16/07/2017 18:49 (GMT+7)
Số lượt xem: 1920
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Sau khi Đức Phật nhập diệt thì Phật giáo tiếp tục phát triển và mở rộng, cả về phương diện địa lý lẫn tư tưởng. Về phương diện địa lý, Phật giáo lan tỏa ra các vùng xa xôi khác của Ấn Độ.




buddhism in india

Đặc biệt dưới thời vua Asoka, Phật giáo đã được truyền ra nước ngoài như Miến Điện, Tích Lan…

Dưới thời vua Kanishka, Phật giáo truyền sang Trung Quốc. Đến thế kỷ thứ VIII lại truyền qua Tây Tạng… Về phương diện tư tưởng thì ta thấy có sự ra đời của Phật giáo bộ phái, sự phát triển của A-tỳ-đạt-ma, nhất là sự hình thành Phật giáo Đại thừa, rồi Mật tông, Trung quán, Duy thức, Nhân minh… Ấy vậy mà trong quá trình phát triển như thế, Phật giáo ở Ấn Độ, với những nguyên nhân chủ quan và khách quan, cũng đã bộc lộ những dấu hiệu suy thoái, để rồi cuối cùng gần như diệt vong trên chính mảnh đất mà đạo Phật xuất hiện.

Đúng như triết gia và nhà Phật học người Đức Edward Conze nhận định: Câu chuyện của Phật giáo Ấn Độ không phải lúc nào cũng vinh quang, mà có khi cũng rất buồn.

1. Nguyên nhân

1. 1. Nguyên nhân chủ quan

Theo tường thuật của Pháp Hiển, Huyền Trang và Nghĩa Tịnh, những người đến Ấn Độ vào các thế kỷ V, VI, và VII thì lúc bấy giờ các Tăng sĩ Ấn Độ đã bộc lộ sự suy thoái đạo đức. Họ sống xa hoa và không biết tiết độ trong ăn uống. Họ có gia đình và đem cả vợ con vào chùa ở mà không hề biết xấu hổ. Các chùa bắt đầu làm kinh tế, và chư Tăng trở thành thương gia hay nhà công nghiệp. Họ cũng chăn nuôi và nuôi tớ trai, tớ gái. Họ sở hữu những tài sản, cả động sản lẫn bất động sản, với số lượng lớn. Nói chung thì họ chỉ thích làm công việc thế gian, trong khi đó thì hoàn toàn lơ là với lời Phật dạy, không học cũng không tu.

Thật ra sự suy thoái đạo dức của chư Tăng Ấn Độ còn nhiều khía cạnh để bàn chứ không nên nhìn một cách đơn giản. Ví dụ như thời vua Asoka, do vì vua quá ủng hộ Phật giáo nên chư Tăng được nhiều ưu đãi. Điều này đã thu hút những tầng lớp bất hảo của xã hội. Họ vào chùa để khỏi phải đi lính và lao động nhưng lại được hưởng nhiều quyền lợi. Đã thế thì hẳn nhiên họ không thể nào họ tu hành một cách chơn chánh. Điều này đã làm cho những vị chân tu bất bình và kết quả là suốt bảy năm không hề tổ chức an cư kiết hạ và bố-tát, khiến cho vua Asoka phải làm một cuộc thanh lọc và đuổi 60 ngàn Tăng sĩ giả ra khỏi Tăng đoàn. Dù sao đi nữa thì tình trạng sa đọa của chư Tăng là có thật, và điều này đã góp phần không nhỏ vào sự suy tàn của Phật giáo ở Ấn Độ.

Thiếu tổ chức là một nguyên nhân khác. Phật giáo từ xưa đến nay không có một tổ chức chặt chẽ đối với Tăng đoàn và nhất là đối với cộng đồng Phật tử tại gia. Các tín đồ Phật giáo không có một sự liên kết đồng nhất và xây dựng một tổ chức đặc thù cho hàng tại gia như tín đồ ở các tôn giáo khác. Tính không tổ chức ở đây còn thể hiện ở chỗ là Phật giáo không có một chương trình để ràng buộc tín đồ gắn bó với đạo Phật từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Ở các tôn giáo khác, khi đứa trẻ vừa sinh ra thì họ đã đem đến đền thờ hoặc nhà thở để làm lễ cho đứa bé như lễ rửa tội của đạo Thiên Chúa, coi như đứa trẻ đó đã là một tín đồ rồi. Cho nên một người theo đạo là cả nhà theo đạo, một nhà theo đạo là cả dòng họ theo đạo, và được tiếp nối từ thế hệ này đến thế hệ khác.

