Tu Còn Luân Hồi
Trong phần Phật Pháp ở trước, Chơn lý phổ biến có Nhơn quả và
Duyên sanh, động cơ chủ yếu của hai lý này là Nghiệp. Cho nên nói
"nghiệp quả" và "nghiệp duyên". Do nghiệp lành dữ
làm nhơn đưa đến kết quả tốt xấu là quả. Bởi nghiệp lôi cuốn
thúc đẩy theo duyên kết hợp sinh trưởng, nghiệp mãn duyên rã rời thì
hợp thể tan hoại. Thế nên, nghiệp là chủ động trong vòng luân
hồi. Nghiệp hệ trọng dường ấy, chúng ta cần biết nó là gì?
Nghiệp là hạnh động tạo tác của chúng sinh, xuất phát từ thân
miệng ý, nói gọn là tác động. Tác động do chúng sinh tạo ra, rồi
chi phối lại chúng sinh. Ví như chàng họa sĩ tưởng tượng vẽ hình một
mỹ nữ, vẽ xong ngắm xem những nét kiều diễm của mỹ nữ, chàng ta lại sinh
yêu bức họa do chính tay mình vẽ. Cũng thế, chúng sinh do thân
miệng ý tạo nghiệp, nghiệp lại lôi cuốn chúng sinh đi thọ
quả báo, thọ báo lại tạo nghiệp, mãi mãi không cùng. Sự quanh quẩn
xuống lên do động cơ nghiệp thúc đẩy, gọi là luân hồi.
Nói đến nghiệp là xác định quyền làm chủ của chính mình,
mình tạo rồi mình chịu, không do sức thiêng liêng nào tạo nên, cũng không do
sự bắt buộc của tha nhân. Chỉ có tác động của chúng ta, lâu thành thói quen
có sức mạnh chi phối lại chúng ta. Ví như bệnh hút thuốc, ghiền rượu
chẳng hạn. Không có người nào vừa biết ăn biết nói là ghiền
thuốc ghiền rượu ngay, phải do buổi đầu tập tành lâu ngày thành khó
quen, có sức mạnh thúc đẩy người ta phải tiếp tục đi theo con đường
đó, tức thành bệnh ghiền. Khi đã thành bệnh ghiền thì chi
phối hoàn toàn đời sống của họ, có đôi khi chán sợ cái bệnh của
mình, muốn dừng bỏ mà không thể bỏ được. Ðó là sức mạnh của
nghiệp dẫn.
Nghiệp có chia nghiệp lành và nghiệp dữ, nhưng cả hai đều
còn cuốn hút trong vòng luân hồi. Người biết tu cần gây tạo nghiệp
lành, chừa bỏ nghiệp dữ. Ðó là chúng ta biết chọn lựa sự luân
hồi tốt đẹp an ổn trong tương lai. Như ở thế gian:
Có người muốn tìm thú vui tao nhã một mình, hằng ngày tập uống trà chơi
kiểng làm thơ, lâu rồi thành thói quen, thiếu những thứ ấy nghe buồn
bực khó chịu, đã thành nghiệp trà thơ.
Có người thích thú vui cờ nhạc cùng vài tri kỷ đánh nhạc chơi cờ,
dần dần thành thói quen, thiếu nó cũng không chịu nỗi, đã thành
nghiệp cờ đàn.
Có người ưa cái vui say sưa nhộn nhịp vào cao lâu tửu điếm hý
trường, mãi thành thói quen, không đến đó cảm nghe sầu não bứt rứt,
đã thành nghiệp rượu chè.
Có người thích đỏ đen rủ nhau đến sòng bạc, nhiều lần trở nên
ghiền cờ bạc, đã thành nghiệp cờ bạc.
Những nghiệp này đều do người tập tành mà có, không phải ngẫu
nhiên được thành. Trong những nghiệp ấy có cái thanh bai tao nhã, có cái
vui vẻ nhẹ nhàng, có cái hư người mất nết, chung qui đều do người
tập lấy rồi chịu lấy. Thế là chúng ta trọn quyền định lấy số
phận hiện tại và vị lai của mình.
Nghiệp xuất pháp từ thân miệng ý của chúng ta. Nơi thân có
giết hại, trộm cướp, dâm dật (tà dâm); nơi miệng có nói dối trá,
nói ly gián, nói hoa mỹ, nói thô bạo; nơi ý có si mê, tham lam, nóng
giận. Những điều này dường như thói xấu ngàn đời đã mang sẵn trong con
người chúng ta. Chúng ta có mặt trên nhơn gian này là có nó theo, thói quen
nầy làm đau khổ chúng sanh, nên gọi là nghiệp ác. Biết dừng những
thói xấu ấy, hay chuyển cái xấu thành tốt là biết tu.
Tu có hai hạng: dừng nghiệp và chuyển nghiệp.
Tu Dừng Nghiệp
Tu xa xưa không biết đạo lý, chúng ta buông lung thân chạy theo sự
giết hại, trộm cướp, dâm dật (tà dâm) làm đau khổ chúng sanh, tức là
nghiệp ác nơi thân. Giờ đây biết đạo lý, dừng lại không làm
nữa, là tu dừng nghiệp của thân. Trước kia nơi miệng ưa nói dối trá,
nói ly gián, nói hoa mỹ, nói thô bạo để lường gạt, chia lìa, say mê,
bực tức khiến người đau khổ, là nghiệp ác của miệng. Hiện nay
biết chận đứng ngăn đón không cho nói những lời ấy nữa, là tu dừng
nghiệp nơi miệng. Khi xưa ý phóng túng chạy theo si mê, tham lam,
nóng giận lôi cuốn bản thân mình vào đường lầm lạc khổ đau và làm
thương tổn đến kẻ khác, là nghiệp ác của ý. Giờ nầy chúng ta
biết hối lỗi, bắt buộc nó dừng lại, là tu dừng nghiệp của ý.
Biết dừng ba nghiệp làm ác, tức ba nghiệp lành, vì không còn
làm đau khổ chúng sanh. Ta không tạo nghiệp khổ với chúng sanh, làm gì bị
nghiệp ác lôi cuốn chúng ta đến nơi đền trả. Song biết dừng
nghiệp ác mới là cái thiện tiêu cực, cần tiến lên tu cái
thiện tích cực chuyển nghiệp.
Tu Chuyển Nghiệp
Chuyển nghiệp tức là thay nghiệp xấu đổi thành nghiệp tốt.
Thay vì ngày xưa thân ưa giết hại, trộm cướp, dâm dật (tà dâm) nay
thích làm việc cứu mạng, giúp đỡ, trinh bạch, là chuyển nghiệp ác
thành nghiệp thiện của thân. Ngày xưa miệng thường nói dối trá,
nói ly gián, nói hoa mỹ, nói thô bạo, nay đổi thành nói chơn thật, nói hòa
hợp, nói đúng lý, nói nhã nhặn, là chuyển nghiệp ác thành
nghiệp thiện của miệng. Ngày xưa ý hay si mê, tham lam, nóng
giận nay sửa lại thành trí huệ, buông xả, từ bi, là chuyển nghiệp
ác thành nghiệp thiện của ý. Tu mười nghiệp lành này có tánh
cách xây dựng kiến tạo sự an vui tốt đẹp cho mọi người. Ở nhơn
gian nếu được đa số người biết tu chuyển nghiệp thì, nhơn
gian không cầu hạnh phúc mà hạnh phúc cũng tự đến. Biết tu chuyển
nghiệp thì hiện tại được an lành, tương lai cũng vui vẻ.
Tuy còn luân hồi, song người biết tu dừng nghiệp và chuyển
nghiệp hằng đến những nơi vui vẻ cao sang. Ngược lại, kẻ buông lung ba
nghiệp làm ác thì thường tới lui những nơi đau khổ cơ cực. Như nhơn
loại hiện sống trên quả địa cầu này, có những nơi vui tươi sung sướng,
cũng có những nơi đau khổ nghèo nàn, đến trong một nước một xứ cũng
vẫn có kẻ khổ người vui. Quan sát qua những cảnh tượng ấy, chúng ta thấy
tùy nghiệp duyên gây tạo, chịu khổ vui sai biệt của chúng sanh thật
quá rõ ràng.
