Nguyên nhân chính của phương tiện này là
ở chỗ, ngôn ngữ giao tiếp của các nhà truyền giáo bấy giờ có hạn, văn
hóa không tương đồng, tín ngưỡng mới lạ, duy chỉ có âm nhạc dễ đi vào
lòng người, âm nhạc của Phật Giáo là thể loại âm nhạc làm cho người nghe
phải lắng lòng thanh tịnh có công năng hóa giải phiền muộn, hơn thế nữa
dễ làm cho người ta dễ sanh tín tâm cho nên buổi ban đầu khi đem Đạo
Phật đến Đông phương các nhà truyền giáo Ấn Độ thường vận dụng phương
pháp truyền giáo này.
Âm nhạc Phật Giáo Ấn Độ đến với phương
Đông bằng con đường tơ lụa theo gót chân của các nhà truyền giáo cao
Tăng. Để cho người phương Đông chấp nhận và thưởng thức được thể loại âm
nhạc của Phật Giáo, các bậc đại sư Ấn Độ, Trung Quốc và Việt Nam đã dựa
trên nền âm nhạc truyền thống của Phật Giáo Ấn Độ cải biên chỉnh sửa để
phù hợp với tập tục văn hóa và âm nhạc dân gian của từng địa phương.
Chính trong quá trình chỉnh sửa và cải
biên âm nhạc Phật Giáo để truyền giáo đã trở thành sự phát triển của âm
nhạc Phật Giáo, tạo thành một dòng âm nhạc mới với hai đặc trưng vừa là
âm nhạc mang đậm màu sắc của tôn giáo tín ngưỡng, lại cụ bị tính âm nhạc
dân gian, mang phong thái văn hóa nghệ thuật dân tộc từng vùng miền.
Chính vì vậy sau này âm nhạc Phật Giáo của từng nước đều trở thành một
bộ phận âm nhạc trong nền âm nhạc nghệ thuật của các nước phương Đông có
Phật Giáo lưu truyền.
Giới luật của Phật Giáo cấm không cho
người tu hành hát xướng “Bất ca vũ xướng…” đây là cấm giới mà bất cứ ai
là đệ tử của Đức Phật đều phải tuân thủ, nhưng trên thực tế để tán thán
ngợi khen công đức cũng như phẩm hạnh của Chư Phật và Bồ Tát và tuyên
dương diệu nghĩa của giáo pháp Phật Đà được thông qua các nghi thức lễ
nghi Phật Giáo như: lễ Phật, tán tụng kinh điển, đàn tràng, pháp hội
.v.v…
Trong các nghi thức ấy không thể thiếu
vắng hình bóng của âm nhạc vì âm nhạc làm cho khóa tụng trang nghiêm
hơn, người tham gia pháp hội dễ nhiếp tâm hơn và âm điệu của âm nhạc như
dẫn dắt ta đến cảnh giới vô vi an lạc trong trạng thái nhẹ nhàng quên
mất nỗi buồn lo. Cho nên trong các nghi thức của Phật Giáo không thể
không có âm nhạc và những công năng tác dụng của nó.
Trong những bộ kinh quan trọng của Phật
Giáo Đại Thừa như: Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Bát Nhã, Kinh
Duy Ma, Kinh A Di Đà.v.v…đều có đề cập đến âm nhạc trong các đoạn kinh
như tán thán Đức Phật cùng chư Bồ Tát hoặc là ngợi khen giáo nghĩa của
Phật Đà. Đây là cội nguồn đản sinh của âm nhạc Phật Giáo là cảm hứng
sáng tác của các bậc đại sư trong nghệ thuật âm nhạc Phật Giáo. Trong
các thể loại âm nhạc của Phật Giáo, Phạm Bối hay còn gọi là Tán Bối là
thể loại âm nhạc mang nét đặc trưng và tiêu biểu nhất của âm nhạc Phật
Giáo.
Tán Bối hay còn gọi là Phạm Bối hoặc là
Tác Phạm hay là Phạm, đây là giọng điệu âm nhạc mang nét đặc trưng của
âm nhạc Phật Giáo. Tán Bối có nguồn gốc từ âm nhạc Ấn Độ, nhưng lại
không giống các âm điệu cũng như nhạc khúc truyền thống của dân tộc Ấn.
Lại có truyền thuyết cho rằng thể loại âm nhạc Phạm Bối của Phật Giáo có
nguồn gốc từ âm nhạc của trời Phạm Thiên. Âm nhạc Phật Giáo Ấn Độ phát
triển vào thời kỳ trước và sau kỷ nguyên thứ nhất và được truyền vào
Việt Nam và Trung Quốc cũng khoảng thời kỳ này. Ở Trung Quốc và Việt Nam
âm nhạc tán tụng được gọi là Phạm Bối.
