Bài thơ chẳng hay gì, lại không thấy đề tên tác giả, có lẻ là ca dao.
Mà ca dao thì đáng lẽ phải hay hơn. Nhưng đó là ý kiến của tôi về sau
này. Thuở đó, thơ trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư phần nhiều là như vậy,
chẳng hay, nhưng có vần có điệu, đọc lên cũng thấy thơ. Bài "Lính thú đời xưa" khá dài, chia thành hai phần. Bài thứ nhất:
Lính thú đời xưa
Ngang lưng thì thắt đai vàng
Đầu đội nón dấu vai mang súng dài
Một tay thì cắp hỏa mai
Một tay cắp giáo quan sai xuống thuyền
Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa
Bên cạnh bài thơ có vẽ hình một người
đàn bà nông dân bế đứa con nhỏ, tiễn chồng ra đi. Ngày nay, người ta
tiễn nhau ở bến xe, ở nhà ga, ở sân bay. Thuở trước, biệt ly diễn ra
trên bến thuyền. Thuyền đi chậm, sông nước mêng mang, nhìn theo không
biết bao giờ mới hút bóng.
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa
Nước mắt của ai như mưa? Của người chồng
bước chân xuống thuyền? Chắc không phải, vì đàn ông đâu có khóc như
vậy! Nhưng cũng có thể người chồng khóc như mưa ở trong lòng. Khóc như
thế, nổi buồn không khô được, cứ ướt mãi. Thuyền trôi trên nước, người
chồng trôi trong nước mắt.
Khóc như mưa, chắc phải là người vợ.
Người chồng vừa bước chân xuống thuyền thì mưa đã ào ào tuôn trên mắt
người vợ đứng trên bờ nhìn theo. Người đi, người ở đều ướt sũng nước
mưa. Mưa ướt sũng bến đò.
Lúc nhỏ, đọc câu thơ, tôi bùi ngùi. Lớn
lên, hiểu thêm rằng biệt ly là khổ. Lớn lên nữa, già đi, lại chột dạ,
thấy mình lúc nào cũng như đang tiễn biệt một cái gì, tiễn một niềm tin
bị cuộc đời đánh cắp, tiễn một quê hương bỗng nhiên phụ phàng, tiễn bóng
câu qua cửa sổ, tiễn cả chính mình, tiển mình trong từng phút từng
giây. Nhưng đó là chuyện khác. Trở về với bài " Lính thú đời xưa" mà Quốc Văn Giáo Khoa Thư có ghi rõ là "tiếp theo":
Lính Thú Đời Xưa (tiếp theo)
Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thời canh điếm tối dồn việc quan
Chém tre đẵng gổ trên ngàn
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc măng mai
Những dang cùng nứa biết ai bạn cùng
Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng
Khổ thay là cuộc đời lính thú! Đày ải
giữa nơi đèo heo hút gió, quần quật tay chân hết sáng đến tối, anh lính
muốn than một tiếng cũng không biết kêu với ai ngoài tre, dang, nứa điệp
điệp trùng trùng. Tre ơi, dang ơi, nứa ơi, có biết chăng tôi đây đang
khổ với tấm thân này!
Khổ với tấm thân... Lúc học lớp ba, tôi
chưa hiểu có thân là khổ. Chỉ hiểu nỗi khổ biệt ly. Cho nên tôi biết bùi
ngùi với bài thơ thứ nhất mà không mấy rung cảm với bài thơ tiếp theo.
Chỉ có một câu làm tôi thắc mắc mãi, từ nhỏ đến lớn, từ trẻ đến già, từ
đó đến nay. Câu thơ thật lạ kỳ, như ở đâu bay vào bài thơ, lạ hoắc, lảng
xẹt. Đó là câu cuối:
Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng
Tại sao bỗng có con cá vẫy vùng trong
giếng ở cuối một bài thơ nói về anh lính thú từ biệt vợ sống đầy ải trên
núi rừng? Giữa anh lính với con cá chẳng có một liên hệ gì cả. Cách cấu
trúc của câu thơ cũng kỳ quặc: hai câu tám đi tiếp theo nhau:
Những dang cùng nứa biết ai bạn cùng
Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng
Trong một vài bài thơ lục bát ngày xưa,
có khi tác giả phá thể, chấm dứt bài thơ ở câu sáu. Nhưng nếu thế, tại
sao không chấm dứt như thế này:
Giếng trong con cá vẫy vùng
Tại sao lại thêm chữ "nó" quái gở vào câu thơ? Không phải con cá vẫy vùng mà là con cá nó vẫy vùng. Tựa như con cá với nó là hai, có con cá và có nó ở trong giếng đùa nghịch với nhau, nó vẫy vùng nơi con cá, con cá vẫy vùng nơi nó. Quái, tại sao có con cá hạnh phúc như vậy ở đây?