Mặc dù thế, muốn giúp sức mạnh cho việc tu dừng nghiệp và
chuyển nghiệp được kết quả viên mãn, điều kiện tiên
quyết phải Quy Y Tam Bảo và giữ gìn Năm Giới.
Quy y là đặt định hướng cho cả cuộc đời của mình. Chúng ta tập tu dừng
nghiệp và chuyển nghiệp để nhằm mục đích gì? Phải chăng vì
muốn tiến theo gót chân của đức Phật, sống theo chánh pháp của Ngài,
nương sự hướng dẫn của chư Tăng, để cuộc sống của chúng ta càng ngày
càng vươn cao. Suốt đời chúng ta nhằm thẳng mục tiêu ấy mà tiến, không
còn thái độ ngại ngùng chần chờ, dũng cảm cương quyết vượt mọi
trở ngại, đến được mục tiêu mới thôi. Ðược vậy mới đúng tinh thần
Quy Y Tam Bảo, tức là xứng đáng sự trở về nương tựa Phật, Pháp và
Tăng.
Giới luật là hàng rào ngăn chận ba nghiệp khỏi rơi vào hố tội
lỗi. Gìn giữ năm giới là trạm nghỉ chân đầu trên con đường tu dừng
nghiệp. Thiếu trạm nghỉ chân này, chúng ta không đủ sức khỏe leo lên
ngọn núi thiện nghiệp an toàn. Năm giới cũng là nấc thang đầu
tiên trên cây thang giải thoát. Mọi sự an lành siêu thoát đều bắt
nguồn từ năm giới. Cho nên là Phật tử phải xem trọng và tuân giữ năm
giới, như người gìn giữ hòn ngọc quý, trong khi đi xuyên qua bọn
người bất lương.
Bởi quy y giữ giới có tánh cách quan yếu như thế, nên mọi
người muống trở thành Phật tử trước phải phát nguyện quy y Tam Bảo và
gình giữ năm giới. Ðầy đủ quy giới rồi, chúng ta mới có thể tiến tu
lên các pháp môn khác.
Tu Ra Khỏi Luân Hồi (Giải Thoát)
Chúng ta đã biết chủ động lực trong vòng luân hồi là nghiệp, thân
miệng ý là nơi xuất pháp nghiệp, nghiệp còn thì còn luân hồi,
nghiệp sạch thì hết luân hồi. Nhưng trong ba nghiệp, ý
nghiệp là chủ động, vì có ý nghĩ mới sai khiến miệng nói
thân làm. Muốn sạch nghiệp, chúng ta trước phải lo tảo thanh ý
nghiệp. Không chịu dọn dẹp ý nghiệp, chỉ lo tu tập thân
miệng, là làm việc ngọn ngành.
Thuở xưa, Tổ Hoài Nhượng ở Nam Nhạc thường thấy Thiền sư Ðạo Nhất
(Mã Tổ) ra tảng đá ngồi thiền suốt ngày. Tổ đến hỏi: Ðại đức
ngồi thiền để làm gì? Ðạo Nhất thưa: Ðể làm Phật. Hôm sau, Tổ
lấy hòn gạch đến trên phiến đá bên cạnh tảng đá Ðạo Nhất ngồi
thiền, Tổ mài. Ðạo Nhất thấy lạ hỏi: Thầy mài gạch để làm gì? Tổ
đáp: Mài để làm gương. Ðạo Nhất thưa: Mài gạch đâu thể làm
gương được? Tổ bảo: Ngồi thiền đâu thể thành Phật được. Ðạo
Nhất hỏi: Vậy làm thế nào mới phải? Tổ bảo: Như trâu kéo xe, nếu xe
không đi, đánh xe là phải, đánh trâu là phải? Ðạo Nhất lặng thinh.
Xe là cái bị động, trâu là chủ động. Muốn điều khiển xe đi phải
nhằm thẳng cái chủ động thôi thúc nó. Cắm đầu đánh đập thôi thúc cái
bị động chỉ là việc phí công vô ích. Thân miệng là cái bị động,
ý là chủ động, không chịu thúc liểm ý, cố kềm thân ngồi ngay
thẳng hay khiến miệng đọc tụng mãi, cũng là việc không công.
Thúc liểm kềm hãm ý đâu hạn cuộc hình thức ngồi hay đứng, mà
cả bốn oai nghi, đi đứng ngồi nằm, đều phải theo dõi luôn. Hằng theo dõi
như thế, khả dĩ chận đứng được ý nghiệp. Ý nghiệp dừng
lặng rồi, thân nghiệp, khẩu nghiệp theo đó được thanh tịnh.
Thế nên, những phương pháp tu trong đạo Phật như: tụng kinh, trì chú,
niệm Phật, tọa thiền ... đều nhắm thẳng chận đứng ý
nghiệp. Các vị Tôn túc thường dạy: "Tụng kinh không loạn tưởng mới
đầy đủ phước đức, trì chú tâm không xao động mới linh nghiệm,
niệm Phật nhất tâm mới được vãng sanh, tọa thiền tâm lặng lẽ
mới được chánh định. Không loạn tưởng, tâm không xao động, nhất tâm, tâm
lặng lẽ đều la trạng thái dừng lặng của ý nghiệp. Tuy pháp tu có
thô tế khác nhau, song cứu cánh đều gặp nhau ở chỗ dẹp sạch ý
nghiệp. Ðứng về mặt cứu cánh nhìn nhau, chúng ta dung thông tất cả
pháp tu không thấy gì chướng ngại. Từ cửa phương tiện phê bình nhau,
chúng ta thấy dường như có mâu thuẫn lẫn nhau. Cho nên người thông là nhìn
đến chỗ cứu cánh, kẻ hạn cuộc chỉ thấy ở phương tiện. Phật
pháp như ngôi nhà nhiều cửa, bất luận từ cửa nào miễn vào được trong
nhà đều gặp nhau, đồng chứng kiến những sự vật hiện có như nhau.
Băn khoăn thắc mắc tại sao người đó đi cửa kia không đi cửa này, hoặc cố
tình khuyến dụ họ trở lại đi cửa này, đừng đi cửa kia, là tâm
trạng của kẻ học Phật sơ đẳng. "Hảy tự chọn lấy một cửa nào
thuận tiện với vị trí đang đứng, cố gắng tiến vào nhà sẽ được
lợi ích", đây là lời khuyên của người thông suốt.
Phạm vi quyển sách này, chúng tôi chỉ giải thích đơn giản về hai
phương pháp Niệm Phật và Tu Thiền. Nói khác đi là lối tu của Tịnh
Ðộ Tông và Thiền Tông, để hành giả nương theo đó tiến tu giải
thoát luân hồi sinh tử.
Phương Pháp Niệm Phật
Phương pháp niệm Phật có Quán tưởng niệm Phật và Trì danh
niệm Phật. Quán tưởng niệm Phật căn cứ kinh Quán Vô Lượng Thọ,
Trì danh niệm Phật căn cứ kinh A Di Ðà. Trì danh niệm Phật được đại
đa số Tăng Ni và Phật tử tu tập, nên ở đây riêng giải thích.
Pháp môn tu tập nào của Phật dạy đều có chia Phương tiện và Cứu
cánh. Phương tiện ví như cửa cổng, cứu cánh ví như ông chủ nhà. Muốn
gặp ông chủ nhà, trước tiên chúng ta phải từ cửa cổng đi vào nhà. Nếu
không nương cửa cổng thì khó vào đến nhà, huống là gặp ông chủ. Cửa
cổng là điều kiện tiên quyết để gặp ông chủ, thiếu
điều kiện này thì sự mong muốn khó thành đạt. Phương pháp Trì danh
niệm Phật muốn được kết quả viên mãn, trước phải khéo ứng dụng
phương tiện của nó.
Thế nào là phương tiện của pháp Trì danh niệm Phật?
