Nói
về pháp dạy người, thật sự đối với cá Thiền sư, xưa
nay các ngài không có bất cứ một pháp nào, khả dĩ làm tiêu
chuẩn để trao cho mọi người cả. Bỡi vì pháp dạy người
đó, luôn luôn tùy thuộc vào căn bệnh của người đối thoại
mà các ngài cho thuốc. Như Tăng Chí thành hỏi Lục tổ Huệ
năng về pháp dạy người, Tổ dạy:
"Nếu
bảo rằng ta có pháp để trao cho người, thì ta nói dối với
nhà ngươi. Ở đây, chỉ tùy thuộc vào chỗ bị trói mà cởi
mở, tạm gọi là Tam muội."
Như vậy,
rõ ràng ở đây các ngài chỉ làm một công việc là cho thuốc
hay mở trói mà thôi. Đây là phương pháp đối trị bệnh
chấp ngã, chấp pháp do vọng tâm điên đảo, phân biệt
sinh ra, và tùy theo căn nghiệp của mỗi chúng sanh mà các ngài
cho pháp mở trói.
Ngoài
phương pháp này ra, các Thiền sư cũng thường sử dụng phương
pháp chỉ thẳng. Đây là cốt tủy của Thiền tông trong:
"Trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật." Cả hai
phương pháp này đều nhằm vào đầu Đệ nhị mà sử dụng,
vì trong cuộc sống của chúng ta, từ lời nói, cử chỉ, hành
động, mọi thi vi động tác đều phát xuất từ tự tâm của
mọi người. Do đó trong cuộc sống của chúng ta, các ngài
y cứ vào sự thể hiện bên ngoài mà mở trói, mà chỉ thẳng.
Cũng trong chiều hướng này, Thiền sư Pháp Loa tuy biết rằng
đối với Đệ nhất nghĩa đế suy nghĩ là sai, mở miệng
là lầm; nhưng ngài vẫn đặt ra và tìm hướng giải quyết
theo chỗ thấy của ngài. Thật sự việc này đối với những
gười chưa ngộ đạo như chúng ta, thì khi khởi tâm suy nghĩ
để mở miệng, hay bất cứ thi vi động tác nào đi chăng
nữa, thì việc làm đó đều sai lầm. Đối với cảnh giới
thực chứng của người đạt đạo; vì cảnh giới này không
lệ thuộc vào suy nghĩ, ngôn thuyết của thế giới phân biệt
chấp trước, thuộc vào hệ thống nhân qủa đối đãi nhị
nguyên của chúng ta. Thế giới thực chứng này, không tùy
thuộc vào hệ thống nhân qủa, mà chúng chỉ được nhận
biết nếu được, qua hệ thống duyên khởi mà thôi, vì tất
cả mọi thi vi động tác ở đây đều biểu thị chi trí vô
phân biệt. Do đó đối với thế giới thực chứng của người
ngộ đạo, chúng ta không thể dùng luật tắc nhân qủa mà
đánh giá được. Gần đây chúng tôi nhận thấy có một số
người có tham vọng muốn dùng ngôn ngữ phân biệt tri thức,
để khám phá thế giới thực chứng của Thánh trí, đây là
một việc làm sai lầm tai hại. Sai lầm vì những kiến giải
của chúng ta, những người chưa đạt đạo khác nào kiến
giải của bọn mù!? Ở đây, người chưa đạt đạo khi diễn
tả thế giới thực chứng của các bậc Thánh trí, cũng giống
như người mù từ lòng mẹ khi diễn tả thế giới quanh họ
mà thôi, vì họ chỉ nghe nói mà tưởng tượng theo cái tư
duy trừu tượng để rồi thủ đắc chứ không phải chính
mắt họ nhìn thấy.