Tôi chịu thua. Mà cũng chẳng ai giải
thích được cho tôi. Tôi đố ai giải thích nổi! Câu thơ nhảy vọt từ chuyện
khổ qua chuyện vui, không đầu không đuôi, không gốc không ngọn, chẳng
nghĩa lý gì cả. Anh lính thú nhớ vợ, mơ về chăn gối ấm êm bên cạnh vợ?
Anh lính thú kiệt sức giữa lúc chém tre đẵn gỗ bỗng thấy lóe ra trong
một cơn mê sảng hình ảnh thanh bình của giếng nước ở quê nhà? Bài thơ
quá giản dị, chất phát, không cho phép tôi diễn dịch cao xa. Nhưng câu
thơ nằm mãi trong đầu tôi vừa như một hình ảnh êm dịu, vừa như một vũ
trụ bí mật quyến rũ, mời mọc, thách thức óc tưởng tượng của tôi. Tôi
không tóm được nó, cho nên nó dẫn tôi đi lang thang.
***
Tôi lang thang trong thế giới thiền.
Đừng bắt tôi giải thích tại sao. Trong thiền không có tại sao. Nó thế là
nó thế. Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ
lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế
giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích;
hãy lang thang với tôi trong dăm ba câu chuyện thiền.
Một ông sư hỏi Phong Huyệt: "Người nào không hiểu thì chẳng bao giờ thắc mắc; tại sao vậy?"
Phong Huyệt đáp: "Con rùa đi trên đất thì để lại vết chân trong bùn."
Một ông sư khác hỏi Triệu Châu: "Muôn vật quy về Một; vậy Một quy về đâu?"
Triệu Châu trả lời: "Hôm qua, đến huyện Kinh, ta có may một cái áo nặng bảy cân."
Có người hỏi Động Sơn: "Phật là ai?"
Trả lời: "Ba cân vải."
Người kia đem câu nói của Động Sơn hỏi Trí Môn. Ông này cắt nghĩa: "Một mớ hoa, một mớ lụa." Rồi hỏi lại:
-Hiểu chưa?
-Dạ chưa hiểu.
-Tre trúc phương nam, tùng bách phương bắc.
Lại có người đem cùng câu hỏi đó hỏi Hòa Sơn: "Phật là ai?"
Trả lời: "Ta biết đánh trống, tùng tùng tùng, cắc cắc tùng."
Vui thật là vui. Vui như thế thì hãy đọc thêm vài chuyện nữa.
Có người hỏi Hương Lâm: "Bồ Đề Đạt Ma đến từ phương tây là có ý nghĩa gì vậy?" Trả lời: "Ngồi lâu thì mỏi."
Một ông sư hỏi Tào Sơn: "Làm thế nào khám phá ra được một sự im lặng mà không ai có thể diễn tả bằng lời?"
-Ta không khám phá ở đây.
-Thầy khám phá ở đâu?
-Nửa đêm hôm qua ta mất ba đồng tiền cạnh giường ngủ.
Câu cuối trong các chuyện thiền có khi là một bài thơ, một câu thơ. Bằng thơ, đồ đệ của Huệ Nam tả sư phụ của mình như sau:
Ông thầy già Huệ Nam
Có câu chuyện "sinh đẻ ở đâu"
Tôi biết sư phụ tôi rõ lắm
Tôi sẽ tả sư phụ ra đây
Tôi sắp tả sư phụ đây này:
Con mèo biết cách bắt con chuột già
Các ông thiền sư thi nhau điên? Có thể lắm! Nhưng càng điên lại càng hay! Hay tuyệt! Tôi đố ai có câu cuối bất ngờ hơn thế này:
Từ Minh hỏi Quế Sâm: " Nguyên lý căn bản của đạo Phật là gì?" Quế Sâm trả lời:
Mây trời không tụ
Trên đỉnh núi cao
Vằng vặc vầng trăng
Thanh tịnh soi mình trên sóng
Từ Minh quắc mắt: "Thật là sỉ nhục ! Tu
già đời đời mà còn hiểu bậy bạ như vậy! Làm sao thoát khỏi sinh tử luân
hồi!" Quế Sâm quỳ lạy sư phụ dạy bảo cho biết sai chỗ nào. Từ Minh
quát: "Hỏi ta đi!" Quế Sâm lập lại câu hỏi ban nảy: "Nguyên lý căn bản
của đạo Phật là gì?" Sư phụ nghiêm trang:
Mây trời không tụ
Trên đỉnh núi cao
Vằng vặc vầng trăng
Thanh tịnh soi mình trên sóng
Nếu thiền mà không ngược đời thì thiền
chẳng phải là thiền. Tôi đi vào thế giới đó thì phải thay đôi giày mà
đi: lấy chiếc giày chân phải mang vào chân trái, chiếc giày chân trái
mang vào chân phải, hai chân lúc đó mới thoải mái. Lúc đó mới thấy cái
chuyện ngược đời chính là cái chuyện tại sao có bàn chân phải và bàn
chân trái, tại sao có chiếc giày bên trái và chiếc giày bên phải, tại
sao mỗi khi mang giày lại cẩn thận xem chiếc nào phải chiếc nào trái.
