Cuộc thăm viếng của đức Đạt-lai
Lạt-ma đã làm nổi bật sự kiện rằng, với con số 1 triệu 500 ngàn tín đồ,
Phật giáo là một tôn giáo lớn đứng hàng thứ tư tại Hoa Kỳ.
Cambridge, MASS. (USA)–Khuôn mặt vui vẻ đó đã trở thành quen thuộc khắp
toàn cầu – gần như là ai cũng có thể nhận diện được khi nói đến các vị
lãnh đạo tôn giáo, tương tự như đức Giáo Hoàng John Paul II. Mỗi khi
Người đến Hoa Kỳ, đức Đạt-lai Lạt-ma là một diễn thuyết viên được ưa
thích nhất, Người thường chia sẻ những thông điệp từ bi và tinh hoa của
người phát tiết ra cả đến bên ngoài cộng đồng Phật giáo.
Nhóm hội thảo tiêu đề: Thiền sinh kỳ cựu Julie Forsythe hướng dẫn các
thành viên của trung tâm Dzogchen tại Cambridge, Mass., trong buổi
“Thiền tập về Từ và Bi”. JASON BEAN
Sau khi khánh thành trung tâm phục vụ Hòa bình và Giáo dục vừa mới được
thành lập tại Vancouver, B.C., vị lãnh đạo của dân tộc Tây Tạng tuần này
bắt đầu thăm viếng vài thành phố Hoa Kỳ nhằm vào việc diễn thuyết trước
công chúng, tham gia các buổi hội nghị cùng với các thành viên trẻ phục
vụ cho hòa bình, các khoa học gia, các giảng viên đại học, các ủy viên
quảng trị và một buổi hội thảo với hội phụ nữ California. Người cũng để
tâm ngồi xuống giảng dạy cho các Phật tử Hoa Kỳ mới trong bước đầu học
đạo.
Phật giáo đang phát triển nhanh chóng tại Hiệp Chủng Quốc, và một truyền thống Phật giáo Hoa Kỳ rõ rệt đang được hình thành .
Những trung tâm giáo dục Phật học và các đạo tràng (cộng đồng của những
người cùng chung nhau thực tập Phật pháp) đang phát triển tại đây khi
những người lãnh đạo sinh trưởng tại Hoa Kỳ lên khung lại các nguyên tắc
đạo đức cổ xưa cho phù hợp với ngữ thuật của Tây phương hiện đại.
Mặc dù tôn giáo xuất hiện tại Ấn Độ nhưng đã có mặt tại Hiệp Chủng Quốc
từ thế kỷ thứ 19, số lượng tín đồ đã gia tăng 170 phần trăm kể từ năm
1990 đến năm 2000, thể theo cơ quan American Religious Identity Survey
(Cơ Quan thăm dò nhận diện các tôn giáo tại Hoa Kỳ). Một bản dự phỏng
của cơ quan ARIS đã đưa con số Phật tử lên đến 1 triệu rưỡi vào năm 2004
trong khi các cơ quan khác đã phỏng đoán một con số lớn gấp đôi. Ông
Richard Seager, tác giả cuốn sách “Buddhism in America” (Đạo Phật tại
Hoa Kỳ) nói rằng: “Con số 1 triệu rưỡi là một con số rất khiêm nhường.”
Điều này đã đưa Phật giáo trở thành tôn giáo lớn đứng hàng thứ tư trong
nước, sau Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo, và Hồi giáo. Tiến sĩ Seager,
một giáo sư về thần học tại đại học Hamilton College, thành phố Clinton,
Nữu Ước, nói rằng: “Những người di dân từ Á Châu có thể chiếm 2 phần 3
tổng số và những người cải đạo chiếm vào khoảng 1 phần 3 còn lại.”
Điều gì đã lôi cuốn họ (kể từ sau sự mê say đối với Thiền tông Phật giáo
vào thập niên 50 và 60)? Có người nói rằng Đức Đạt-lai Lạt-ma đã đóng
một vai trò rất lớn, thêm vào đó, với tính cách không đặt nặng vấn đề
mục vụ truyền giáo của Phật giáo đã tỏ ra rất thích hợp với khuynh hướng
tìm về những con đường tâm linh của người Hoa Kỳ.
