Bố thí đối
trị lòng tham, bố thí là tu hạnh xả ly. Người tham tức là người keo
kiệt, đã không biết bố thí cho người khác, lại còn muốn người khác bố
thí cho mình, đó là loại người hà khắc, bỏn xẻn, keo kiệt. Cho nên muốn
không còn tâm tham thì phải biết bố thí, vì bố thí là pháp đối trị tâm
tham lam của mỗi người. Nên nói: “Xả đắc xả đắc”. Quý vị có xả mới có đắc, nếu quý vị không xả thì sẽ không có đắc. Trong Kinh Địa Tạng nói: “Xả nhất đắc vạn báo”,
nghĩa là xả đi một xu tiền sẽ có lại được vạn xu tiền. Thực ra khi bố
thí, chúng ta không nên có tư tưởng được báo đáp gấp vạn lần như thế,
không nên nói: “tôi bố thí một đồng tiền, sau này tôi sẽ được giàu sang
phú quý tột đỉnh, hoặc sẽ được lợi ích nào đó”. Không nên có suy nghĩ
như thế. Vì sao vậy? Vì nếu mang tâm cầu được báo đáp thì đó chính là
tham lam, nói: “tôi đã bố thí, tôi đang thực hành hạnh xả ly, tương lai
tôi sẽ được quả báo hậu hĩ, được rất nhiều lợi ích.” Không phải tôi hủy
báng quý vị, nhưng quý vị làm như vậy còn tệ hơn kẻ cho vay nặng lãi, vì
tâm niệm như thế chẳng khác nào cho vay lãi suất cao. Quý vị bố thí một
đồng, nhưng lại muốn mai sau được báo đáp vạn đồng, không phải cho vay
nặng lãi thì là gì?
Vậy muốn tu hạnh bố thí, chúng ta phải
thực hành như thế nào? Bố thí chính là thiên chức, là bổn phận mà chúng
ta nên làm, do vậy không nên có tâm cầu báo đáp, tuyệt đối không mưu cầu
gì trong việc bố thí này, như thế mới gọi là tịnh hạnh! Quý vị nghe đến
đây, hiểu rõ được giá trị của sự bố thí là bất khả tư nghì rồi. Như tôi
có từng nói: “Là người xuất gia, tôi tuyệt đối không lễ bái Bồ-tát Vi
Đà.” Có lẽ quý vị sẽ nghĩ tôi có tư tưởng như thế là rất không bình
thường: “Vì sao Hòa Thượng không chịu lễ Bồ-tát Vi Đà? Ngài là một vị hộ
pháp mà! Nếu Hòa Thượng không lễ bái Bồ-tát, Ngài sẽ không hộ pháp cho
Hòa Thượng thì làm sao đây?” Để tôi bảo cho quý vị nghe, sở dĩ tôi nghèo
như thế là vì không mong muốn Ngài hộ pháp cho mình mà chỉ mong muốn
Ngài hộ pháp cho người khác. Tại sao tôi không cần Ngài hộ pháp cho
mình? Vì nếu tôi là người chân chánh tu hành thì dù tôi không bảo thì
Ngài vẫn phải hộ pháp cho tôi, vì Bồ-tát phải làm tròn trách nhiệm của
mình. Còn như tôi không tu hành gì cả mà chỉ khấu đầu cúi lạy Bồ-tát vài
cái xin Ngài đến hộ pháp và Ngài liền đến hộ pháp cho tôi, nếu Bồ-tát
mà như vậy thì tôi sẽ cho rằng Ngài không đủ tư cách. Vì sao vậy? Vì
Ngài như thế là tham ô và cũng là người bán pháp! Người ta chỉ khấu đầu
mình vài cái, mình liền hộ cho họ; người ta không khấu đầu, mình liền
làm trái trách nhiệm, đó chẳng phải là tham ô sao? Quý vị thử nghĩ xem,
tôi là người tu đạo, tôi không hướng về Ngài khấu đầu, Ngài cũng sẽ hộ
pháp cho tôi; còn như tôi không chịu tu hành, dù có bái lạy Ngài, Bồ-tát
cũng sẽ không hộ cho tôi. Đó là lý do vì sao tôi không lạy Ngài. Và đây
cũng chính là tư tưởng, tông chỉ của tôi.