Phương tiện Trì danh niệm Phật là dùng "tình cảm để dẹp
tình cảm", nói cụ thể hơn "dùng gai lể gai". Cho nên cửa
phương tiện của nó là Ưa (hân) và Chán (yểm) hay hồi hướng. Bởi vì
phàm phu chúng ta hằng đắm mê theo dục lạc của thế gian, thường ngày tâm
niệm cứ tung tăng đuổi theo dục lạc, muốn tâm niệm lại, song không
tài nào dừng nổi. Thấy thế, Phật thương xót vì chúng ta nói kinh A Di
Ðà, chủ yếu trong ấy, trước diễn tả cảnh trang nghiêm đẹp đẽ ở cõi
Cực Lạc, sau chê trách sự khổ sở nhơ nhớp ở cõi Ta bà, khiến chúng sinh
sanh tâm ưa thích cõi Cực Lạc, chán ngán cõi Ta Bà. Tâm ưa chán đến cao
độ thì niệm danh hiệu Phật dễ được nhất tâm. Nếu không biết
ưa chán, dù có niệm Phật cũng chỉ niệm trong loạn tưởng mà thôi.
Thế nên, Ưa Chán là cửa cổng đi vào ngôi nhà Cực Lạc.
Ưa cái gì?
Thể theo kinh A Di Ðà, đức Phật Thích Ca định nghĩa cõi Cực Lạc là:
"Chúng sanh trong cõi này không có các thứ khổ, chỉ thọ các
điều vui, nên gọi là Cực Lạc".
Lại nữa, cõi Cực Lạc nào là hàng rào, lưới giăng, hàng cây đều làm
bằng bốn thứ báu - bạc, vàng, lưu ly, pha lê - ao nước rất ngon lành đầy
đủ tám thứ công đức, trên bờ ao có nhà lầu xây bằng bảy báu - bạc, vàng,
lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, mã não - dưới ao có hoa sen lá to bằng
bánh xe, hoa nở phát ánh sáng tùy theo sắc và nhã hương thơm ngào ngạt, có
nhạc trời, có mưa hoa, có chim hót thành tiếng nó pháp ...
Ðức Phật chủ cõi Cực Lạc hiệu A Di Ðà - Vô lượng quang, vô lượng
thọ - đang vì chúng nói pháp. Dân chúng ở cõi này toàn là hàng Thanh
Văn, Bồ Tát tu hành đều được không còn lui sụt và có những vị chỉ
còn một đời được bổ đi làm Phật ..., cho nên ở đây thảy đều là
hạng người lành bậc thượng."
Cõi này chứa đựng đầy đủ những yếu tố mà chúng ta đang ưa thích,
nào là thuần vui không khổ, trang nghiêm đẹp đẽ, bảy báu dẫy đầy, thầy
thánh bạn hiền, sống lâu khoẻ mạnh, ăn mặc tùy ý, lui tới thong dong
... Những hình ảnh này khiến chúng ta khao khát, ước mơ, đó là Ưa.
Chán cái gì?
Phần sau kinh A Di Ðà, đức Phật Thích Ca nói:
"Chư Phật ở mười phương cũng khen ngợi ta rằng: Phật Thích Ca Mâu Ni
hay làm được việc ít có khó làm, hay ở thế giới Ta bà xấu ác đầy
dẫy năm thứ nhơ nhớp - kiếp người nhơ nhớp, kiến chấp nhơ nhớp,
phiền não nhơ nhớp, chúng sanh nhơ nhớp, mạng sống nhơ nhớp - được
thành Phật, vì chúng sanh nói pháp khó tin".
Ðó là Phật chê trách cõi Ta bà nhơ nhớp xấu xa khiến chúng ta nhàm
chán xa lánh. Hai bên đã trưng bày rõ ràng trước mắt chúng ta, một bên thì
tốt đẹp trang nghiêm sang trọng vui vẻ, một bên nhơ nhớp xấu xa khổ đau,
để chúng ta sinh tâm ưa thích bên vui, chán ngán bên khổ. Ðó là cửa
cổng ưa chán để tiến vào ngôi nhà Cực Lạc.
Vì ưa thích say mê cảnh đẹp cõi Cực Lạc, chán ngán cái xấu xa nhơ nhớp
cõi Ta Bà, nên tâm phiền rộn lăng xăng chạy theo dục lạc thế gian của
chúng ta dần dần khô lạnh, chừng đó áp dụng pháp tu Trì danh niệm Phật
mới thành công. Song muốn tâm ưa chán lên đến cực điểm, hằng ngày
chúng ta phải phát nguyện hồi hướng.
Hồi hướng thế nào?
Hồi là xoay lại, hướng là hướng đến. Chúng ta xoay sự ưa thích
quyến luyến nơi cõi Ta Bà hướng đến cõi Cực Lạc để chán
cõi Ta Bà, mến ưa Cực Lạc. Ví như:
Mỗi khi ra đường thấy rác rến sình lầy nhơ nhớp, chúng ta phải
khởi nghĩ: Cõi Ta Bà thực là bẩn thỉu nhơ nhớp đáng chán, cõi Cực Lạc
toàn bảy báu trang nghiêm trong sạch đáng ưa thích. Ta nhất định phát
nguyện sanh về Cực Lạc để khỏi thấy sự nhơ nhớp này nữa. Ðó là
hồi nhơ nhớp hướng trong sạch.
Hoặc khi chúng ta gặp những nghịch cảnh bức bách khổ đau liền khởi
nghĩ: Cõi Ta Bà nhiều đau khổ bất như ý, ở Cực Lạc hoàn toàn an vui
mãn nguyện. Ta phải chán cõi này, mong mỏi được vãng sanh về cõi Cực
Lạc mới toại nguyện. Ðây là hồi đau khổ hướng Cực Lạc.
Hoặc khi ra chợ hay xóm làng nghe những lời chửi bởi nguyền rủa, chúng
ta khởi nghĩ: Ở Ta Bà thường nghe những lời xấu ác, cõi Cực Lạc hằng
nghe tiếng nhạc trời, tiếng chim nói pháp ... ta rất chán ngán cõi Ta
Bà, nguyện sanh về Cực Lạc để hằng ngày được nghe pháp. Ðây là
hồi phiền não hướng về Bồ Ðề.
Hoặc trong tình huynh đệ bằng hữu có xảy ra việc phản trắc, chúng
ta khởi nghĩ: Ở cõi Ta Bà không thực tốt khiến ta phiền não, cõi
Cực Lạc toàn là người lành bậc thượng đáng kính mến. Ta nhất định
nguyện sanh về bên ấy để được làm bạn với những người toàn
thiện. Ðây là hồi bạn ác hướng bạn lành.
Hoặc vì sinh kế vất vả nhọc nhằn mà kiếm miếng ăn không
đủ, tấm mặc chẳng lành, chúng ta khởi nghĩ: Ở Ta Bà làm khổ nhọc mà
không đủ ăn không có mặc, cõi Cực Lạc muốn ăn có ăn muốn mặc có mặc,
khỏi lo lắng mệt nhọc. Ta quyết định nguyện sanh về Cực Lạc
để được ăn no mặc ấm mà không nhọc nhằn. Ðây là hồi đói rách
hướng no ấm ...
Tóm lại, mọi trường hợp mọi hoàn cảnh vừa xảy đến với chúng
ta, chúng ta khéo lợi dụng để hồi hướng về Cực Lạc, khiến tâm
chán Ta Bà càng ngày càng mãnh liệt, lòng ưa Cực Lạc càng lúc càng tăng
trưởng. Ðó là chúng ta khéo tận dụng cách cửa phương tiện ưa chán
tiến vào ngôi nhà Tịnh Ðộ.
Thế nào là cứu cánh của Pháp Trì danh niệm Phật?
Cũng kinh A Di Ðà dưới phần giới thiệu cõi Cực Lạc, đức Phật Thích
Ca nói:
"Nếu có người thiện nam thiện nữ nghe nói về Phật A Di
Ðà, chuyên trì danh hiệu, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm
ngày, sáu ngày, bảy ngày nhất tâm không loạn, người ấy khi chết được
Phật A Di Ðà và Thánh Chúng hiện ở trước. Người này khi chết tâm
không điên đảo liền vãng sanh về cõi Cực Lạc của Phật A Di
Ðà".
