Đô thị trẻ Pleiku đã
tròn 80 tuổi, cư dân Pleiku ai cũng biết điều đó. Song, bất chợt, nhiều
người cũng sẽ miên man nghĩ, rồi thắc mắc tới lui về những ngày khởi đầu
của đô thị này cũng như về sự có mặt của những lưu dân đầu tiên. Họ là
ai? Họ từ đâu đến? Chúng tôi cũng nằm trong số đó và chuyến đi lập tức
được lên kế hoạch.
|
Cụ Nguyễn Lãnh. Ảnh: Phương Duyên |
Ông Phạm Ngọc Kỷ- Trưởng thôn 8, xã An Phú đưa chúng tôi đến thăm nhà
một cụ già còn rất minh mẫn và nhớ rất nhiều chuyện xưa của làng, đó là
cụ Nguyễn Lãnh, năm nay đã 85 tuổi. Chẳng còn nhiều lắm vết tích của
làng khi chúng tôi đặt chân đến làng Phú Thọ xưa.
Phú Thọ giờ chỉ còn là
một cái tên gọi đã thành quen trong trí nhớ, chứ nay làng đã được “biên
chế” thành 7 thôn. Con đường vào làng được trải nhựa thẳng thớm, những
ngôi nhà xây khang trang mọc lên tươi mới xen giữa những luống rau mơn
mởn. Không thấy dấu tích đình làng, chỉ còn lác đác vài ngôi nhà “quê
kiểng” có tuổi đời trên dưới 50 năm tuổi chứng thực cho gốc tích của
những người lập làng: Người “xứ nẫu” Bình Định.
Ngôi nhà xây từ năm
1967 của cụ Lãnh là một trong những ngôi nhà như thế: Nhà ba gian, mái
lợp ngói, gian giữa dùng để thờ phụng; trước nhà có mấy luống rau nhỏ,
bên hông nhà mộc mạc một ụ rơm to, chuồng bò cũng nằm gần đó. Chỉ cách
TP. Pleiku có 10 cây số mà tưởng chừng ta đã đến trúng phóc miền đồng
bằng Trung bộ. Cụ Lãnh thư thái ngồi chơi dưới giàn lạc tiên trước hiên
nhà khi chúng tôi đến thăm.
“Ông còn khỏe lắm đó,
còn cuốc đất làm vườn được mà!”-người nhà của cụ khoe. Phải nói thêm
rằng, cụ Lãnh là một trong số những người nhiều tuổi nhất thôn, nhưng cụ
cũng chỉ là thế hệ sau của làng, nhưng chuyện từ ngày lập làng mà cụ kể
là chuyện cụ được nghe người trước kể lại.
Chậm rãi, rành mạch, cụ
cho biết, cụ sinh ra ở thôn Đại Lợi, xã Cát Nhơn, huyện Phù Cát, tỉnh
Bình Định. Năm 1927, cha cụ đưa cả gia đình rời quê lên Bàu Cạn làm phu
cho đồn điền chè của Pháp. Năm 1945, cụ tham gia cách mạng, nhưng chỉ
được 1 năm thì bị thương ở chân. Tháng 6-1946, thực dân Pháp tái chiếm
Gia Lai, rất nhiều người lúc đó tản cư về đồng bằng theo đường quốc lộ
19. Những người không chạy kịp thì được người Pháp gom về sống tại làng
An Mỹ và Phú Thọ.
Cụ Lãnh nằm trong số
này và đó chính là cơ duyên mới của cụ với làng Phú Thọ. “Theo như ông
bà kể lại, trước đây có một cha đạo, thường gọi là cha Cẩn đã biết đến
vùng đất bằng phẳng này và tới đo đạc, khai hoang. Sau đó, ông này nói
với ông Nguyễn Miên về quê ở Bình Định kêu anh em ai muốn đi thì lên đây
lập làng”- cụ Lãnh nhớ lại. Chính vì vậy, ông Nguyễn Miên, còn gọi là
ông Câu Miên, được xem là vị tiền hiền khi mộ dân và lập ra ngôi làng
này với khoảng 30 gia đình.