Thế
giới thực chứng của Thánh trí là thế giới vô phân biệt,
chỉ có người chứng ngộ mới diễn tả được. Cũng bằng
vào ngôn ngữ, cử chỉ, hành động như chúng ta, nhưng ở
đây ngôn ngữ, và động tác của các ngài không bị lệ thuộc
vào giá trị nhân qủa, chúng vượt thoát không bị trói buộc
vào bất cứ điều kiện nào của giá trị đối đãi nhân
quả nhị nguyên. Do đó, mọi đánh giá của chúng ta đều
sai lầm, chỉ có những vị đạt đạo mới có thẩm quyền
nói về thế giới mà các ngài đã thân chứng. Từ những
đòi hỏi mà khả dĩ nhờ đó các ngài có thể dùng ngôn ngữ
của Thế đế để nói về thế giới thân chứng của Thánh
trí mà không mắc phải những sai lầm như chúng ta. Ngược
lại mọi sinh hoạt trong cuộc sống bị chi phối bỡi luật
tắc nhân quả đối đãi của chúng ta, theo các ngài chúng
đều bị trói buộc ngăn cách, chướng ngại. Cho dù, ngay những
quan niệm thuộc về Chân-thiện, hay bất cứ bất cứ quan
niệm gì gì đi nữa chúng vẫn mang tính sai lầm. Vì vậy,
tất cả mọi hành động, cử chỉ, lời nói gì gì của chúng
ta đều bị các ngài khám phá ra tất cả, các ngài biết chúng
ta đang bị kẹt ở chỗ nào, và không bị kẹt ở chỗ nào
trong cuộc sống, theo đó các ngài mở trói hay cho thuốc đối
trị.
Như
chúng ta biết, tất cả mọi biểu tượng trong cuộc sống,
qua cử chỉ, hành động của chúng ta, đều phát xuất từ
tự tâm, như chính đức Phật đã dạy trong kinh Hoa Nghiêm:
"Nhất thiết duy tâm tạo," thì trong cuộc sống chúng
ta, chúng được thể hiện qua hai biểu thị Vọng và Chân.
Như thường thường thì chúng ta chỉ nhận biết cái vọng
qua pháp phủ định của các ngài, để từ đó chúng ta nhận
thấy cái sai lầm, chứ chưa hề nhận thấy cái chân được
thể hiện hằng ngày, và ở đây pháp chỉ thẳng nhằm vào
chúng.
Ngoài
phương pháp phủ định các Vọng ra, các Thiền sư cũng thường
sử dụng pháp chỉ thẳng, và cũng theo đó Thiền sư Pháp
Loa dạy:
"Đại
đạo rỗng suốt nào có buộc, nào có ràng, bản tánh lặng
trong không thiện không ác. Bỡi do lựa chọn cho nên sinh ra
tắt ngang lắm nẻo; chỉ cần quáng mắt, cũng thành cách xa
trời đất. Thánh phàm vốn cùng chung một lối, phải quấy
nào phải hai đường. Cho nên biết rằng tội phước vốn
không; cứu cánh nhân qủa chẳng thật. Mọi người đầy đủ,
kẻ kẻ trọn thành. Phật tánh với thân như hình với bóng,
tùy ẩn tùy hiện, chẳng tức chẳng ly. Lỗ mũi thẳng xuống,
chân mày nằm ngang mặt ở phía trên mắt, nhưng không dễ
gì nhìn thấy. Cần phải truy tầm, chẳng thấy nói sao: "Ba
ngàn pháp môn cùng về vuông tấc, hà sa diệu dụng thảy tại
nguồn tâm."Nên bảo ba cửa Giới-định-tuệ các ông không
thiếu, cần phải quán nơi chính mình. Phàm những tiếng ho,
tiếng tằng hắng, nhướng mày chớp mắt, tay cầm chân đi,
đó là tánh gì? Khi biết được tánh này rồi thì đó là
tâm gì? Tâm tánh đều rỗng sáng. Vậy cái nào phải, cái
nào chẳng phải?"