Người muốn vãng sanh về cõi Cực Lạc phải giữ niệm danh hiệu
đức Phật A Di Ðà, hoặc một ngày cho đến bảy ngày nhất tâm không loạn,
nhất định được vãng sanh về cõi Cực Lạc. Bởi vì hành giả đã chán
ngán cõi Ta Bà lắm rồi, một lòng hâm mộ cõi Cực Lạc, nên dùng sáu chữ A Di
Ðà Phật làm công phu tu trì hằng ngày. Dùng sáu chữ này làm sợi dây
xiềng niệt cổ con khỉ ý thức của mình, bắt buộc nó phải nằm im
một chổ. Tức là đi đứng ngồi nằm làm việc hay nghỉ ngơi đều
niệm danh hiệu Phật, hoặc niệm thầm, hoặc niệm ra tiếng tùy
hoàn cảnh. Kiên trì nắm giữ danh hiệu Phật không lơi lỏng, lâu ngày
ý thức sẽ kiệt quệ từ từ, cho đến một ngày nào đó sẽ lặn
mất. Ðó là niệm Phật được nhất tâm. Niệm Phật nhất tâm thì ý
nghiệp được lắng sạch, thân nghiệp khẩu nghiệp cũng theo đó sạch
luôn. Tức ứng hợp với câu "tam nghiệp hằng thanh tịnh đồng Phật vãng
Tây Phương". Ba nghiệp sạch hết, còn động lực nào lôi kéo chúng
ta đi vào đường luân hồi.
Song chúng ta cần giảng trạch nhất niệm và nhất tâm. Niệm Phật chỉ
còn nhất niệm, được vãng sanh Tịnh Ðộ là sự. Niệm Phật đến
nhất tâm, thấy tự tánh Di Ðà duy tâm tịnh độ là lý.
Chỉ chuyên trì sáu chữ Di Ðà không có niệm nào khác chen vào, mượn
một niệm dẹp tất cả niệm. Duy giữ một niệm niệm Phật, đi
đứng ngồi nằm liên tục không gián đoạn, đến đây là nhất niệm.
Nương niệm này cầu vãng sanh về cõi Phật Di Ðà chắc chắn sẽ mãn
nguyện, là sự niệm Phật.
Dùng lục tự Di Ðà làm diệu dược trị mọi chứng bệnh loạn
tưởng, khi bệnh lành thuốc cũng bỏ. Tức là niệm Phật đến chỗ
vô niệm, chỉ còn nhất tâm chơn như, là nhất tâm. Niệm Phật đến
vô niệm thì thấy tự tánh là Di Ðà, bản tâm là Tịnh độ, hiện bày
trước mắt. Tự tánh của mình xưa nay hằng giác, nên nói "Vô lượng
quang", Tự tánh chưa từng sanh diệt, thoát ngoài vòng thời gian, nên
nói "Vô lượng thọ". Bản tâm mình xưa nay hằng thanh tịnh do
vọng tưởng dấy động nên bị nhiễm ô, theo nghiệp dẫn đi trong lục
đạo, vọng tưởng lắng sạch chỉ còn một tâm thanh tịnh là tịnh độ, nên
nói "Tâm Tịnh Thì Ðộ Tịnh". Ðây là lý niệm Phật, đúng
với tinh thần Ðại thừa Phật giáo, cùng các pháp tu khác đồng gặp nhau.
Song buổi đầu, người niệm Phật cần đầy đủ niềm tin vào lời giới
thiệu của đức Thích Ca, trông cậy hẳn vào cõi Cực Lạc của đức Phật A
Di Ðà, gá tâm nơi đó để gầy dựng, lòng ưa chán. Không cần lý
luận cõi Cực Lạc có hay không, chỉ tin quyết rằng đức Phật Thích Ca
không dối gạt ta, y theo lời Ngài dạy tu hành chắc chắn sẽ được lợi ích
lớn. Ðủ lòng tin rồi, chuyên tâm trì niệm ngày đêm không lơi lỏng,
chẳng kể ngày giờ năm tháng, chỉ khi nào được nhất tâm mới thôi. Ðồng
thời đối duyên xúc cảnh khéo phát nguyện hồi hướng về Cực Lạc hành
giả đầy đủ lòng tin (tín), chuyên tâm trì niệm (hành), thường xuyên
phát nguyện hồi hướng (nguyện), là đầy đủ điều kiện tu trì
pháp môn Trì danh niệm Phật.
Tuy nhiên, nhìn pháp môn tu nào, chúng ta phải nhìn thẳng cứu cánh, đừng
mắc kẹt ở phương tiện. Vì phương tiện là tùy cơ, căn cơ chúng sanh
có cao thấp sai biệt, đức Phật vì lợi ích khắp quần sanh, nên lập cửa
phương tiện có nhiều sai biệt. Chúng ta đừng chấp vào trình độ
mình để phê bình kẻ khác, cũng đừng vin khả năng kẻ khác trở lại khinh
rẻ mình. Phải biết căn cơ trình độ mình, chọn lấy pháp tu thích hợp
với mình, là người khôn ngoan nhất.
Phương Pháp Tu Thiền
Tu Thiền là lối tu hướng thẳng vào nội tâm, dẹp sạch vọng tưởng
suy tính của mình. Muốn dẹp sạch vọng tưởng cũng có chia phương tiện
và cứu cánh.
Phương tiện của Thiền là "dùng trí tuệ dẹp tình cảm".
Tức là nhìn thẳng vào sự vật quan sát phân tích để thấy sự tạm bợ giả
dối của chúng, khiến lòng lạnh nhạt không còn phiền rộn say mê. Do
đó, hành giả dụng công tu tập tâm để được an định.
Thiền có nhiều pháp khác nhau, có thiền ngoại đạo, thiền
Phật giáo. Trong thiền Phật giáo đại loại chia làm hai: Thiền đối trị
và thiền tuyệt đối.
Thiền đối trị:
Tùy theo sự đắm nhiễm của chúng sinh, Phật dạy phương pháp đối trị, như
theo bệnh cho thuốc. Nếu hành giả có bệnh gì nặng, vị Thiện tri
thức phải biết rõ để chỉ dạy pháp tu đối trị đúng bệnh. Song
phải khéo ứng dụng phương tiện của Thiền, sự tu hành mới mong đạt
kết quả như nguyện.
Phương tiện của Thiền đối trị là, nhìn thẳng trên hình tướng sự
vật thấy rõ nó sinh diệt vô thường và biết thực do nhơn duyên hòa
hợp mà có. Dùng trí tuệ quán sát vạn vật vô thường, duyên hợp, không
có cái gì lâu bền và nguyên thể. Lòng đắm nhiễm nhơn đó từ từ
lắng dịu. Tiếp sau, chúng ta mới ứng dụng lối tu đối trị.
Pháp tu đối trị có nhiều môn, hành giả nặng nề bệnh gì thì
dùng môn đó đối trị. Như người nhiều vọng tưởng dùng "Sổ tức
quán" đối trị, người nặng sắc dục dùng "Bất tịnh quán" đối
trị, người thường nóng giận dùng "Từ bi quán" đối trị, người quá
ngu si dùng "Giới phân biệt quán" đối trị v.v... Trong những
phương pháp đối trị đều dùng đề mục để tham cứu quán sát lâu
ngày thuần thục tâm an định. Ở đây chỉ đơn cử một pháp phổ thông
nhất là "Sổ tức quán".
Nếu người nhiều vọng tưởng nên tu pháp thiền "sổ
tức". Sổ tức là đếm hơi thở. Ðây là pháp tu thông dụng nhất trong
giới tu thiền. Vì vọng tưởng là bệnh chung của tất cả chúng sanh,
muốn ngăn chận nó trước phải nhờ phương pháp đếm hơi thở. Hơn nữa,
người mới tập tu thiền trước phải điều hòa hơi thở, hơi thở là
mạch sống thiết yếu nhất của con người. Ðiều hòa được hơi thở
là bước thành công đầu của sức khỏe và an tâm. Thân khỏe mạnh tâm an ổn,
hành giả mới nỗ lực tiến thẳng vào pháp môn thâm diệu được.