Đứa trẻ lên ba có bao giờ phân biệt như vậy đâu!
Thật Tánh Đại Sư để lại bài thơ như thế này:
Với hai bàn tay trống, ta đi
Ấy thế mà trong tay ta lại có cái cuốc
Với hai chân đất, ta đi
Ấy thế mà ta đang cưỡi trên lưng con bò
Ta đang đi trên cầu
Kìa! không phải nước chảy mà cái cầu đang trôi
Dưới nước có cái cầu đang chảy. Cụ Nguyễn Du đáng lẽ phải viết lại câu thơ như thế này:
Dưới nước cầu chảy trong veo
Bởi vì cụ không thấy được như vậy cho
nên cụ cứ than thở hoài, sống bây giờ mà cứ khóc chuyện ba trăm năm sau.
Bashô của Nhật học được cái ngược đời của thiền, lấy ngược nhìn xuôi,
cho nên "những điều trông thấy" chẳng làm cho ông "đau đớn lòng"
gì cả. Ngược lại, ông thoải mái với những chuyện trước mắt mà ông để
hết tinh thần để thấy, để nghe. Có người hỏi ông: "Thế nào, ông mạnh
giỏi không?" Trả lời:
- Mưa tạnh thì rêu xanh hơn.
Lại hỏi:
- Cái đạo Phật gì có trước khi rêu xanh?
Trả lời:
- Một con ếch nhảy vào nước; nghe tiếng đó đi!
Câu trả lời biến thành một bài thơ hài cú nổi tiếng:
—! Cái ao xưa!
Một con ếch nhảy
Tiếng nước!
Không biết nghe, không biết thấy, thì
cái ao có đó cũng như không, con ếch có nhảy cũng chẳng làm ai nghe
tiếng nước đánh bõm. Không biết thấy thì Phật đứng trước mắt cũng chẳng
thấy. Biết thấy, biết nghe thì tiếng nước thường tình cũng là một sự kỳ
lạ mầu nhiệm. Thơ là gì, nhất là thơ hài cú, nếu không phải là ba bốn sự
vật thường tình bỗng trở thành linh hoạt dưới mắt Bashô?
Một cành cây trụi lá
Một con quạ đậu trên cành
Hôm nay chiều thu
Lang thang trong thế giới thiền xấc láo,
ngỗ ngược, tôi chợt có một ý nghĩ đùa nghịch: đổi câu cuối của các
chuyện thiền, nghĩa là câu quan trọng nhất, câu sống chết. Chẳng hạn như
chuyện sau đây:
Cao Phong là danh sư thiền dưới đời
Tống. Một hôm, sư phụ của ông hỏi bất thần: " Ai gánh giùm cho ông cái
thân xác đã mất hết sự sống nầy?" Cao Phong lúng túng, khổ sở không tìm
ra câu trả lời. Ông loay hoay suy nghĩ nát óc trong mấy ngày đêm. Một
buổi sáng, bước vào thiền đường, tình cờ nhìn lên bức họa chân dung Pháp
Hiển, ông bỗng để ý đến hai câu thơ của Pháp Hiển viết dưới bức họa:
Suốt trăm năm-ba vạn sáu ngàn buổi sáng
Cũng cái lão già này cứ mãi vào ra!