Qua những
lời dạy này, Thiền sư Pháp Loa đã nói lên được hai mặt
một thực tại, mà trong cuộc sống chúng ta luôn luôn thể
hiện, qua cử chỉ, hành động cùng lời nói, chỗ nào bị
vướng và chỗ nào không bị vướng. Ở đây, rõ ràng Thiền
sư Pháp Loa dùng lý Duyên khởi làm phương pháp phủ định
luật nhân qủa nhị nguyên như: Đúng-sai, thiện-ác, phàm-thánh,
tội-phúc v.v… do vọng tâm phân biệt đẻ ra, và chúng ta
chấp nhận nó như là một cứu cánh cho tư duy hành động,
mà chúng ta không biết rằng, những việc làm này là sai lầm;
nên luôn luôn bị chúng lôi kéo chạy theo, để rồi một ngày
nào đó tự mình bỏ quên chính mình, chính trong cuộc sống
qua tiếng ho, tiếng tằng hắng, hay trong những động tác nhướng
mày, chớp mắt, tay cầm, chân đi, đó là tánh gì? Khi đã
biết được tánh này rồi, thì đó là tâm gì? Tâm tánh đều
rỗng sáng. Vậy cái nào phải, cái nào chẳng phải? Đây chính
là phần ngài Pháp Loa chỉ thẳng cho chúng ta. Vậy thì chúng
ta đã nhận ra cái Bản lai diện mục của ta chưa?
Vì
sao ở đây ngài Pháp Loa, chỉ những động tác hằng ngày
mà chúng ta coi thường không bao giờ để ý đến nó, bảo
chúng ta phải tư duy nó? Phải nhìn thấy nó, phải biết nó
là gì? Ở đây, nếu chúng ta nhận ra những động tác như:
tiếng ho, tiếng tằng hắng, nhướng mày chớp mắt, tay cầm
chân đi v.v… cho là Chân tâm, là Bản lai diện mục, thì cái
thấy này sẽ làm mù mắt chúng ta, vì tiếng ho, tiếng tằng
hắng, nhướng mày, chớp mắt, tay nắm chân đi, không phải
là chân tâm, không phải là diện mục. Cái được gọi là
chân tâm, là bản lai diện mục nó chỉ thể hiện bên trong,
hay ở đàng sau tiếng ho tằng hắng, nhướng mày chớp mắt,
tay nắm chân đi v.v… vậy thì cái thể hiện qua các động
tác đó, vì sao gọi là Chân tâm, là Bản lai diện mục? Chúng
ta hãy tự tìm hiểu, tự tư duy nơi sự thể hiện của chúng.
Ngược lại, nếu chúng ta bảo nó không phải là chân tâm,
không phải là bản lai diện mục, thì cũng không được. Vì
sao? Vì tất cả những thi vi động tác nơi chúng ta thể hiện
ra bên ngoài không ngoài tự tâm. Đây là hai vấn đề mà ngài
Pháp Loa muốn đánh thức cái tâm chân thật nơi chúng ta, và
phải nhìn như thật chính nó. Nghĩa là cái được thể hiện
trong những động tác đó không khác với cái thấy nơi chúng
ta. Chúng không phải hai cũng không phải khác, vì chúng luôn
luôn tự thể hiện bình đẳng vô phân biệt không có sự
ngăn cách, chướng ngại nào. Đó chính là pháp chỉ thẳng
của ngài Pháp Loa trong pháp dạy người của ngài đối với
chúng ta. Và đây chúng ta tiếp tục nghe Thiền sư Pháp Loa
dạy:
"Một
hôm sư nghe đồ chúng tụng kinh, bè hỏi chúng đang làm gì?"
Có
vị Tăng thưa:
"Chùng
niệm Phật tâm."
Sư
bảo:
"Nếu
nói là tâm thì tâm không Phật, nếu bảo là Phật thì Phật
không tâm. Vậy cái nào gọi là tâm?"
Vị Tăng
không đáp được; sư lại hỏi một vị Tăng khác nữa:
"Chúng
đang làm gì?"
Tăng
thưa:
"Niệm
Phật."