Pháp sổ tức là tên pháp đầu của "Lục diệu pháp môn". Trong
sáu pháp môn nhiệm mầu này, đầu tiên là "Sổ tức" (đếm hơi
thở), kế Tùy Tức (theo hơi thở), Chỉ (dừng lại một chỗ), Quán (quán
sát), Hoàn (xem xét trở lại), Tịnh (lóng lặng trong sạch). Hành giả ứng dụng
pháp thiền "đếm hơi thở" phải tu từ thô đến tế,
đầy đủ sáu pháp mới được viên mãn. Sáu pháp này có công hiệu dừng
lặng mọi vọng tưởng một cách thần diệu, nên gọi là Lục
Diệu Pháp Môn. Ở đây chỉ giải thích đơn giản sáu pháp như sau.
Sổ Tức. Hành giả sau khi ngồi ngay thẳng đúng pháp và sử dụng
lối nhập thiền đầy đủ, liền ứng dụng pháp đếm hơi thở để
trụ tâm. Hành giả hít hơi vô cùng thở ra sạch, đếm một. Hít vô cùng
thở ra sạch đếm hai. Mãi thế, đến mười bỏ, đếm trở lại
một. Nếu giữa chừng tâm tán loạn quên số phải đếm lại một. Phải
chú tâm vào số và hơi thở một cách tinh tế, tâm vừa xao lãng liền
chỉnh lại ngay. Nếu tâm xao xuyến khó kềm, nên dùng cách đếm
nhặt hơn. Hít hơi vô đến cùng đếm một, thở ra sạch đếm hai.
Ðếm đến mười bỏ, trở lại một, như cách đếm ở trên. Ðến
khi nào ngồi nửa giờ, một giờ mà đếm không lộn, không quên hơi thở, là
tâm đã tạm yên. Liền tiến lên pháp khác.
Tùy tức. Hành giả bỏ không đếm số nữa, chỉ chú tâm theo
hơi thở. Hơi thở vào đến đâu biết đến đó, hơi thở ra cũng
biết rành rõ. Hơi thở dài, ngắn, lạnh, nóng đều biết rõ mồn
một. Theo dõi hơi thở, như người chủ nợ theo dõi con nợ vậy. Khi ngồi thời
gian bao lâu, tâm cũng chỉ duyên theo hơi thở không xao lãng, tức là tâm an
định. Cần chuyển lên pháp kế:
Chỉ. Hành giả không theo hơi thở vô ra nữa, tâm dừng trụ tại
mũi để xem hơi thở ra vào. Tâm an trụ một chỗ không xao động, hằng
thấy hơi thở ra vào không lửng quên. Suốt thời gian ngồi, tâm vẫn an trụ,
không loạn động, nên tiến lên pháp tế hơn:
Quán. Hành giả không an trụ yên lặng, khởi quan sát hơi thở.
Hơi thở vô rồi ra không dừng trụ, tức là vô thường. Thân mạng nương hơi
thở mà sống, nên cũng đồng là vô thường. Hơi thở ra vào thời gian thật
ngắn ngủi, thân mạng tựa vào hơi thở cũng chợt có chợt không. Hơi thở và
không có chỗ nơi, hơi thở ra không xứ sở. Chỗ nơi xứ sở không thì,
hơi thở làm gì thật có. Thân mạng nương hơi thở mà còn, thật quá tạm bợ
giả dối. Quán sát như thế thì tâm chấp thật ngã tan biến. Ðã không
còn chấp thân là thật là lâu dài, cần phải sang pháp khác:
Hoàn. Hành giả chiếu soi lại tâm hay quán sát trước, xem
nó ra sao và ở đâu? Soi tới soi lui vẫn không thấy hình bóng nó. Hằng
chiếu soi lại tâm năng quán, tâm này tự lặng lẽ, tức là an định.
Ðến đây phải tiến nấc chót:
Tịnh. Hành giả buông cả chiếu lại tâm năng quán, chỉ còn
một tâm thanh tịnh tỉnh sáng. Không loạn tưởng, chẳng hôn trầm, thuần một
tâm lặng lẽ tỉnh sáng. Hằng sống với cái tỉnh sáng này, tức là chỗ cứu
cánh của Lục Diệu Pháp Môn. Ðến đây dòng ý thức sanh diệt
đã tan biến, những vọng nghiệp do ý thức gây tạo cũng trong
sạch, còn gì phiền rộn lôi cuốn hành giả đi vào đường luân hồi.
Hành giả khéo ứng dụng đúng mức Lục Diệu Pháp Môn là đầy đủ
diệu dụng thoát khỏi luân hồi sanh tử. Song lúc tu hành ắt còn gặp
nhiều khó khăn trở ngại và những tướng trạng lạ phát hiện, hành giả
cần được thầy có thực nghiệm hướng dẫn, mới hy vọng tu tiến dễ
dàng.
Thiền Tuyệt Ðối
Pháp Thiền này do Phật Thích Ca ở trong hội Linh Sơn đưa cành hoa lên,
Tổ Ca Diếp cười chúm chím rồi được truyền tâm ấn. Truyền thừa
mãi đến vị Tổ thứ 29 là Bồ Ðề Ðạt Ma, Ngài sang Trung Quốc
truyền cho Tổ Huệ Khả, lan dần sang Việt Nam, Triều Tiên, Nhật
Bản và tiếp tục đến hiện nay. Ðến Trung Quốc, Tổ Ðạt Ma dõng
dạc tuyên bố pháp này là:
"Giáo Ngoại Biệt Truyền, Trực Chỉ Nhơn Tâm, Kiến Tánh Thành
Phật" (truyền ngoài giáo lý, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh
thành Phật). Qua câu tuyên bố của Ngài, chúng ta thấy rõ tánh cách tuyệt
đối của nó.
Thiền này tạm nói có hai lối tu: hoặc từ KHÔNG và CÓ, hoặc từ CÓ ra
KHÔNG. Từ không vào có là, trước biết rõ tất cả pháp giả dối không
thực, sau nhận ra chơn tâm chân thực là thực thể tuyệt đối bất sanh
bất diệt, hằng sống với nó là đạt đạo. Từ có ra không là, trước nhận
ra ông chủ chơn tâm, sau nhìn ra các pháp đều hư giả tạm bợ, thường
sống với ông chủ của mình là thấy tánh thành Phật.
Từ Không Vào Có
Hành giả dùng trí tuệ Bát nhã soi thấy sự vật do duyên hợp mà có, tự
tánh là không, không có tự tánh, chỉ có giả tướng duyên hợp. Nhìn trên
giả tướng thấy rõ tự tánh của nó là không, tánh không nên duyên hợp giả
có. Duyên hợp tạm gọi là sanh, duyên tan tạm gọi là diệt. Sanh,
diệt không có thực thể, chỉ là việc duyên hợp duyên tan. Sanh
không thực, diệt không thực thì khắp nhơn gian còn vật nào thực đâu?
Hằng dùng trí tuệ chiếu soi như thế, thấy tất cả sự vật quả là
cái bóng hòn bọt, tự thể là không. Thế nên, cửa thiền người
đời gọi là cửa KHÔNG.
Nương cửa Bát Nhã tiến vào trong nhà thấy được ông chủ là thành
công. Tức là từ cái giả nhận ra lẻ thực, dứt sạch vô minh ngàn đời, sống
với trí tuệ viên mãn là giác ngộ giải thoát. Lầm lẫn những giả tướng
cho là thật, bỏ quên cái thật muôn đời là vô minh. Giả tướng thì sanh
diệt, thực thể chẳng hề sanh diệt, nên nhận ra và sống được
với thực thể, là giải thoát luân hồi sanh tử. Ðây là "chỉ thẳng
tâm người, thấy tánh thành Phật". Tánh là chỉ thực thể sẵn có nơi
mọi chúng sanh, không do tạo tách thành không do tu tập được. Người khéo
biết mọi cái giả rồi, tự nhận ra thực thể này, hằng sống với nó
là "thấy tánh thành Phật" hiển bầy rành rõ nơi đây vậy.