Giảng tới đây, quý vị là những người
nghiên cứu Phật pháp, nhất định phải thấu triệt chân ý Phật pháp, không
nên mơ mơ hồ hồ suốt ngày lễ Phật mà không hiểu gì cả, chư vị Bồ-tát
thấy chúng ta tu hành kiểu này, các Ngài sẽ không khỏi bật cười. Vì sao?
Các Ngài sẽ nói: “Ây da! Người này thật là mờ mịt, không thể giáo hóa
được! Miệng nói là không có tâm tham, vậy mà tối ngày cứ cúi lạy mình,
cầu được phát tài, cầu thăng quan tiến chức, lại cầu mọi việc đều được
thuận lợi, bình an. Các vị nói tư tưởng như thế sẽ như thế nào…, khi tâm
các vị được bình an thì còn cầu đến tôi để làm gì? Khi trong lòng các
vị không còn những tật xấu tham sân si, thì tự nhiên mọi việc đều thuận
lợi, cần gì phải cúi lạy tôi? Thật là… đáng thương! Đáng thương!” Quý vị
thử nghĩ xem, Bồ-tát đang nhập định mà thấy quý vị vừa lạy vừa cầu như
thế làm cho các Ngài cũng phải bật cười.
Như vậy, khi chúng ta đê đầu đảnh lễ
Phật, đừng nên mong cầu điều gì cả. Có phải khi cần cầu gì mới đến lễ
Phật, khi không cầu thì không lễ Phật? Trong Phật giáo, cách suy nghĩ
này cần phải sửa đổi. Những đạo lý tôi giảng, quý vị nên dùng trí tuệ
của mình lại suy nghĩ. Nếu tôi giảng không đúng thì quý vị cứ nêu lên,
chúng ta sẽ cùng nhau nghiên cứu lại vấn đề, tôi luôn tiếp nhận và lắng
nghe ý kiến của quý vị. Quý vị có quyền nói: “Hòa thượng giảng sai rồi,
chỗ này không phải như thế…” Nếu lý luận của quý vị chính xác hơn, tôi
sẽ tuyệt đối nghe theo.
Bởi vậy nói đến bố thí, chớ nên có tâm cầu báo đáp. Người xưa có câu liễn đối rất hay:
Độc thư tuy vị thành danh
Cứu cánh nhân cao phẩm nhã
Vi thiện bất kỳ hoạch báo
Tự nhiên mộng ổn thần thanh.
Nghĩa là:
Học hành tuy chưa được thành danh
Rốt cuộc vẫn người nhân phẩm tốt
Làm thiện không đợi ngày báo đáp
Tự nhiên thần sáng mộng an lành.
“Học hành tuy chưa được thành danh”: Nghĩa là học hành tuy chưa thi đỗ trạng nguyên, chưa thành tựu được cái danh cho mình. Cái danh này theo người xưa là: “Mười năm song lạnh không người hỏi, bảng hổ danh đề thiên hạ hay.”
Tuy chưa đỗ đạt thành danh khiến thiên hạ biết đến, nhưng cũng là người
đọc qua rất nhiều sách; do đọc nhiều sách nên “rốt cuộc vẫn là người
nhân phẩm tốt”, nhân cách thanh cao, phẩm chất nhã nhặn, nói chung là
tính cách tốt. Nhã là rất tốt. Phải làm thế nào để được nhân cách cao
nhã? Nhờ đọc sách thánh hiền nên con người không còn tính thô tháo nữa.
“Làm thiện không đợi ngày báo đáp”:
Khi làm việc thiện thì không nên kỳ vọng, chờ đợi. Chữ “kỳ” này chính
là chờ đợi. Làm được chút việc thiện liền ở ngay đó chờ đợi. Chờ đợi cái
gì? Chờ đợi quả báo tốt lành. Quý vị không nên mong đợi quả báo tốt
lành đến với mình, cũng không nên quan tâm có hay không có quả báo tốt.