Thầy Lama Surya Das một vị Lạt-ma lỗi lạc người Hoa Kỳ, tu tập theo
truyền thống Tây Tạng, nói rằng: “Người ta cảm thấy rằng những nhân vật
Phật giáo như đức Đạt-lai Lạt-ma và thầy Thích Nhất Hạnh của Việt Nam đã
có một đóng góp nào đó trong vấn đề này, khi các vị đã không tìm cách
khuyến khích người ta cải đạo”. “Các vị không xây dựng cảnh chùa hùng
vĩ, nhưng các vị cống hiến những tinh hoa trí tuệ, và các phương cách để
hòa giải, hòa hợp rất cần thiết cho thời đại.”
Ông nói thêm rằng: “Còn một yếu tố lớn hơn nữa là đạo Phật đã cống hiến
những phương thức thực tập tâm linh mà các tôn giáo Tây phương thường
không mấy chú trọng đến.”
Tỉnh lặng: Các thiền sinh cùng ngồi thiền tại đạo tràng Cambridge.
Phật giáo đã đến Hiệp Chủng Quốc vào nhữngnăm 1800. JASON BEAN.
“Người ta muốn tìm đến những thực tập được đặt căn bản trên kinh nghiệm
chứ không cần đến một hệ thống đức tin mới hay là một thứ luân thường
đạo lý mới mà chúng ta đã có sẵn, mà thường thì cũng tương tợ như nhau
trong các tôn giáo.”
Thầy Surya Das nói rằng: “Chính những thực tập có khả năng chuyển hóa như thiền tập đã thật sự thu hút người ta.”
Vào một buổi tọa thiền tại đạo tràng thuộc thành phố Cambridge tiểu bang
Massachussetts tuần vừa qua, khoảng 20 phật tử thuần thành ngồi xếp
bằng trên bốn hàng gối màu nâu đỏ trước bàn thờ thắp sáng ánh nến. Một
trưởng tràng đã hướng dẫn một giờ tọa thiền xen lẫn với tụng niệm kinh
và chú. Sau đó, nhóm quay quần lại ngồi thành vòng tròn để thảo luận nửa
tiếng đồng hồ.
Carol Marsh, một kiến trúc sư đã đứng ra làm người chỉ dẫn thực tập cho
đêm đó, đã từng quan tâm đến việc tìm kiếm một đường lối tu tập từ mấy
năm nay nhưng cô ta rất “dị ứng với những gì không duy lý”, cô đã cho
biết như trên trong một cuộc phỏng vấn. “Rồi sau khi tôi đọc cuốn sách
‘Awakening the Buddha Within,' (Đánh thức vị Bụt ở trong ta’ [là một
cuốn sách đầu tay của thầy Surya Das viết về những trí huệ mà Tây Tạng
cống hiến cho thế giới Tây phương], và cuốn sách này đã trực tiếp đi vào
lòng tôi… Mục đích tối thượng của tôi là sự giải thoát.”
Cô Marsh nói rằng: “Sau 8 năm tu tập, tôi thấy hạnh phúc hơn, an lạc
nhiều hơn, và thấy mình vững chãi hơn trước những va chạm của cuộc
sống.”
Điều quý giá nhất đối với Jane Moss, một người đã tu tập 15 năm nay là
học được cách làm thế nào để sống được trong Hiện Tại. Và đồng thời chấp
nhận rằng thực tại bao hàm sự hoàn hảo và nhìn thấy thế giới là tốt đẹp
và tất cả mọi người đều có bản chất nhân từ. Hằng tháng, nhóm tổ chức
buổi thiền tập chú tâm vào lòng Nhân từ và Thương yêu.
Tăng thân đã được thành lập và nhóm họp kể từ năm 1991, khi thầy Surya
Das thành lập trung tâm Dzogchen tại đây sau mấy chục năm tu tập với các
đạo sư Tây Tạng. Trước khi trở thành một vị Lạt-ma, thầy vốn tên là
Jeffrey Miller, được lớn lên trong một gia đình trung lưu Do Thái tại
Brooklyn. Là một người tranh đấu chống chiến tranh tại Việt Nam khi còn
đang theo học tại đại học University of Buffalo (Nữu Ước), ông đã rất
sững sốt khi hay tin người bạn thân của mình là Allison Krause bị bắn
chết bởi Lực Lượng Bảo Vệ Quốc Gia (National Guard) tại đại học Kent
State vào năm 1970.