Sư
bảo:
"Phật
vốn không tâm thì niệm cái gì?"
Tăng
thưa:
"Chẳng
biết."
Sư
bảo:
"Ngươi
đã chẳng biết, vậy Ai nói đó?"
Tăng
không đáp được,"
Qua
công án này Thiền sư Pháp Loa đã dùng phương pháp Duyên khởi
phủ định, để bít hết mọi con đưòng nhân quả có thể
có, theo lối kiến giải tri thức nhị nguyên phân biệt của
người đối thoại mà đả thông cho họ; nhưng căn cơ của
họ chưa lãnh hội được lý duyên khởi, nên chỉ có cách
là chỉ thẳng. Đây là cú đòn tối hậu đề lay chuyển,
đánh thức cơ mê, và chỉ cho gút trói mà tự mở vào. Nhưng
than ôi! Thế là công dã tràng, người đối thoại vẫn còn
ngủ mê.
"Một
hôm Huyền quang đứng hầu lúc sư bị bệnh, trong lúc sư đang
ngủ Huyền quang nghe sư hỏi: Hồng, hồng… Huyền quang liền
thưa:
"Tôn
giả mớ chăng?"
Sư
đáp:
"Ngủ
thì nói mớ còn không ngủ thì chẳng nói mớ!"
Huyền
quang thưa:
"Không
thể ngủ với thức là một được?"
Sư
bảo:
"Ngủ
với thức là một."
Huyền
quang thưa:
"Không
thể bệnh cùng chẳng bệnh là một được."
Sư
bảo:
"Bệnh
có can hệ gì đến Y, không bệnh cũng chẳng can hệ gì đến
Y."
Cũng
như trong công án trên thiền sư Pháp-Loa trong pháp dạy người,
cùng lúc đã xử-dụng hai cách để đánh thức đệ-tử mình,
nhưng người đệ-tử chưa đủ lanh mắt đe tiếp nhận những
lời dạy, nên giở trò đôi co với ông tavà cuối cùng cũng
phải dùng cách chỉ thẳng. Thế mà người đệ-tử đầu
tay của ngài vẫn không chuyển não.
Ở
đây, chúng ta đã thấy được chổ chỉ thẳng của thiền
sư Pháp-Loa qua từ "Y"trong câu: "Bệnh cũng chẳng quan hệ gì
đến Y." Từ Y ở đây không phải là một từ tầm thường,
vì nói vượt ra mọi liên hệ nếu có trong cuộc sống, và
đến khi nào muốn giải thoát thì phải tham thấu lọt qua
khởi nó mới được, còn nếu không thì luôn luôn trói-buộc
trong khổ đau, sanh-tử và dưới đây chúng tôi xin trích dẫn
một công án cũng thuộc loại chỉ thẳng của thiền sư Pháp-Loa
nhân khi bệnh nặng trở lại.
"Huyền
Quang thưa:
Xưa
nay đến chổ đó, không hay giữ cái nào tốt?
Sư
bảo:
Tất
cả đều không can-hệ.
Huyền
Trang thưa:
Khi
tất cả đều không can-hệ thì thế nào?
Sư
bảo:
Tùy
chổ mà an sống."
Vị đệ-tử
thấy tình trạng bệnh của thầy khó vượt qua, nên ướm
thử lời bán rao sanh-tử ra vào nhân quả để xem thầy mình
như thế nào? Ở đây cả hai điều ông muốn có đáp án chính
xác nơi thầy, nhưng ông chả nhận được gì qua lời đáp
của thầy cả. Tất cả đều không can-hệ, đây là một trạng
thái hoàn toàn tự-tại, giải thoát không bị lệ thuộc vào
luận-tắc nhân quả của buông hay giữ. Vậy trạng thái này
chỉ cho cái chi? Nếu ở đây người đệ-tử thấy được
nó thì có lẻ không bao giờ ông ta buông ra câu hỏi tiếp
để rồi nhận lãnh một đáp-án không như mình mong muốn.