Còn đối với Phật giáo, theo đạo là một việc làm tự nguyện, hơn nữa còn được khuyến khích là hãy suy nghĩ và tìm hiểu kỹ càng trước khi quy y. Truyền thống này thật ra đã có từ thời Đức Phật. Chính Đức Phật không bao giờ tìm cách kêu gọi người khác quy y cho đến khi nào người ta thật sự mong muốn. Tuy nhiên, khi Đức Phật còn tại thế, người ta đến với đạo Phật thông qua nhân cách tuyệt vời của Đức Phật. Nhưng khi không còn Đức Phật nữa, nếu như chư Tăng không thể thu hút họ thì họ hoặc là con cháu họ sẽ bỏ đạo Phật mà theo đạo khác. Việc không thành lập một cộng đồng Phật giáo chuyên biệt, lúc bình thường thì có vẻ như vô hại, nhưng khi Phật giáo gặp nạn thì không thể nào chống đỡ nổi vì không có tổ chức, không có người lãnh đạo, và điều này đã đúng với Phật giáo Ấn Độ.

Khi Hồi giáo xâm lăng Ấn Độ, họ sát hại tất cả các tôn giáo bản địa khác như đạo Hindu, đạo Jain, và dĩ nhiên là đạo Phật, tuy nhiên trong khi những tôn giáo khác phục hồi lại được thì chỉ có Phật giáo là bị diệt vong tại Ấn Độ. Vì sao như vậy? Vì các tín đồ Phật giáo, như Jacobi đã chỉ ra, “như thể là người ngoài, người bạn, và người ủng hộ của Tăng đoàn mà thôi”. Còn Tăng đoàn thì họ còn cúng dường, ủng hộ. Khi Tăng đoàn tan rã thì họ cũng tan rã theo. Không có ai đứng ra kêu gọi bảo vệ Phật pháp.

1.2 Nguyên nhân khách quan

Về nguyên nhân khách quan, đầu tiên và trước hết phải kể đến sự thù hằn của đạo Bà-la-môn nói chung. Lý do là Phật giáo chủ trương bình đẳng giai cấp, vì thế đã đe dọa vị trí “cao quý” của giai cấp Bà-la-môn. Phật giáo cũng chống lại việc hiến tế động vật. Người Ấn có thói quen mời các đạo sĩ làm lễ cúng các vị thần ở làng hay gia đình họ. Do anh hưởng của Phật giáo, người ta không còn tin và không còn mời các đạo sĩ làm lễ nữa, do đó mà các đạo sĩ này bị mất đi nguồn lợi lớn, nên họ đã kết hợp với nhà cầm quyền để chống lại Phật giáo.

Đặc biệt là khi Phật giáo gần như trở thành quốc giáo dưới thời vua Asoka, nghĩa là đe dọa sự tồn tại của họ, thì dĩ nhiên các Bà-la-môn và tín đồ của họ không thể làm ngơ. Do đó họ phát động một phong trào chống lại Phật giáo với nhiều hình thức. Một mặt họ gieo rắc tâm lý thù hằn đối với chư Tăng, như cho rằng nếu ai gặp phải chư Tăng thì sẽ rất là xui xẻo. Mặt khác họ đồng hóa Phật giáo vào trong tôn giáo của họ, như tuyên truyền Đức Phật là hóa thân thứ chín của thần Vishnu, và Phật giáo là một nhánh của Bà-la-môn giáo.