“Phạm” là tiếng của người Thiên Trúc còn gọi là tiếng Phạn, có nghĩa là “Thanh Tịnh”, “Tịch Tịnh”, “Ly Dục”.
“Bối”có nghĩa là “Chỉ đoạn”, “Chỉ tức”,
“Tán Thán” còn có nghĩa lấy nhạc khúc lại vịnh Kinh, dùng âm nhạc để
tụng kinh. Trong “Lương Cao Tăng Truyện” Ngài Huệ Hạo nói rằng: “Khi tán
có thổi tiêu hòa điệu cho nên gọi là Bối”.
Tán Bối tại Ấn Độ được dùng tán thán ca
vịnh các bài kệ tụng và Kinh trường hàng. Phật Giáo Đông truyền chư vị
Tổ sư truyền giáo dựa trên các thể loại văn học của người Trung Quốc
dịch Kinh, các bài kệ tụng được dịch theo thể thơ của văn học Trung
Quốc, còn Kinh Trường Hàng lại dịch theo lối tản văn. Sự biến đổi thể
văn cũng như ngôn ngữ làm trở ngại việc tác Phạm hành trì thời khóa, âm
điệu Tán Bối của Phật Giáo Ấn Độ không còn cách nào để vịnh xướng tán
tụng được nữa, vì tiếng Phạm đa âm còn tiếng Trung Quốc lại là đơn âm,
nên khi dùng Phạm âm lại vịnh theo tiếng Hán thì thanh âm nhiều nhưng
câu cú lại ngắn, nếu dùng khúc hát của Trung Quốc lại vịnh Phạm văn thì
văn ngắn màn âm từ thì thật là dài không thể thực hiện được, vì vậy một
vấn đề mới được đặt ra cho các nhà truyền giáo đại sư làm thế nào để có
một thể loại Phạm nhạc mới phù hợp với văn thể và âm nhạc của người Đông
Phương, để phục vụ cho việc hoằng truyền Thánh Giáo.
Người sáng lập ra nền âm nhạc Phạm Bối
của Phật Giáo Trung Quốc là Tào Thực đời Nhà Ngụy với tác phẩm “Ngư Sơn
Phạm Bái” gồm sáu chương, sau đó có Ngài Chi Khiêm tác Phạm Bối theo lối
cổ nhạc Trung Quốc có ba chương.v.v… Việt Nam có Phạm Bối là do Tổ
Khương Tăng Hội viết “Nê Hoàn Bối” có lẽ tính chất âm nhạc Phạm Bối của
Phật Giáo Việt Nam gần Phạm Bối Ấn Độ hơn Trung Quốc, vì Ngài Khương
Tăng Hội gốc người Thiên Trúc, đồng thời ngôn ngữ của người Việt thuộc
âm hệ đa âm cho nên có thể nói rằng Phạm Bối của Phật Giáo Việt Nam có
song song với Phạm Bối Phật Giáo Trung Quốc và âm nhạc tác Phạm của Việt
Nam hoàn toàn độc lập, giọng điệu tán tụng của Phật Giáo Việt Nam hoàn
toàn khác biệt với âm nhạc Phật Giáo Trung Quốc trước thời kỳ bị đô hộ
và chính sách đồng hóa văn hóa của người Trung Quốc.
Thông
thường Tán Bối được dùng trong ba trường hợp thực hành nghi lễ của Phật
Giáo gọi là “ Pháp Tập Tam Tòa” do Ngài Đạo An chế tác.
1 - Nghi thức giảng Kinh.
2 - Sáu thời khóa tụng.
3 - Đàn tràng, Pháp hội, đám sám.
Khoa nghi “Pháp Tập Tam Tòa” được Ngài
Đạo An sáng lập để cho Tăng đoàn Phật Giáo Trung Quốc hành trì có cách
đây khoảng hơn 1500 năm vào thời Đông Tấn và có ảnh hưởng rất lớn trong
sinh hoạt nghi lễ của Phật Giáo Bắc Truyền.
1 - Nghi thức Giảng Kinh gồm có: Kinh hành thỉnh sư, ngồi thiền tĩnh tọa, đăng tòa thuyết Pháp.
2 - Nghi thức của Sáu thời khóa tụng gồm có: Bốn thời công phu hành trì và hai thời Quá đường trưa sáng.
3 - Nghi thức Sám Hối, Bố Tát, và các khoa nghi của Đàn tràng Sám Pháp, Pháp hội.
Trong khi hành nghi của các nghi thức
trên đều có dùng đến Phạm Bối, âm nhạc của tác Phạm có công năng ổn định
Đạo tràng và tạo thành không khí trang nghiêm cho Pháp hội.