Cao Phong bừng tỉnh. Sau đó,ông gặp lại
sư phụ. Thầy hỏi:" Ai gánh giùm cho ông cái thân xác đã mất hết sự sống
này?" Cao Phong trả lời" Hô!" Thầy hươi gậy lên toan đánh. Trò gạt tay
thầy ra: "Sư phụ không đánh tôi được nữa!" Thầy nói: "Tại sao không?"
Trò không trả lời, bỏ đi. Hôm sau, thầy lại hỏi: "Mọi vật quy về Một;
vậy Một quy về đâu?" Trả lời:
-Con chó liếm nước sôi nơi cái chảo.
Thầy nạt:
-Ai dạy cho ông chuyện ngu xuẩn như vậy?
Cao Phong đủng đỉnh:
-Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng!
Giá như câu cuối này được kể dưới thời
Tống, không chừng câu thơ đã đi vào sử sách chứ không phải chỉ nằm khiêm
tốn trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư!
Tôi kể thêm chuyện nữa:
Một ông sư hỏi Triệu Châu: "Một ngọn lửa
thắp ra thành trăm ngọn lửa; vậy từ đâu đến cái ngọn lửa duy nhất đó?
Vạn sự trở về Không; vậy Không trở về đâu? Thầy đáp: "Lưỡi ta ngắn quá,
không trả lời cho ngươi được." Trò hỏi: "Tại sao ngắn?" Trả lời: "Ở
ngoài hay ở trong đều cùng một bản chất." Trò sụp lạy xin nói rõ hơn.
Triệu Châu nạt:
-Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng!
Trong trường hợp ông thiền sư không muốn nói nhiều, tôi đề nghị một chuyện khác nữa như thế này:
Một ông sư hỏi Thủ Sơn: "Người xưa nói:
Có một chữ, một chữ duy nhất, mà nếu ta hiểu được thì có thể xoá hết tội
lỗi đã phạm trong vô số kiếp. Chữ duy nhất và cuối cùng đó là gì?" Thủ
Sơn trả lời: "Nó nằm ngay dưới mũi của ông." Lại hỏi:
-Nghĩa là gì?
-Nước giếng trong!
Hoặc là thế này, cho ngắn gọn hơn nữa, hợp với khẩu khí thiền hơn:
Một ông sư hỏi Trường Sa: "Trong khi
biến đổi sông núi đất đai, làm sao dồn tất cả các thứ đó vào cái Tôi?"
Thầy trả lời: "Trong khi biến đổi cái Tôi, làm sao sản sinh ra đất đai
sông núi?" Ông sư không hiểu. Thầy quát:
-Nước!
Tôi cũng có thể sáng tác một chuyện
thiền của riêng tôi, rút cảm hứng từ những sự việc vụn vặt nhất trong
đời sống thường ngày, nấu cơm, rửa chén. Thú thật, mỗi lần nghe gạo sôi
trong nồi điện, tôi thường tự hỏi không biết gạo đang sướng hay đang
khổ, đang quằn quại trong sức nóng của điện như anh lính thú vật vã
trong cực nhọc của núi rừng, hay đang vui cái vui của Phật dưới cội bồ
đề, trong đêm cuối cùng, khi trời sắp sáng. Gạo sôi, sôi sùng sục, nước
bốc hơi qua vung, rồi êm dần, lắng xuống, yên lặng. Khi nồi điện bật
nút, tôi nghe gạo trong nồi reo lên: "Cơm!", và tôi thấy sao Mai chợt
sáng trên trời. Giác ngộ là lúc gạo bỗng thấy mình thành cơm? Đó quả
thật là một bí mật sâu kín, bởi vì gạo làm sao thành cơm được nếu chất
cơm đã không có sẵn nơi gạo? Anh lính thú cũng là một hạt gạo như Phật,
vậy thì ai dám bảo anh đã không thành Phật qua một kinh nghiệm riêng
anh? Nếu không, tại sao anh bỗng nhảy vọt từ một nỗi khổ không rên la
được với ai qua một hình ảnh hạnh phúc tuyệt vời?