Cho nên thay vì theo Phật giáo, tốt hơn là nên theo Bà- la-môn giáo vậy. Giáo sư K.T.S. Sarao của Trường Đại học New Delhi viết trong tác phẩm Sự suy tàn của Phật giáo ở Ấn Độ rằng “các Bà-la-môn đã đồng hóa tôn giáo của Đức Phật vào trong hệ thống Bà-la-môn và làm cho ranh giới giữa Phật giáo và Bà-la-môn giáo trở nên bất phân là điều có thật. Và điều này đã tác tác động đáng kể vào sự suy tàn của Phật giáo ở Ấn Độ”.

Bên cạnh các giáo sĩ và học giả Bà-la-môn giáo tấn công Phật giáo trên mặt trận tư tưởng, các ông vua Bà-lamôn đã dùng bạo lực để đàn áp tôn giáo của Đức Phật. Vua Pusyamitra, người sáng lập ra triều đại Sunga, sau khi lên ngôi đã tiến hành khôi phục lại Bà-la-môn giáo vốn mất vị trí độc tôn dưới thời vua Asoka cũng như các đời vua của triều đại Khổng tước trước. Một mặt vua cho khôi phục việc hiến tế súc vật, mặt khác ra sức tiêu diệt Phật giáo bằng cách phá hủy chùa chiền, đền tháp và tàn sát chư Tăng, làm cho Phật giáo trong thời kỳ này không chỉ mất đi sự ủng hộ của hoàng gia trước đây mà mà bị tổn thương nặng nề.

Vua Sasanka (603-620) đối với Phật giáo còn nặng tay hơn nữa. Theo ghi chép của Huyền Trang thì vua Sasanka, ngoài việc phá các chùa chiền, còn quăng phiến đá có dấu chân Phật xuống sông Hằng1 , chặt cây bồ-đề ở Bồ-đề đạo tràng, thay tượng Phật ở Bồ-đề đạo tràng bằng tượng thần Siva.

Nếu như sự thù hằn của Bà-la-môn giáo làm cho Phật giáo Ấn Độ bị suy yếu thì sự tấn công của người Hồi giáo đã bứng Phật giáo ra khỏi xứ sở này. Người Hồi giáo Ả Rập bắt đầu xâm lược Ấn Độ vào thế kỷ thứ VII. Đến thế kỷ thứ XI là người Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ. Để cho tiện việc thiết lập tín ngưỡng của họ, người Ả Rập đã ra tay mạnh mẽ đối với các tôn giáo bản xứ. Theo Amitabha Chatterjee trong Ai hủy diệt Đại học Nalanda thì có đến hàng ngàn Tăng sĩ đã bị quăng vào lửa hoặc bị chặt đầu. Những người sống sót thì tìm cách chạy trốn đến các nước lân cận như Trung Hoa, Nepal, Tây Tạng trong khi hàng triệu tín đồ bi bắt buộc cải đạo sang Hồi giáo.

Vấn đề là tại sao đạo Hindu (Bà-la-môn) cũng bị đàn áp như Phật giáo mà họ có thể phục hồi lại được, trong khi Phật giáo thì không? Theo Tiến sĩ Ambedkar thì đó là do cơ chế tu sĩ Phật giáo khác với Bà-la-môn giáo. Đối với Phật giáo, không phải ai cũng có thể làm Tăng, nhưng một Bà-la-môn đã là Bà-la-môn từ lúc mới sinh ra. Sự tồn tại của một tôn giáo về căn bản, rõ ràng phụ thuộc vào vai trò của tầng lớp tu sĩ rất lớn.

“Bằng cách giết hại chư Tăng, người Hồi coi như đã giết Phật giáo. Thanh kiếm của người Hồi giáo đã giáng mạnh xuống tầng lớp tu sĩ, làm cho họ hoặc chết hoặc trốn ra nước ngoài, không còn ai giữ gìn ngọn đèn Chánh pháp”. Ambedkar đã viết trong Thanh gươm của Hồi giáo như vậy.

Không nghi ngờ gì nữa, cuộc tấn công và tàn sát của người Ả Rập và Thổ Nhĩ Kỳ thật sự là một cơn ác mộng đối với Phật giáo, là nắm đấm quyết định vận mệnh Phật giáo làm cho tôn giáo của Đức Phật không thể nào trụ lại được trên đất Ấn Độ. Theo nhà Phật học Ahir, “… những gì mà đạo Hindu chưa làm xong (trong việc tiêu diệt Phật giáo) thì được hoàn tất bởi những người Hồi giáo cuồng tín”.