Song nói pháp mà không có pháp, vì nó không còn đối đãi đối trị, nên
nói "pháp vốn không pháp" (pháp bổn vô pháp). Không còn khuôn trong
hình thức nào. Nên không có cách "Nhập, trụ, xuất", như các pháp
thiền khác. Ðọc hết các tập sách nói về thiền này, chúng
ta không tìm thấy một phương thức tu tập thứ tự. Vì thế, đừng đòi hỏi
một phương thức tu tập, hành giả cần tận dụng chiếc gươm Bát nhã
dọn sạch khu rừng kiến chấp thì Bảo sở hiện bày. Băn khoăn tìm
kiếm phương pháp tu tập, chúng ta sẽ hoàn toàn thất vọng. Hãy nghe
câu hỏi của Tổ Huệ Khả cầu xin nơi Tổ Ðạt Ma:
- Tâm con chẳng an, xin Hòa Thượng dạy con phương pháp an tâm?
- Ðem tâm ra, ta an cho.
- Con tìm tâm không được.
- Ta đã an tâm cho ngươi rồi.
Tổ Huệ Khả lãnh hội yếu chỉ.
Ðọc đoạn sử này, chúng ta hoàn toàn vô vọng, tìm đâu ra
"pháp an tâm". Lời cầu xin tha thiết của Tổ Huệ Khả, đáp lại
bằng câu nửa hư nửa thực của Tổ Ðạt Ma, khiến chúng ta bối rối khó
hiểu. Song ngay lúc đó, Tổ Huệ Khả lãnh hội được. Thực là việc
là đời ít có.
Trong lúc tọa thiền bị vọng tưởng dấy khởi nhiễu loạn khiến
tâm bất an. Băn khoăn tìm kiếm một phương pháp an tâm là một điều
tối cần yếu. Cho nên nghe ở đâu có bậc thiện tri thức tu thiền,
liền khăn gói lên đường đến cầu pháp an tâm. Nếu học được
pháp này hay pháp nọ để an tâm, rốt cuộc cũng chỉ là lấy nóng trừ
lạnh, dùng sáng đuổi tối mà thôi. Tất cả thứ đối đãi ấy đều là
tướng giả dối không thực. Tổ Ðạt Ma không dạy theo lối ấy, chỉ bảo
"đem tâm ra, ta an cho". Nhìn thẳng lại cái tâm nhiễu động lăng xăng
kia, nó biến mất không còn tăm dạng. Tổ Huệ Khả đành thưa "con
tìm tâm không được". Tổ Ðạt Ma chỉ cần nói thêm một câu "ta đã
an tâm cho người rồi". Tổ Huệ Khả liền thấy lối đi.
Từ thuở nào, chúng ta cứ tin rằng cái tâm suy nghĩ lăng xăng là thật có,
hôm này tìm lại không thấy bóng dáng, mới biết nó là không. Biết nó
không thì nó đâu còn khả năng lôi cuốn quấy nhiễu chúng ta nữa. Chúng dấy
lên, ta không theo, tâm chẳng an là gì? Sở dĩ tâm ta chẳng an, vì vọng
vừa dấy lên ta tùy thuận theo chúng, nghĩ việc này chưa xong, tiếp
đến việc khác, chạy mãi không dừng. Nay đây, chúng vừa dấy lên, ta
biết là không, không theo, tự nó lặng mất, quả là "Diệu thuật an
tâm". Không nương một pháp, chẳng mượn một tướng, nhìn thẳng mặt
vọng tưởng tự nó biến tan như mây khói, đây là trực chỉ không
nương phương tiện. Ai khờ gì đuổi theo cái hư giả, cũng không khờ gì
cố tình trừ diệt, chỉ cần biết nó hư ảo không theo là đủ. Yếu
chỉ an tâm của Tổ Ðạt Ma là ở chỗ đó.
Có vị tăng hỏi Thiền sư Tông Mật (Khuê Phong): Thế nào là tu? Sư
đáp: "Biết vọng tức là tu". Thật là đơn giản mà quá đầy
đủ. Biết vọng không theo tâm tự yên lặng, là diệu thuật của môn
thiền này. Tuy nói tu mà không tu, vì có trừ có dẹp, có bồi bổ gì đâu?
Chẳng qua dùng trí tuệ soi thấu cái giả dối, tâm tự lặng lẽ tạm gọi
là tu.
Pháp tu không tu này, mở màn bằng trí tuệ, chung cuộc sống với tâm
thể nhất như Thiền sư Duy Tín đời Tống nói: "Trước ba mươi
năm, tôi thấy núi sông là núi sông. Sau gặp thiện hữu tri thức chỉ dạy,
tôi thấy núi sông không phải là núi sông. Nay được chỗ dứt sạch, thấy
núi sông là núi sông".
Trước ba mươi năm là lúc Sư chưa biết tu thiền, cái nhìn của Sư
cũng như tất cả cái nhìn của phàm phu khác: Thấy núi là thật núi, thấy
sông là thật sông, thấy người là thật người... Sau khi được thiện hữu
tri thức chỉ dạy, Sư nhìn núi sông không còn thật núi sông nữa, mà là hợp
thể giả dối do các duyên chung hợp, tự tánh rỗng không. Sư mở mắt
trí tuệ nhìn mọi vật, mãi đến nay mọi nhiễm ô dính mắc
đều dứt sạch, chỉ hiện bày lồ lộ một tâm thể thanh tịnh nhất
như. Ðến nay, Sư nhìn núi sông là núi sông, vì đã dứt sạch mọi
kiến chấp, mọi phân biệt. Quả là kẻ đi đến đích của quãng
đường chim vậy.
Chúng ta sẽ thấy lối tu này cụ thể hơn, qua lời thầy Tri Viên hỏi
Thiền sư Duyên Quán:
- Khi giặc nhà khó giữ thì thế nào?
- Biết được chẳng phải oan gia.
- Sau khi biết được thì sao?
- Biết đến nước vô sanh.
- Nước vô sanh đâu không phải chỗ y an thân lập mạng?
- Nước chết không chứa được rồng.
- Thế nào là nước sống chứa rồng?
- Dậy mòi chẳng thành sóng.
- Bổng khi đầm nghiêng núi đổ thì thế nào?
Sư bước xuống giường thiền, nắm đứng thầy Tri Viên bảo:
- Chớ nói ướt góc cà sa của lão tăng.
Giặc nhà khó giữ là vọng tưởng do sáu chú giặc (lục tặc) dẫn vào.
Biết vọng tưởng là giả dối, nó không hại ta được, trái lại ta đã
điều phục chúng. Sau khi biết nó, tự nó dừng lặng, càng lâu càng
lặng là an trụ chỗ vô sanh. Nhưng đừng thấy đây là cứu cánh, mà phải
chết chìm trong ấy, cần phải phấn phát tỉnh giác, hằng tỉnh sáng đầy
đủ diệu dụng mà không động, mới thật nước sống chứa rồng. Ðến
đây dù trời nghiêng đất sụp cũng không lay động tâm thiền giả, đó là
"không ướt góc Ca sa của lão Tăng".
Thành quả của lối tu này, không phải được thần thông mầu nhiệm,
biến hóa tự tại, mà quý ở chỗ tám gió (bát phong) thổi chẳng
động. Tám gió là:
Lợi - Ðược tài lợi tâm không xao xuyến.
Suy - Gặp suy hao lòng vẫn thản nhiên.
Hủy - Bị hủy nhục lòng không bực tức.
Dự - Ðược công kênh tâm vẫn như không.
Xưng - Ðược ngợi khen tâm vẫn bình thản.
Cơ - Bị chê bai lòng không biến đổi.
Khổ - Gặp đau khổ lòng vẫn an nhiên.
Lạc - Ðược việc vui tâm không xao động.
Cho đến, dù đối đầu với hoàn cảnh nào, gặp việc khó khăn gì,
tâm vẫn như như bất động, đây là thành công viên mãn của người tu
thiền.