Kinh Thập Địa tả trạng thái của bồ tát
khi đạt đến tầng thứ tám của đời sống tâm linh bằng một hình ảnh rất
đẹp: giống như người bơi thuyền ra biển, lúc mới xa bờ thì sóng lớn dồn
dập, rầm rộ muốn nuốt con thuyền, đập tan nó ra, cuốn phăng nó đi, xé nó
thành trăm mảnh vụn, nhưng càng ra xa thì nước càng lắng, và ra đến
giữa đại dương mênh mông thì sóng yên biển lặng, thuyền không một chút
chèo chống mà vẫn trôi êm trên nước. Biển nào cũng là biển, trong bờ hay
giữa khơi thì biển cũng chỉ là một; thuyền nào cũng là thuyền, nhấp nhô
giữa sóng hay êm ả giữa mênh mông thuyền đâu có phải là hai? Nếu ông
thiền sư nào đó hươi gậy trên đầu tôi, hỏi: "Phật là ai?", tôi sẽ trả
lời không suy nghĩ:
-Anh lính thú!
Và nếu ông hỏi tiếp: "Giác ngộ là gì?", tôi sẽ đáp không chút khó khăn:
-Nước giếng trong!
***
Có thể đạo Phật của tôi "trí thức" quá,
đưa tôi đi quá xa một bài thơ dân dã. Có lẽ tôi phải lang thang một thế
giới khác, có tiếng võng, có ca dao, có cổ tích. Giếng nước! Hình ảnh
thân thuộc biết bao nhiêu! Kìa, có bóng ai thấp thoáng bên miệng giếng,
có tiếng ai gọi: Bống bổng bồng bông... Ấy, cô Tấm đang thả cơm
xuống giếng cho con cá bống. Cô Tấm có một người dì ghẻ ác, một cô em
gái hiểm; Cô Tấm bị ngược đãi, nhưng Cô Tấm không kêu khổ, chỉ khóc. Cổ
tích Việt Nam có một cô Tấm khóc rất dễ thương và một ông Bụt hiền như
Bụt. Khi Bụt hiện ra, cô Tấm không ngạc nhiên, cũng không mừng rỡ, tưởng
chừng như Bụt hiện ra là chuyện tự nhiên, như Bụt ở đâu đó, bên cạnh
cô, cô khóc là Bụt hiện.
Tôi không biết khóc như cô Tấm, nhưng
tôi có cảm tưởng Bụt vẫn hiện ra với tôi, nghĩa là trong tôi. Tôi biết
một cái chắc chắn rằng hễ ai mời Bụt là Bụt đến, nhưng phải biết cách
mời. Cách mời cũng giản dị thôi: chỉ cần sống như Bụt, sống như lời Bụt
nói, sống như hình ảnh của Bụt. Sống như vậy thì cuộc đời sẽ là cổ tích.
Tam Tạng là cổ tích hay cuộc đời? Là cổ
tích, vì ai chẳng biết chuyện ông Tam Tạng qua Tây Trúc thỉnh kinh, gặp
đầy yêu quái dọc đường? Là cuộc đời, vì Tam Tạng là Huyền Trang. Tam
Tạng là cổ tích đi vào cuộc đời, là cuộc đời đi vào cổ tích. Đây là đoạn
Huyền Trang vượt qua sa mạc, do sử sách chép lại:
... Chừng canh ba, pháp sư lén vượt
được cửa ải Ngọc Môn, mừng lắm, đặt hành lý xuống nằm ngủ, cách người Hồ
năm mươi bước. Mới nằm một lát, người Hồ rút dao đứng lên. Pháp sư ngờ
người Hồ đổi dạ, ngồi dậy niệm đức Quan Âm. Thấy vậy, người Hồ về chỗ
nằm ngủ. Gần sáng, người ngựa lại tiếp tục đi, nhưng được vài dặm thì
người Hồ bảo không đi thêm được nữa, đi thì chết. Pháp sư đơn độc đi vào
sa mạc, chỉ nhìn xương người hay phân ngựa mà đi. Một lát bổng thấy có
mấy trăm quân binh diễu ra trước mắt, thoáng tiến thoáng lui, người ngựa
cờ xí biến ảo liên hồi, nhìn xa thấy rõ, đến gần lại tan. Pháp sư mới
nhìn nghi là giặc cướp, đến gần mới biết quái dị. Nhưng trong không gian
có tiếng nói: cứ đi, đừng sợ.
...Vượt qua bốn đồn canh, pháp sư đi
vào đại sa mạc Mông Cổ. Đại sa mạc này dài hơn tám trăm dặm, trên không
có chim bay, dưới không có thú chạy, nước không một giọt, cỏ không một
lá. Một mình một ngựa, pháp sư chỉ niệm đức Quan Âm và bài Bát Nhã Tâm
Kinh mà đi. Giữa đại sa mạc, gặp bao nhiêu hiện tượng quái dị vây bọc
trước sau, pháp sư niệm bài kinh này thì tan biến liền, lại gặp bao
nhiêu nguy khốn, niệm bài kinh đều vượt qua hết thảy.