Thật ra sự thụ động của chư Tăng và Phật tử trước sự tàn sát của Hồi giáo một phần cũng do tâm lý. Ngài Huyền Trang kể lại rằng khi ngài đang ở Ấn Độ thì đã nghe nói về thuyết mạt thế rồi. Người ta tin rằng Phật giáo sẽ bị tiêu diệt 1.500 năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Đó là số phận của Phật giáo. Cho nên khi người Hồi giáo đến, người Phật tử nghĩ rằng thời kỳ Phật giáo đã kết thúc, cho nên họ đã không chống lại người Hồi. Trường hợp chư Tăng của Đại học Nalanda là một ví dụ. Nhiều sử liệu ghi lại rằng hàng ngàn Tăng sĩ của trường đã ngồi im cho mấy chục quân Hồi mặc tình chém giết. Họ không đánh trả lại là do họ thực hành hạnh bất bạo động, nhưng lý do chính là họ bị ảnh hưởng bởi thuyết mạt thế đang thịnh hành thời bấy giờ.

Trên đây là những nguyên nhân nổi bật được cho là góp phần làm suy tàn Phật giáo Ấn Độ. Ngoài ra còn có những nguyên nhân khác nữa. Ví dụ như có học giả cho rằng do vì Phật giáo dựa quá nhiều vào giai cấp lãnh đạo, nên khi triều đại này sụp đổ mà gặp triều đại kế tiếp không ủng hộ thì Phật giáo liền suy yếu ngay.

Học giả James Atkins trong quyển Những tôn giáo ở Trung Quốc thì tin rằng Phật giáo Ấn Độ suy tàn là do các Tăng sĩ lỗi lạc của Ấn Độ đi ra nước ngoài để truyền bá Phật giáo nên không còn ai giữ gìn Phật giáo trong nước. Có người thậm chí còn quy tội cho Phật giáo Mật tông, vì cho rẳng một số nghi thức của Mật tông liên quan đến tính dục đã làm yếu đi nền tảng đạo đức của Tăng sĩ. Một số học giả Bà-la-môn thì đổ thừa Phật giáo suy tàn là do đệ tử Phật không tin vào Thượng đế và thẩm quyền của Vệ-đà. Tuy nhiên lý thuyết này không vững, bởi vì Kỳ-na giáo chẳng hạn, cũng đâu có tin vào Thượng đế và Vệ-đà, nhưng các tôn giáo ấy vẫn tồn tại ở Ấn Độ cho đến ngày nay.

Mặc dù có rất nhiều yếu tố được đưa ra để lý giải cho sự suy tàn của Phật giáo ở Ấn Độ nhưng thật ra thì cũng chưa ai xác định được đâu là nguyên nhân thật sự làm cho Phật giáo bị suy tàn. Bởi vì những sự kiện mà ta đưa ra ở đây, chúng cũng xảy ra đối với các tôn giáo khác cũng như với Phật giáo ở những nước khác. Ví dụ như cho rằng Phật giáo suy tàn là do sự suy đồi đạo đức của chư Tăng nên tín đồ đã quay lưng lại với họ thì cũng không đúng lắm. Trong lịch sử tôn giáo, chưa thấy có tôn giáo nào bị diệt vong chỉ vì lý do đạo đức. Hơn nữa chúng ta nên nhớ rằng, bên cạnh những người “phá giới phạm trai” còn có những vị khác mà đời sống của họ rất là gương mẩu và phạm hạnh. Họ chính là rường cột Phật pháp, chống đỡ ngôi nhà Phật pháp trong lúc suy vi.

