ con em, đồng bào của ta dù sinh
sống ở nước ngoài nhưng luôn hướng lòng mình về nơi nguồn cội.
Những vấn đề mà cuộc Hội thảo bàn luận, trao đổi mới chỉ mang tính
gợi mở. Nó chỉ cho chúng ta nhiều điều cần suy nghĩ, trăn trở: chúng ta
cần có sự đổi mới và thực hiện sự đổi mới đó ra sao? để phác họa đầy đủ
bức “chân dung” của cuộc hội thảo quy mô mang tính toàn quốc phải cần
nhiều giải pháp điểm tô, chấm phá, và nét hành động chủ đạo cũng như
nhiều cuộc Hội thảo tiếp theo...