Ông đã giải thích rằng: “Sau khi tốt nghiệp vào năm 1972, tôi hoàn toàn
mất tin tưởng vào các hoạt động chính trị cấp tiến. Tôi nhận thức được
rằng chiến đấu cho hòa bình là một sự mâu thuẫn hoàn toàn trên danh
nghĩa, và tôi muốn tìm lại được sự bình an cho nội tâm mình”. Thay vì
tiếp tục chương trình hậu đại học, chàng trai trẻ Miller trên bước đường
tầm đạo đã đưa anh đến Hy Mã Lạp Sơn nơi mà anh sống trọn phần còn lại
của thập niên 70 và 80 để tu học cùng với các giáo thọ Phật giáo và đồng
thời dạy lại cho họ Anh ngữ.
Ông nói rằng: Thời kỳ đó cũng tràn đầy những khó khăn, những phút giây
ngờ vực nhưng cũng có cả sự khai mở trí tuệ. Đi theo con đường đạo hạnh
đã xưa hằng bao thế kỷ để vun trồng giác tánh, chương trình tu học của
ông bao gồm 2 khóa tu, mỗi khóa kéo dài 3 năm chuyên chú mật thiết vào
vấn đề thực tập. Ông nói qua điện thoại từ một khóa tu tại Texas, nơi mà
ông đang huấn luyện các đệ tử rằng: “Một trong những bài học quý báu
trong tăng chúng là bài học thương yêu nhất là khi tôi thật tình không
ưa gì người đó cả.”
Thầy Surya Das nói tiếp: “Có rất nhiều tông phái Phật giáo nhưng mọi
người đều đồng ý rằng cái mục đích chung là làm sao cho cá nhân và cộng
đồng được giác ngộ. Điều đó có thể giải thích là an tịnh niết bàn, trí
huệ, và từ bi. Điều này đòi hỏi một đường lối thực tập đặt nền tảng trên
sự thiền định, hành xử theo đạo lý, và phát triển sự hiểu biết sâu sắc
và lòng từ bi tích cực.
Các vị lãnh đạo tinh thần: Lama Surya Das (hình trái) là một trong
những vị giáo thọ Phật giáo người Tây phương lỗi lạc nhất. Đức Đạt-lai
Lạt-ma (hình phải) của Tây Tạng hiện đang thăm viếng Bắc Mỹ. WWW.SURYA.ORG; RICHARD LAM/AP
Buddha có nghĩa là “Thức Tỉnh” theo chữ Phạn, một ngôn ngữ của Ấn Độ
thời cổ đại nơi mà đức Phật Cồ Đàm Tất Đạt Đa đã tìm ra Đạo Lý và Bát
Chánh Đạo hơn 2,500 năm qua. Những người Phật tử tin rằng với đường lối
này, con người thức tỉnh trước sự kiện đã luôn từng có mặt, “cái diệu
hữu tuyệt hảo tự nhiên” . Họ không nhắc đến Đấng Tạo Hóa mà chỉ nói đến
con nguời hay cái tâm bản ngã với chữ “t” thường và Phật (Thức Tỉnh) Tâm
với chữ “T” hoa.
Thầy Surya Das đã viết rằng: “Năng lượng trị liệu được hình thành thông
qua một cơ quan vi diệu hơn, nhưng cũng tiềm tàng trong mỗi chúng ta. Vì
tất cả chúng ta đều là Phật cả”
Chúng ta không cần phải quy phụng kinh điển hay một đức tin nào cả hoặc
là phải ăn chay, nằm đất. Và chúng ta cũng không cần phải cải bỏ đạo của
mình. Vì thế có vài người Hoa kỳ đã nói đến Do Thái Giáo Phật Giáo
chẳng hạn.
Chính Đức Đạt-lai Lạt-ma đã thường khuyến khích người ta hãy giữ lấy đạo
của nền văn hóa nơi sinh trưởng của mình để tránh sự bối rối lầm lẫn
thường xảy ra do hậu quả của sự pha chế giữa quan kiến Đông vàTây Phương
Tuy vậy một số người khác lại hoàn toàn đi sâu chuyên chú vào việc học
tập kinh điển Phật giáo, khi những sách báo và những khóa tu do từ những
giáo thọ sanh đẻ tại Hoa Kỳ đã làm cho công việc tu học của họ trở nên
dễ dàng hơn.
Trung tâm Dzogchen (Đại Thành Tựu Pháp), với nhiều tăng thân tại các
tiểu ban, truyền dạy một Pháp môn thượng thừa của Tây Tạng; hằng năm
trung tâm có mở những khóa tu kéo dài từ một ngày cho đến hai tuần lễ.