Từ Có Ra Không
Do nhận được chơn tánh nơi mình, nhìn ra vạn vật đều là tướng giả
dối do nhơn duyên hòa hợp. Chân tánh là thật tướng mà không tướng, rời cả
nhơn duyên và tự nhiên, giác không tăng mê cũng chẳng giảm, còn nói gì là
thường hay vô thường. Linh minh tỉnh sáng, hằng có mặt nơi mọi chúng
sinh, mà chúng sinh tự bỏ quên, chúng sinh nhật được, gọi là Phật. Chúng
ta hãy nghe Thiền sư Ðại An hỏi Tổ Bá Trượng:
- Con muốn cầu biết Phật, thế nào là phải?
- Thật là người cỡi trâu, tìm trâu.
- Sau khi biết thế thì thế nào?
- Như người cỡi trâu về đến nhà.
- Chẳng biết trước sau gìn giữ thế nào?
- Như người chăn trâu cầm roi dòm chừng, không cho nó ăn lúa mạ của người.
Sư lãnh hội ý chỉ.
Chúng ta đã có Phật mà không dám tự nhận, mãi chạy đi thưa hỏi, như
người cỡi trâu tìm trâu. Nhận được chân tánh nơi mình, không còn băn
khoăn tìm kiếm, như người cỡi trâu về đến nhà. Biết được
chưa phải xong việc, cần bền chí chăm nom bảo vệ cho nó thuần
thục, như chú mục đồng cầm roi chăn trâu. Ðây là yếu chỉ tu hành của
người trước nhận ra ông chủ.
Sau này Thiền sư Ðại An dạy chúng:
"Cả thảy các ngươi đến Ðại An này tìm cầu cái gì? Nếu muốn
làm Phật, các người tự là Phật. Sao lại gánh Phật sang nhà bên cạnh tìm,
luống tự nhọc nhằn. Ví như con nai khát nước mà chạy theo ánh nắng,
biết bao giờ được khế hợp.
Cả thảy các người mỗi người có hòn ngọc quý vô giá, từ cửa
con mắt phóng quang soi sáng núi sông cây cỏ, từ cửa lỗ tai phóng quang
nhận lãnh phân biệt tất cả âm thanh lành dữ, sáu cửa ngày đêm hằng
phóng quang sáng, cũng gọi là phóng quang tam muội. Các người tự chẳng
biết, lại nhận bóng thân tứ đại. Nó là vật do trong ngoài giúp đỡ
không dám chỉnh nghiêng, như người gánh nặng đi qua cầu khỉ, dè dặt sợ sảy
chân ..."
Qua hai đoạn dạy chúng của Thiền Sư Ðại An, chúng ta thấy Phật tánh
đã sẵn nơi mình, khéo nhận là được, đừng chạy tìm cầu bên ngoài, càng
tìm cành nhọc nhằn vô ích. Phật tánh hiển lộ đầy đủ nơi sáu căn
của chúng ta, cần nhìn lại là thấy. Khổ nỗi, chúng ta không khi nào dám
nhận nó, mà hằng nhận thân tứ đại là mình. Thân tứ đại do duyên trong,
ngoài giúp đỡ, thiếu duyên là nó hoại liền, như người gánh nặng đi
qua cây độc mộc kiều, hớ chân là té nhào. Quên cái chơn thật, nhận cái
giả dối thì phút giây nào cũng lo âu sợ sệt, ngại cơn vô thường bất
chợt đến với nó. Nhận được cái chơn thật bất biến, mọi sợ
sệt lo âu đều tan mất, thì còn gì hại được chân tánh này, quả là
niết bàn hiện tại trần gian.
Có vị tăng hỏi Thiền Sư Thạch Cựu:
- Thế nào là hạt châu trong tay Ðịa Tạng?
- Trong tay ông lại có chăng?
- Con chẳng hội.
- Chớ dối đại chúng.
Sư nói tụng:
Bất thực tự gia bảo
Tùy tha nhận ngoại trần
Nhật trung đào ảnh chất
Cảnh lý thất đầu nhơn
Dịch:
Báu nhà mình chẳng biết
Theo người nhận ngoại trần
Giữa trưa chạy trốn bóng
Kẻ soi gương mất đầu
Chúng sinh một bề chạy theo ngoại cảnh quên bẵng bản tâm. Chỉ cần hỏi
hạt châu trong tay Bồ Tát Ðịa Tạng, quên lửng trong tay mình sẵn có hạt
châu. Hạt châu ấy theo dõi chúng ta như bóng theo hình, mặc dù ta lăn lộn
sáu đường, lang thanh trong tam giới, hạt châu hằng có mặt trong túi áo chúng
ta. Chúng ta si mê bỏ quên nó, như chàng Diễn Nhã xem gương thấy bóng đầu
mặt hiện trong gương, úp gương lại bóng đầu mặt mất đi, hoảng la lên
"tôi mất đầu". Chàng ta phát cuồng ôm đầu chạy la "tôi mất
đầu". Tất cả chúng ta cũng thế, hằng ngày cứ chạy theo vọng
tưởng suy tính, có nó là có mình, một khi vọng tưởng lặng xuống, hoảng
la "mất mình". Vọng tưởng là cái chợt sinh chợt diệt, không
cội gốc nơi chốn, mà chấp là thật mình. Khi vọng tưởng lặng xuống,
mọi công dụng thấy nghe hiểu biết vẫn nguyên vẹn, mà nói "mất
mình". Thử hỏi ai là kẻ biết mất mình?
Khéo nhận ra ông chủ mới khỏi bị khách trần lừa gạt. Thiền Sư Pháp
Diễn nói:
"Ta có một vật chẳng thuộc phàm chẳng thuộc thánh, chẳng thuộc tà
chẳng thuộc chánh, muôn việc khi đến tự nhiên hiệu lệnh".
Ông chủ của chính mình là thực thể tuyệt đối, không còn thấy có
hai bên phàm thánh tà chánh đối đãi. Tuy không có niệm phân biệt
đối đãi, song xúc duyên chạm cảnh liễu tri rành rõ. Ông chủ này chưa từng
sanh chưa từng diệt, nên gọi là pháp thân bất diệt. Bởi không sanh
diệt, nên chơn thật thường hằng, mà không có tướng trạng, thường ví
như hư không. Từ Pháp thân nhìn ra thân tâm vạn vật đều thấy tạm bợ
giả dối, không có bằng mảy tơ sợi tóc nào chơn thật, nên nói: như bọt,
bóng, sương mù, điện chớp ... Ði đứng nằm ngồi đều sống với ông
chủ này là tu thiền Vô sanh.
Thiền sư Sư Nhan ngồi một mình trên tảng đá, thỉnh thoảng gọi:
"Ông chủ nhân!". Tự đáp: "Dạ!", Bảo: "Phải tỉnh tỉnh
đừng để người lừa!".
Tự gọi tự đáp dường như việc đùa cợt chơi. Chính là lối tu tự
nhắc mình, không quên ông chủ. Ðừng để ngoại cảnh đánh lừa, hằng tỉnh
sáng với ông chủ ngàn đời của mình. Quả là pháp tắc muôn đời cho những
người biết sống trở lại mình. Biết trở lại mình là về quê
hương, là đến Bảo sở, là Cùng tử được cha trao sự nghiệp, là
niết bàn, là Giác ngộ, là giải thoát ... Trăm ngàn danh từ khác nhau
đều chỉ một việc "trở về với mình". Ðúng với câu
"thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn". Bởi vì trở về được
với mình, là muôn việc bên ngoài đều theo đó giải quyết xong.
Pháp thiền này có đặt thời khóa tu tập cố định không?
Thiền này không đặt nặng thời khóa (chỉ tùy hoàn cảnh thuận
tiện), mà chú trọng tâm niệm. Trong tất cả thời, mọi hoạt
động đi đứng ngồi nằm, làm việc nghỉ ngơi, cần thấy rõ từng tâm
niệm của mình, để không theo, hoặc hằng sống với ông chủ, không bị
ngoại duyên lôi cuốn. Những phút giây nào quên lửng tâm niệm mình, coi
như phạm tội buông lung đáng trách. Cho nên nói "đi đứng, nói nín, hái
củi, lặt rau, thổi lửa, nấu cơm đều là thiền". Người tu
thiền này, mới nhìn dường như họ thong thả lơi lỏng, thực ra họ
miên mật từng tâm niệm. Thiền này là cội gốc thành Phật tác Tổ.