Phạm Bối có mặt hầu hết trong các lễ
nghi và nghi thức của Phật Giáo, từ Đại lễ Pháp hội cho đến các thời
khóa tu học thường nhật trong chùa cũng như lễ cầu an, cầu siêu, ma chay
cho cư sĩ tại gia. Tán tụng của Phật Giáo phổ cập rộng rãi trong xã hội
từ Hoàng Cung cho đến dân gian, lâu ngày hòa nhập với trong âm nhạc của
cung đình và dân gian tạo thành một lối Phạm Bối đầy đủ tính chất và
sắc thái của âm nhạc dân tộc, địa phương, vùng miền, như tán tụng của
Miền Bắc, Miền Trung Huế, Bình Định, Miền Nam.v.v...
Điều đặc biệt là hầu hết các giọng điệu
âm nhạc của thế gian từ cung đình đến dân gian đều chỉ được áp dụng vào
các điệu xướng, tụng, vịnh, bạch và các giọng thỉnh, riêng các giọng
điệu của Phạm Bối vẫn được giữ nguyên chất giọng âm nhạc Phật Giáo không
thể lẫn lộn với bất cứ thể loại âm nhạc nào của thế gian, có hay không
chỉ là được tán bằng chất giọng của địa phương như tán Huế, tán Bình
Định.v.v…
Do tính phổ cập của Phạm Bối cho nên khi
truyền đến địa phương hay vùng miền nào đều dùng chất giọng của địa
phương đó để diễn xướng, lâu ngày nên có chỗ sai khác về giọng điệu cũng
như tấu diễn nhưng tính chất đặc trưng của Phạm Bối là thanh tịnh tịch
tĩnh thì không hề thay đổi dù là Nam hay Bắc, âm của miền nào hay tán
bằng thể loại nào thì không có cách gì làm mất đi tính trang nghiêm
thanh tịnh của đạo tràng và hướng tâm thành kính của tín đồ Phật Giáo
đến với Tam Bảo.
Các bậc Cổ Đức Phật Giáo đều cho rằng
người mới sơ cơ nhập đạo hay là đã tu hành thâm niên trong Phật Giáo,
đều phải học tập tán tụng và hành trì Phạm Bối, vì hành trì và học tập
Phạm Bối đối với người tu hành có rất nhiều lợi ích trong việc “Tu tâm
dưỡng tánh”.
1 - Tán tụng làm cho ta thấy được công
đức to lớn của Chư Phật, Bồ Tát dể làm cho ta sanh tâm kính ngưỡng tán
thán và học tập, qua đó chúng ta học được pháp tùy hỷ ngợi khen và tán
thán người khác.
2 - Tán tụng làm cho chúng ta luôn sống
trong lời hay ý đẹp, âm nhạc hiền hòa, nuôi dưỡng thân và tâm của ta
trong chất liệu văn hóa nhân văn, vì tất cả nội dung của các bài tán từ ý
nghĩa cho đến văn chương, âm nhạc đều đã đạt đến cảnh giới cao nhất.
3 - Trong khi tán tụng ba nghiêp thân
khẩu ý của chúng ta hoàn toàn thanh tịnh không tạo nghiệp ác, hành động,
nói năng và suy nghĩ đều hòa nhập vào thể tánh tịch tĩnh của Chư Phật
trong đạo tràng.
4 - Khi tán tụng nếu như chúng ta hòa âm
nhiếp niệm, nhập tâm vào điệu tán, lắng nghe được âm nhạc, phát âm
chuẩn mực làm cho tâm trụ nhất xứ, tam nghiệp tương ưng thọ đại an lạc.
5 - Nếu như trong pháp hội tín chúng
đông đảo chưa thật nhiếp niệm, chỉ cần chúng ta nhất tâm cử tán thì đặc
tính thanh tịnh của Phạm Bối và âm thanh tịch tỉnh của Phạm Thiên, lập
tức có công năng tỉnh thức mọi người và đưa họ về trở lại với thực tại
trong tính trang nghiêm thanh tịnh vốn có của một đạo tràng.
6 - Tán tụng có công năng điều phục thân
thể, vì trong khi hòa nhập vào điệu tán thân và tâm của ta an trụ một
chổ, hơi thở điều hòa, âm điệu trầm bổng, tinh thần thư thái, không còn
tạp niệm, trong phúc giây ấy thân và tâm ta lắng nghe lẫn nhau, âm nhạc
và giọng điệu của Phạm Bối có công năng trị liệu, hóa giải hết thảy khổ
đau của thân và tâm, làm cho thân và tâm quay lại trang thái ban đầu
“Thân không tật bệnh tâm không phiền não” khoảnh khắc thời gian của tán
tụng là thời gian an tịnh và thảnh thơi.