Thầy Surya Das, với cái pháp danh do vị giáo thọ Tây Tạng ban cho mang ý
nghĩa là “Hộ pháp đăng”, là giám đốc tinh thần của trung tâm.
Hiện nay, 30 thiền sinh đang rốt ráo tu tập trong một khóa tu 100 ngày
cho các thiền sinh cao đẳng tại trung tâm tu học Dzogchen ở ngoại ô
thành phố Austin, Texas. Họ đang ở vào năm thứ 3 của chu kỳ 12 năm của
các khóa tu tịch lặng- cũng có nghĩa là khóa tu này sẽ đào tạo thêm được
các tân giáo thọ.
Nhiều vị thầy giáo thọ Tây Tạng đã giúp vào việc truyền đạt Phật giáo
vào Hiệp Chủng Quốc và một trong số các vị đó là Chogyam Trungpa đã sáng
lập ra đại học Naropa University tại Boulder, Colorado. Tuy thế vị giáo
thọ này đã phạm giới khi va chạm với những xa hoa đã từng cám dỗ các tu
sĩ của các tôn giáo – rượu chè và sắc dục.
Đức Đạt-lai Lạt-ma cũng đã từng cảnh cáo các vị thầy giáo thọ theo đuổi
chức vị lãnh đạo vì các lý do tài chánh thay vì là tinh thần.
Thầy Surya Das nói rằng: Cái vấn đề liên hệ giữa thiền sinh và vị thầy
giáo thọ là một vấn đề đang được tranh cảI nhiều nhất khi Phật Pháp được
truyền bá từ Đông sang Tây. Tuy nhiên một cơ chế Phật giáo Hoa Kỳ lành
mạnh cùng với những đặc tính của nó cũng đang trên đà vươn lên. Nó nhẹ
về phần chủ thuyết và nghi lễ hơn ở phương Đông và thiên về Thiền định
nhiều hơn, ít phân chia thứ bậc tôn ti và chú trọng vào nền tảng dân chủ
và công bình. Nhằm vào việc phục vụ cho cư sĩ tại gia hơn là tu sĩ xuất
gia, và chủ trương nhập thế qua các chương trình xã hội và bảo vệ sinh
môi.
Ông Seager nói rằng: “Nổi bật hơn cả là vai trò lãnh đạo và giáo thọ của giới phụ nữ thì rất là đáng kể”
Đức Đạt Lai nói về một Phật giáo biến dạng một cách tự nhiên tùy theo
nền văn hóa của mỗi địa phương. Trong khi người đi vòng quanh thế giới,
người cũng nhấn mạnh đến việc bắc nhịp cầu thông cảm giữa các tôn giáo
cũng như là tìm tòi những phương thức bất bạo động để giải tỏa các dị
biệt. Cuối tuần này “người đã từng đoạt giải thưởng Nobel Hòa bình” sẽ
dành thời gian cùng giới trẻ Denver chú tâm vào các đề án giải quyết
xung đột. Người sẽ làm lễ chú nguyện cho Đại Bảo Tháp, một điễn hình to
lớn nhất cho kiến trúc Phật giáo tại Hiệp Chủng Quốc, tại trung tâm
Shambhala Mountain ở Colorado.
Tuần tới người sẽ có một buổi nói chuyện với 20,000 khán giả tại một sân
vận động túc cầu tại Buffalo, và tại trường Phật học của thầy Surya
Das, trước đây thầy Surya Das đã từng là thị giả cho người trong nhiều
năm. Đức Lạt Ma người Hoa Kỳ này cũng sẽ tham gia trong buổi nói chuyện.
Thầy Surya Das rất lấy làm mãn nguyện khi kết luận rằng “ Phật giáo đã
tạo cho tôi nên người, đem đến cho tôi hạnh phúc và giúp tôi tìm được
chỗ đứng của mình trong cuộc đời và trong vũ trụ”
-----------
Tâm Từ Tiến
Nguon: http://www.diendanphatphaponline.com/diendan/showthread.php?6653-Ph%E1%BA%ADt-Gi%C3%A1o-Hoa-K%E1%BB%B3-ng%C3%A0y-c%C3%A0ng-gia-t%C4%83ng-m%E1%BA%A1nh-m%E1%BA%BD