Tóm
lại để thay lời kết-luận chúng tôi muốn liên hệ hai câu
chuyện thiền, mà nó đã trở thành một công-án đối với
bất cứ người học thiền nào cũng đều biết cả:
"Từ
pháp hội Linh-Sơn đức Thế-tôn cầm cành hoa giơ lên. Bấy
giờ mọi người làm thinh, chỉ có ngài Ca-Diếp mặt rạng
mỉm cười, Phật dạy:
Ta
có chánh-pháp nhãn-tạng, diệu tâm niết bàn, thực-tướng
vô minh, pháp môn vi diệu. Nay trao lại cho Ma-Ha Ca-Diếp."
Qua cành
hoa đức Thế-tôn cầm giơ lên, ngài Ca-Diếp đã lãnh-hội
gì nơi đó? Có người giải thích công án này là đức Phật
nhằm truyền tâm cho ngài Ca-Diếp qua Tánh Thấy theo kinh Lăng-Nghiêm.
Ở
đây chúng tôi không đặt vấn-đề đúng hay sai, vì đúng
hay sai đều lệ thuộc vào luật-tắc nhân quả, nhưng chúng
tôi muốn nêu vấn-đề Tánh Thấy này nó như thế nào? Chúng
ta đã thấy nó chưa? Hay nó chỉ là một danh động từ không
hơn không kém, có nghĩa là nó được hiểu nhờ vào dùng từ
định nghĩa-từ.
Tánh
thấy này nó ở nơi cành hoa đức Phật giơ lên, hay nó ở
nơi ngài Ca-Diếp? Nếu nói nó ở nơi cành hoa đức Phật giơ
lên nhằm trao cho ngài Ca-Diếp, thì cành hoa này trở thành
tướng (bị) thấy của ngài Ca-Diếp chứ không phải tánh
thấy của ông. Nếu bảo rằng ngài Ca-Diếp nhân cành hoa đức
Phật giơ lên mà thấy được Tánh Thấy của mình. Vậy thì
Tướng thấy kia nó phải như thế nào mới đủ khả năng
tác động Tánh Thấy của ngài chứ? Chúng ta nên biết Thiền-Tông
tối-kỵ việc đem ngôn ngữ, thuật ngữ của kinh giáo mà
gán cho thiền, vì theo Thiền-Tông những thuật-ngữ đó là
những thuật ngữ chết khônh chyuên chở được gì ngoài luật-tắc
nhân-quả. Theo chúng tôi cái mấu chốt ở đây được đức
Phật thể hiện qua cành hoa, từ đó mới tác động lên cái
nhìn của ngài Ca-Diếp. Cái nhìn này là một cái nhìn xuyên
suốt vở tung cành hoa chứ không phải cái nhìn chạm tới
bên ngoài của cành. Vậy thì cái gì chứa đựng bên trong
cành hoa đó? Đây là một dịp để chúng ta suy nghiệm.
"Ngài
A-Nan hỏi ngài Ca-Diếp:
Ngoài
bộ y vàng Thế-tôn còn truyền chi cho ngài nữa:
Ca-Diếp
gọi:
A-Nan
!
A-Nan:
Dạ
!
Ca-Diếp
nói:
Hãy
lật ngược cây sát can ngoài cửa!"
Cũng
như công án trên, ở đây có người dùng tiếng "dạ"của
ngài A-Nan để làm Tánh nghe (theo kinh Lăng Nghiêm). Thật sự
tiếng dạ này chúng ta tham thấu lọt qua khỏi nó thì tánh
nghe,tánh thấy gì gì đi nữa cũng trở thành một trò hí-luận,
vì chúng thể hiện cho tâm vô phân biệt qua nó, chứ không
phải tay cầm hoa hay tiếng dạ là cứu cánh. Đó cũng là những
gì Thiền-sư Phát-Loa muốn nhắn gởi những người hậu thế
chúng ta qua phương pháp chỉ thẳng qua ngài.