Pháp sư đi cở trăm dặm thì lạc
đường, tìm suối Dã Mã không thấy. Lấy túi nước để uống thì lỡ tay, nước
đổ hết trên cát. Quanh quẩn không biết hướng nào, bèn lấy hướng đông.
Nhưng đi thêm mười dặm nữa, pháp sư tự nghĩ: mình đã nguyện chưa đến xứ
Phật thì không lui về hướng đông một bước, sao bây giờ lại quay về! Thà
đi về hướng tây mà chết, nhất quyết không quay về hướng đông để sống.
Trở ngựa lại, pháp sư chuyên tâm niệm đức Quan Âm mà đi theo hướng tây
bắc. Bấy giờ, cát nóng mênh mông, người ngựa đều lả, đêm thì yêu quái
nhấp ngánh như sao, ngày thì cuồn phong cuốn cát, tung bay như mưa lũ.
Pháp sư không nao núng gì cả, chỉ khổ vì khát quá, không đi được nữa. Đã
bốn đêm năm ngày, pháp sư không có một giọt nước thấm môi. Cổ, miệng và
bụng nóng gần chết. Quị xuống mặt cát nóng rát, pháp sư vẫn thầm niệm
đức Quan Âm, thầm bạch: con đi đây, không cầu lợi lộc, không mong danh
vọng, chỉ vì Phật pháp vô thượng mà thôi, Bồ Tát là đức Từ Bi, thương
người cứu khổ, con thế này là đang khổ đây, lẽ nào ngài không biết. Pháp
sư tác bạch như vậy và không ngừng niệm danh hiệu của ngài. Nửa đêm hôm
ấy là đêm thứ năm, đột nhiên có luồng gió mát thổi đến thân thể pháp
sư; pháp sư nghe mát như tắm nước lạnh, nhờ vậy mà sáng mắt, ngựa cũng
dậy được. Cơ thể đã thư, pháp sư thiếp được một lát, mộng thấy vị thần
cao lớn bảo sao không gắng dậy mà đi, lại nằm như thế này. Pháp sư hoảng
dậy, đi được mươi dặm thì đột nhiên ngựa rẽ qua ngả khác, kéo lại cũng
không chịu. Thêm vài dặm nữa, bỗng thấy cả mẫu cỏ xanh. Pháp sư cho ngựa
ăn, lại đi mươi bước thì thấy một ao nước, trong và ngọt. Uống rồi,
người ngựa đều khỏe, nghỉ lại một ngày. Hôm sau múc nước, lấy cỏ, đi
tới. Thêm hai ngày nữa, pháp sư ra khỏi sa mạc.
Tôi tặng câu chuyện này cho anh lính thú
"hửu thân hửu khổ" của tôi. Trên rừng thiêng nước độc, chắc anh còn đau
sốt liên miên, có khi không chừng kề cận cái chết. Tôi chắc anh chẳng
biết ông thiền sư là cái ông gì, nhưng chắc chắn anh biết Bụt là ai,
giọt nước Quan Âm mát như thế nào. Đừng nói anh lính thú kể chuyện không
đầu không đuôi, câu kết lạ hoắc với câu tam câu tứ. Có cái gì lạ hoắc
với sa mạc bằng ao nước đâu! Thế mà Tam Tạng bảo tôi viết bài thơ hài cú
như thế này:
Sa mạc, sa mạc, sa mạc
Sa mạc
Nước!
Trí thức cuả tôi cũng chỉ là sa mạc; tôi
sẽ chết khát trong đó như chết khát trong bài thơ lớp ba, và sẽ không
bao giờ nhãy vọt đến câu cuối nếu không có sự giao cảm của lòng tin. Trí
tuệ sẽ khô cứng nếu không có lòng tin tươi mát. Với trí tuệ mà thôi,
chưa chắc tôi đánh hơi được mùi cỏ xanh như con ngựa của Huyền Trang.
Chưa chắc tôi thấy được Bụt như cô Tấm. Chưa chắc tôi được là con cá nó vẫy vùng trong giếng nước trong.
Chú thích:
Chuyện thiền, tôi lấy trong Suzuki, Essais sur le Bouđdhisme Zen và Les Chemins du Zen.
Chuyện Huyền Trang, tôi lấy từ Hòa Thượng Trí Quang, Hai thời công phu.
[]