|
Ảnh: Phương Duyên |
Có thể thấy, ở vị thế tiếp giáp với Gia Lai, đa số cư dân những làng
người Việt đầu tiên có mặt ở Gia Lai đều là dân Bình Định, chủ yếu theo
chân các nhà truyền giáo. Họ đã đặt ở đây một dấu ấn Bình Định hết sức
rõ nét; thậm chí trong giọng nói người Pleiku, vốn là dân tứ xứ, cũng
mang nặng âm hưởng “xứ nẫu”. “Nghe nói để lên đây họ phải xé rừng xé núi
mà đi, mà hồi đó đất này toàn là cỏ may, sau mới được khai hoang”-cụ
Lãnh kể tiếp.
Sau ông Cẩn, một cha
đạo người Pháp, thường gọi là cố Cận, đã cho khai hoang hàng trăm mẫu
ruộng tại đây, mở rộng phạm vi làng, dân cư dần đông đúc lên. Thông tin
trong cuốn “Địa danh và Di tích Gia Lai- Từ góc nhìn văn hóa và lịch sử”
của TS. Nguyễn Thị Kim Vân cũng nêu chi tiết này: “Năm 1933, Giáo hội
Kon Tum do Linh mục thừa sai Nicolas (thường gọi cố Cận) đứng ra xin
201,24 ha làm đất ở, giáo đường và ruộng canh tác”.
Những gian khó của ngày
đầu lập làng cũng được cụ Lãnh kể lại tỉ mỉ theo lời những người đi
trước: Đói khổ, bệnh tật, “chỉ có một bộ đồ để mặc đi mặc lại nên rận nó
đeo đàn đàn”… Do đó, thời kỳ này, rất nhiều lưu dân từ đồng bằng lên
khai phá Tây Nguyên đã phải bỏ mình nơi xứ lạ. Đến năm 1945, làng Phú
Thọ trở nên đông đúc hơn khi cùng với làng Trà Nhá (do ông Lê Hiếu
Thuật, quê An Nhơn, Bình Định mộ dân cùng quê lên lập làng từ khoảng
những năm 20 của thế kỷ XX) sáp nhập lại thành một làng. Từ ngày
3-10-1958, chính quyền Sài Gòn đổi 2 làng An Mỹ và Phú Thọ thành 2 xã
cùng tên; sau giải phóng, 2 xã này được sáp nhập thành xã An Phú ngày
nay.
Hơn trăm năm đã trôi
qua kể từ khi những người Việt đầu tiên nghi ngại đặt chân đến chốn
“rừng thiêng nước độc”. Đó cũng là cả một câu chuyện dài, rất dài của
nhiều thế hệ… Nhớ lại chuyện xưa, nhìn ngắm cảnh nay, cụ Lãnh không khỏi
bồi hồi: “Nhà cửa hồi trước toàn lợp tranh, vách đất, nay được xây cất
đàng hoàng, đàng sá cũng rộng rãi, văn minh chứ không bụi bờ như lúc
trước”.
Từ chỗ chỉ trồng lúa,
An Phú nay còn trở thành một trong những vựa rau, vựa hoa lớn nhất tỉnh.
Làng xưa giờ đã 8 phần mang dáng dấp phố, đời sống ngày một khá hơn.
Một vùng trù phú, no đủ hiện diện ngay cửa ngõ thành phố đã tưới tắm
thêm cho vẻ đẹp của Pleiku trong những bước chuyển mình. Chỉ tiếc, nấm
mồ vị tiền hiền năm xưa, theo như cụ Lãnh, vẫn nằm trong nghĩa địa của
làng nhưng chẳng còn mấy ai nhớ tên hay cúng bái.
“Nghe nói ông Nguyễn
Miên có một người con nhưng đã chuyển đi ở nơi khác, không biết con cháu
có còn nhớ tới mà cúng giỗ?”- cụ Lãnh ngậm ngùi.