Một hôm Vương Thường Thị vào thăm Thiền Viện của Tổ Lâm Tế,
đến nhà Ðông sang nhà Tây, thấy chúng đông đảo, ông hỏi Tổ Lâm
Tế:
- Chúng đông đảo thế này, có dạy tụng kinh, tọa thiền chăng?
- Không.
- Dạy họ làm gì?
- Dạy họ làm Phật làm Tổ.
Ðấy là pháp tu tinh tế vi mật trong tâm niệm, không thuộc hình thức
bên ngoài. Tổ Lâm Tế cũng nói: "Kẻ ngu cười ta, người trí biết
ta". Kẻ phàm phu khó hiểu nổi lối tu này, bậc trí giả khả dĩ thông
suốt. Lối tu này không có cấp bậc phương tiện, chỉ có tướng mạo, nên
người tu khó nhận, khó thấy sự tiến bộ của mình. Do đó, đòi hỏi
người tu phải lập chí sắt đá, mới mong có ngày thành công.
Tuy nhiên, cũng có những người học lóm phái thiền này, ngoài
miệng nói bô bô, mà trong tâm không khi nào biết thúc liểm, chỉ
mượn lời Phật Tổ nói, để che lỗi của mình. Bọn này là kẻ trộm
trong Phật pháp mắc tội không nhỏ.
Biện Minh
Ðọc phần Thiền tuyệt đối ở trên, đa số độc giả sanh nghi:
- Ðạo Phật chủ trương vô ngã, ở đây bảo trở về "Ông chủ của
mình" là có ngã, tức trái hẳn giáo lý.
Trong kinh Phật hẳng quở chấp Thường chấp Ðoạn của ngoại đạo, ở đây
nói "Ông chủ thường hằng không biến đổi" đâu không đồng chấp
Thường của ngoại đạo?
Chúng tôi theo thứ tự giải quyết hai nghi vấn này:
- Ðạo Phật chủ trương vô ngã, là vô ngã ngay nơi thân ngũ uẩn này. Bởi
vì Bà la môn căn cứ vào thọ tưởng hành thức chấp làm ngã, Phật
biết rõ nó là tướng vô thường sanh diệt nên nói vô ngã. Phật chia
nó làm bốn thứ, đặt câu hỏi: Nếu chấp thọ làm ngã thì tưởng hành
thức là cái gì? Ngược lại các thứ kia cũng thế. Nhằm trên năm uẩn chấp
làm ngã, thật sai lầm đáo để. Năm thứ này là tướng duyên hợp, vô
thường sanh diệt, chấp nó là "ta" làm sao khỏi luân hồi sanh tử.
Vì thế, kẻ chấp năm uẩn làm ngã. Phật bảo vô minh, Ngài phản đối và
nói là vô ngã.
Ông chủ của thiền này nói, cũng ngay nơi thân năm uẩn này, song là
thể chẳng sanh chẳng diệt lặng ngầm trong ấy. Thể này, khi thọ
tưởng hành thức lặng mất, nó mới hiện bày đầy đủ. Nó chẳng rời
thọ tưởng hành thức, nhưng khi các thứ này hoạt động, tìm nó không ra.
Ông chủ này là thể tịch tỉnh giác tri chưa từng xao động biến hoại.
Chúng ta thử nghiệm xem, khi ngồi thiền hay ngồi một mình chỗ vắng,
thọ tưởng hành thức lặng mất không hoạt động, ta vẫn tỉnh sáng mắt tai
... vẫn tri giác như thường. Cái gì chịu trách nhiệm tri giác trong lúc
này, nếu không phải tánh giác tịnh tỉnh thường còn bên trong. Thế
nên, ở đây nói "ông chủ" vẫn không trái với chủ trương vô ngã
của Ðạo Phật. Có sống thực, chúng ta mới thấy rõ điều này, đừng mắc
kẹt trên văn tự cải lẽ suông vô ích.
- Ngoại đạo chấp "thường" cũng căn cứ trên thân năm uẩn mà
chấp. Thân năm uẩn vốn là tướng sanh diệt vô thường, cái vô thường mà
chấp là Thường, nên bị Phật quở trách. Ông chủ ở đây nói, là thực
thể chưa từng động, chưa từng sanh diệt, không có tướng mạo, vượt
ngoài đối đãi hai bên, nói "thường hằng không biến đổi" là
gượng gạo mà nói thôi. Vì thực thể tuyệt đối, còn dùng ngôn ngữ
đối đãi nào phô diễn nó được. Có nhận thấy tánh giác này, chúng ta mới
tin lẽ "thường hằng" của nó. Phàm cái gì có tướng mạo, sinh
diệt làm sao bắt nó vô thường. Nếu không có tánh giác này, cái gì
chứng minh A La Hán, cái gì thành Phật, sau khi thọ tưởng hành thức
đều lặng mất? Vì lẽ đó, ở đâ nói "Ông chủ thường còn chẳng
biến hoại", không trái với lý vô thường của Phật nói, cũng
không thuộc chấp "thường" của ngoại đạo, mà là chủ yếu của
Phật giáo.
Kết Luận
- Những vấn đề đã trình bày qua, chúng tôi cố gắng cô đọng trong
một khuôn khổ rất nhỏ hẹp, giống như việc "lấy thúng úp voi",
khó tránh khỏi lỗi khó hiểu và thiếu sót. Chúng tôi chỉ mong độc
giả nhận được then chốt của mỗi vấn đề, cần đi sâu vào chi
tiết, sẽ nhờ những quyển kinh sách khác, hoặc nhờ sự dắt dẫn của
Tăng, Ni hay Thiện hữu. Ôn lại then chốt thiết yếu, có thể nói:
Phật là người đã giác ngộ và giải thoát sanh tử, đó là vị trí căn
bản của Ngài. Chúng ta đừng xê dịch, đừng tô điểm, đừng ép buộc,
Ngài phải rời chỗ căn bản ấy.
Phật pháp là những lời giảng dạy chỉ ra lẽ thực: Lẽ thực trên hình
tướng sự vật là nhơn quả, lẽ thực trong sự cấu tạo kết hợp là duyên
sanh, lẽ thực thầm lặng trong bản thể là chân không hay Phật tánh.
Học Phật là tiến bước trên con đường giác ngộ, là nhận hiểu
phán xét những lẽ thực của Phật dạy, đem chỗ nhận hiểu ứng dụng vào
cuộc sống con người. Thực hiện được những điều này, cần nhờ cặp
mắt trí tuệ sáng suốt mới thành công.
Tu Phật là ứng dụng những lẽ thực đã nhận xét được vào cuộc sống hằng
ngày của mình. Gỡ sạch mọi phiền não kiến chấp đang chói buộc
khắn chặt trong tâm tư chúng ta, đem lại sự an lạc ngay trong hiện tại và
miên viễn ở vị lại. Chẳng những thế, tu Phật còn có nghĩa vượt ra ngoài
vòng đối đãi sanh diệt, thoát khỏi mọi khuôn khổ hạn cuộc, làm
người tự do tự tại.
Với những điểm chủ yếu trên, chúng ta nhận thức chắc chắn sâu xa,
là trong tay đã có sẵn ngọn đuốc sáng, trên con đường về quê ắt
không đến nỗi lạc lầm. Giá trị của Phật pháp là biết để
hành, không phải biết để nói. Thật hành sâu chừng nào, càng thấy
giá trị Phật pháp cao chừng ấy. Biết để nói, là người trình bày
đủ mọi thức ăn, mà bụng vẫn đói, là nhân viên phát ngân trong ngân
hàng cả ngày đếm tiền, khi ra về chỉ hai tay không. Chúng tôi ước
mong độc giả của quyển sách này không đến nỗi như thế.
(Trích trong "Bước Ðầu Học Phật" của Thiền Sư Thích
Thanh Từ)