7 - Trong thời gian tán tụng thời khóa
tam nghiệp của chúng ta hoàn toàn thanh tịnh, từ cảnh giới thanh tịnh
của hiện tại chúng hòa nhập tương ưng vào cảnh giới của Chư Phật, Bồ Tát
để thể nhập trí tánh thanh tịnh. Vào cảnh địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh,
đem phương tiện độ sanh và lòng từ vô hạn của Phật và Bồ Tát để phổ độ
mê tình.
Nội dung chủ yếu của Phạm Bối gồm có hai phần.
1 - Ứng phú đạo tràng tán Bối gồm Thủy Lục Pháp Hội nội ngoại đàn chư khoa, Du Già Diệm Khẩu Thí Thực Khoa Nghi.
2 - Thời khóa Phạm Bối chúc tán chư khoa
nghi: như Khai Kinh , diễn tịnh, cúng ngọ, bố tát, chúc thánh, thù ân,
sám hối và hai thời công phu sáng tối.v.v…
Âm điệu Phạm Bối có tính chất chuyên môn
chỉ có trong hai khoa Thủy Lục Pháp Hội và Chẩn Tế Du Già, còn trong
các nghi thức thường dùng chỉ có những điệu tán phổ thông như: tán tứ cú
tán lục cú và bát cú.
1 - Tán tứ cú gồm những bài tán Phật và
Bồ Tát như: “Thiên Thượng Thiên Hạ, Quy Mạng Thập Phương, Khể Thủ Tây
Phương, Quan Âm Bồ Tát.v.v…
2 - Tán lục cú gồm những bài như: Dương
Chi Tịnh Thủy, Lư Hương Xạ Nhiệt, ngoài ra còn có những bài tán của các
ngày lễ vía của Chư Phật, Bồ Tát, Tổ sư.v.v…
3 - Tán Bát cú còn gọi là đại tán gồm
những bài: Tán Tam Bảo, Tán Khể Thủ, ngoài ra cò có tán Lục Cúng Dường
và tán Thập Cúng.v.v…
Trong các nghi thức của Phật Giáo có sử
dụng tán tụng được chia thành ba phần gồm sơ Bối, trung Bối và hậu Bối.
Ví dụ trong thời cúng ngọ, Sơ Bối gồm các bài tán hương như: Lư hương
xạ nhiệt, Chiên đàn hải ngạn.v.v… Trung Bối gồm các bài tán Phật như:
tán Khể thủ, tán Quy Mạng, tán Thiên Thượng.v.v… Hậu Bối gồm các bài tán
Hồi Hướng và Tam Tự Quy.
Phạm Bối là một thể loại âm nhạc tôn
giáo có tính đặc trưng riêng biệt của âm nhạc Phật Giáo mà không thể lẫn
lộn đối với bất cứ một thể loại âm nhạc của tôn giáo nào, cũng như âm
nhạc của thế gian. Trong khi tất cả các thể loại âm nhạc trên thế gian
tập trung giải bày những buồn vui, khổ đau phiền não, thất tình lục dục
của nhân thế. Âm nhạc Phật Giáo nói chung và Phạm Bối nói riêng tìm đến
chân như để giải thoát khổ đau cho nhân loại.
Khi âm nhạc của thế gian bận rộn với đời
thường và tìm cách thỏa mãn nhu cầu giải trí cho quần chúng thì âm nhạc
Phật Giáo luôn nhắc nhở mọi người hảy cẩn thận với sự tham dục của
chính mình vì đây là nguyên nhân dẫn chúng ta đến bờ vực khổ đau.
Hãy quay lại với chính mình, nhìn nhận
lại mình và an lạc với từng phút giây mình có, thả hồn trong tịch tĩnh,
dấn thân vào thanh tịnh, cất tiếng đại từ bi, trí huệ, diệt trừ mọi
phiền não khổ đau, đây là thông điệp của âm nhạc Phật Giáo nói chung và
là âm thanh vi diệu từ cõi Phạm Thiên vang xuống cõi trần, trong giọng
điệu thanh tịnh oai hùng, vắng lặng của những bài Tán Bối.
Phật Giáo đông truyền đến nay đã hơn
2000 năm lịch sử, sự có mặt của Phạm Bối trong âm nhạc Phật Giáo cũng
chừng ấy năm trời. Phạm Bối là Pháp môn tu học cần thiết của Tăng sĩ Bắc
Truyền và là phương tiện hoằng giáo độ sanh hữu hiệu nhất của Phật Giáo
Đông Độ.