Hay khi Phật giáo từ Ấn Độ mới truyền vào Trung Quốc, tôn giáo này cũng vấp phải sự chống đối từ các tôn giáo bản địa của người Trung Quốc như Đạo giáo, Lão giáo, rồi các pháp nạn Tam Võ Nhứt Tôn… Nhưng Phật giáo Trung Quốc vẫn không rơi vào tình cảnh tiêu vong như ở Ấn Độ. Có lẽ nói như Kane, không phải một hay một vài nguyên nhân làm cho Phật giáo ở Ấn Độ suy vong mà là sự kết hợp của tất cả các nguyên nhân, chủ quan và khách quan, tương tác lẫn nhau trong một thời gian dài mới làm cho Phật giáo Ấn Độ thành ra như thế. Nếu không, chúng ta cũng đành tin vào hai chữ Định mệnh huyền bí. Định mệnh của Phật giáo Ấn Độ là như thế.

2. Tình trạng

Ấn Độ là một quốc gia rộng lớn, đa sắc tộc, đa tôn giáo và thường xuyên bị chia cắt thành nhiều tiểu quốc. Tùy thuộc vào hoàn cảnh chính trị, xã hội của triều đại hay khu vực mà tình trạng của Phật giáo cũng thịnh suy khác nhau. Vì vậy mà chúng ta không thể xác định chính xác thời gian nào Phật giáo bắt đầu suy tàn. Nhiều khi ở khu vực này Phật giáo đã có dấu hiệu của sự suy tàn nhưng ở khu vực khác Phật giáo lại cực thịnh. Ngay cả trong phạm vi một tiểu quốc tình trạng cũng rất khác nhau.

Ví dụ như vua Asoka là một Phật tử và ông cũng là người rất tích cực truyền bá Phật giáo, nhưng vợ ông lại rất ganh tỵ với Phật giáo, đã nhiều lần chặt cây bồ-đề ở Bồ-đề đạo tràng. Ngược lại, các vua triều đại Gupta (320- 550) là những tín đồ của đạo Bà-la-môn nhưng dưới thời đại này một số học giả Phật giáo như ngài Thế Thân chẳng hạn, lại rất được ủng hộ. Trường Đại học Nalanda đã phát triển rực rỡ trong thời kỳ đầu thành lập chính cũng nhờ vào sự ủng hộ nhiệt tâm của các đại đế triều đại Gupta. Hay như giai đoạn từ năm 700 đến 1150, trong khi người ta nghe rất ít về Phật giáo ở Punjab, Haryana, Bihar, Bengal and Orissa và một phần của Rajasthan, thì ở Kasmir, Bengal và Bihar Phật giáo lại rất phồn thịnh dưới sự cai trị của các vị vua của triều đại Pala, là những tín đồ của Phật giáo Đại thừa và Mật tông.

Một trong những biểu hiện của sự suy tàn là tình trạng thoái hóa về tu dưỡng đạo đức và học tập Phật pháp của người tu. Điêu này ta đã nói ở phần nguyên nhân suy tàn. Ngoài ra là sự bỏ hoang của các tự viện, sự giảm thiểu số lượng người tu và tín đồ. Ví dụ như khi Pháp Hiển đến Ấn Độ năm 399-414, thì Phật giáo ở Madhyadesa và Kusinaga (nơi Phật nhập Niết-bàn) còn tương đối khá, nhưng khi Huyền Trang đến (629-645) thì Phật giáo gần như không còn sức sống, chỉ có một số it tu viện là còn nguyên, còn phần lớn thì đều đổ nát và rơi vào hoang phế.

Ở nhiều nơi, Phật giáo bị thay thế bởi Bà-la-môn giáo, và tượng Phật bị thay thế bằng tượng thần của tôn giáo họ. Huyền Trang chứng kiến ở xung quanh Bồ-đề đạo tràng chỉ có 6 chùa Phật, nhưng có đến 10 đền thờ thần. Ở Janapada chỉ có 2 chùa Phật với vài thầy nhưng có đến hàng trăm đền thờ thần với một số lượng lớn đạo sĩ Bà-la-môn. Ở Varanasi có khoảng 30 chùa với 3.000 Tăng, trong khi đó đền thờ Bà-lamôn thì có hơn 100 với hơn 10 ngàn tín đồ của họ. Ở Asam, người ta không còn tin Phật giáo mà chỉ thấy có sự hiện diện của Bà-la-môn giáo. Điều đáng nói nữa là chư Tăng có trình độ rất thấp, nhưng ngoại đạo đều là những người có trình độ học vấn cao.

Như trên đã có nói, thật khó xác định thời gian nào Phật giáo bắt đầu suy tàn. Nhưng rõ ràng là từ sau thế kỷ XII Phật giáo gần như hoàn toàn suy vong ở Ấn Độ, ngoại trừ một vài vùng ven dãy núi Hy-mã-lạp. Người ta kể rằng, khi vua Akbar (1556-1605) của triều đại Mogul, triều đại Hồi giáo Mông Cổ, muốn tìm hiểu về tất cả các tôn giáo trong thời đại ông, người ta đã giới thiệu cho nhà vua biết về đạo Hindu, đạo Hồi, đạo Kỳ- na, đạo Thiên Chúa, đạo thờ lửa, nhưng không có ai giới thiệu ông về Phật giáo cả.

Thế nhưng, cũng có tài liệu ghi rằng sau khi Hồi giáo chinh phục Ấn Độ thì tình hình Phật giáo tuy có suy thoái mà không đến nỗi diệt vong. Nhà sử học Tây Tạng Taranatha thuật lại rằng nhiều học giả Phật giáo đã chạy nạn từ Bắc Ấn xuống phía Nam sau khi miền Bắc bị người Hồi xâm chiếm. Trong tác phẩm Tính chất của năng lục sống trong sự bất tử (viết năm 1582), tác giả Krsnadasa Kaviraja kể lại rằng triết gia Hindu Sri Caitanya trong chuyến đi của ông xuống miền Nam Ấn vào năm 1510 đã tranh luận với nhiều tu sĩ Phật giáo và ông đã bị thua.

Trong khi đó theo nghiên cứu của giáo sư Sarao của Trường Đại học New Delhi thì khi Abul Fazal (1551-1602 - Sử quan của vua Akbar) đến thăm Kế Tân (Kasmire) thì gặp vài người lớn tuổi và tự xưng là Phật tử. Qua những chuyện trên ta thấy rằng Phật giáo chưa bao giờ bị đứt đoạn ở Ấn Độ mà vẫn tồn tại dù chỉ là leo lét. Cho nên giáo sư Sarao đề nghị, rằng thật là không đúng khi chúng ta dùng những thành ngữ như ‘biến mất’ hay “diệt vong” để chỉ tình trạng Phật giáo Ấn Độ. Còn Tiến sĩ Ambedkar thì cho rằng tuy về hình thức Phật giáo đã không còn ở Ấn Độ nhưng về mặt tinh thần thì vẫn luôn luôn tồn tại vậy.

Khi nói về tình trạng Phật giáo Ấn Độ, nhà Phật học người Ấn, giáo sư Ahir, trong Di sản của Phật giáo, đã dùng lời lời hết sức cảm khái. Xin nêu ra đây trước khi đóng lại phần này. Ông viết: “Phật giáo sau lần cuối cùng bị khủng bố bởi quân Hồi giáo đã hạ màn trên sân khấu Ấn Độ để rồi sau đó chìm vào im lặng, sự im lặng của lãng quên. Các thánh tích bị đổ nát và che phủ trong những cánh rừng âm u. Các tự viện và đền tháp bị chuyển đổi sang các tôn giáo khác. Và Đức Phật thì hầu như bị quên lãng trong ký ức mọi người từ khi Ngài bị đồng hóa vào trong hệ thống khổng lồ của các vị thần Bà-la-môn giáo”.

Thích Trung Hữu

Chú thích: 1. Chuyện kể rằng khi nhà vua dùng đục đục dấu chân Đức Phật ra khỏi phiến đá thì ngay sau đó trên phiến đá lại nổi lên hình dấu chân như trước. Vua giận quá quăng luôn xuống sông Hằng. Nhưng lạ thay, nó lại quay trở về chỗ cũ.

Bài đọc thêm:
Vài Suy Nghĩ Về Nguyên Nhân Thịnh Suy Của Phật Giáo
Số Phận Lạ Lùng Của Phật Giáo (Hoang Phong dịch)

https://thuvienhoasen.org/a28161/nguyen-nhan-va-su-suy-thoai-cua-phat-giao-an-do


Âm lịch

Ảnh đẹp