Tuy không kỳ vọng, nhưng “Tự nhiên thần sáng mộng an lành”, dù
có nằm mộng cũng không thấy ác mộng, bởi vì các vị làm điều thiện nên
trong tâm rất an lành không có bạo lực; mà đã không bạo lực thì sẽ không
thấy ác mộng. “Á! Tôi mộng thấy có người cầm súng bắn tôi.” Không hề có
chuyện đó, mình không cầm súng giết người thì cũng không ai muốn giết
mình. Trong lòng quý vị rất bình an nên giấc ngủ cũng an lành, nếu có
nằm mộng đi nữa cũng là mộng tốt, mộng bình an. “Thần thanh”, Thanh
nghĩa là minh mẫn, tỉnh sáng. Tinh thần quý vị vô cùng sáng suốt, nên
cũng sẽ rất an vui; tinh thần an vui chính là tỉnh sáng, đầu óc sẽ không
mê muội.
Nói như thế, nên khi chúng ta bố thí
phải nghĩ rằng đó là trách nhiệm của mình. Quý vị nên biết điều tôi nói
là một đạo lý, lý luận, không giống như có người nói: “Quý vị nên phát
tâm bố thí đi, bố thí thì công đức của quý vị sẽ vô lượng.” Tôi nói cho
quý vị biết, vô lượng chính là không có gì cả, vì không có (vô) lượng
mà! Nên quý vị chớ nghe lời này, nếu quý vị cả tin thì tôi bảo đảm quý
vị vĩnh viễn không hiểu gì về Phật pháp cả. Quý vị chớ nên cố nói: “Ồ,
vị đại cư sĩ này, ông ta đã làm được rất nhiều việc tốt.” Rất nhiều là
bao nhiêu? Quý vị thử đem ra cân xem, Ồ! Không có. Vậy phải nên thế nào?
Việc làm công đức này, không thể nói là không có công đức, có thì có
nhưng không nên có tâm chấp vào đó. Cho nên nói:
Hữu tâm vi thiện
Tuy thiện bất thưởng
Vô tâm vi ác
Tuy ác bất phạt
Thiện dục nhân kiến
Bất thị chân thiện
Ác khủng nhân tri
Tiện thị đại ác.
Nghĩa là:
Chấp tâm làm thiện, nên thiện không ứng;
Vô tâm tạo ác, nên ác không trừng.
Thiện muốn người thấy, không phải chân thiện;
Ác sợ người hay, chính là đại ác.
Nếu quý vị hiểu rõ ý hai câu này rồi thì
thời pháp hôm nay mới thật sự có ý nghĩa. Còn nếu quý vị nói rằng: “vấn
đề này chúng con sớm đã hiểu cả rồi, Hòa Thượng không cần giảng nữa,
chúng con không muốn nghe nữa đâu.” Chính vì quý vị không muốn nghe nên
tôi mới giảng cho quý vị nghe; còn nếu quý vị muốn nghe thì tôi lại
không giảng, tôi kỳ lạ như vậy đấy! Vị pháp sư này chỉ muốn giảng những
điều mà người ta không muốn nghe. Lúc nãy chẳng phải Thầy Hằng Do đã nói
rồi sao, Thầy ra sức giảng về những thói tật của chúng ta, có người
chịu không nổi phải bỏ chạy. Vị nào chạy thì cứ chạy, tôi không giữ lại;
vị nào ở thì cứ ở, tôi cũng không đuổi, đó chính là tông chỉ của tôi.
Bây giờ, chúng ta tìm hiểu về ba loại bố thí, đó là tài thí, pháp thí và vô úy thí.
Về tài thí, không phải
nói chúng ta đã bỏ ra vài ức bạc để xây cất chùa tháp như thế là có công
đức rồi đâu. Quý vị hãy xem hạnh bố thí của Chư Phật và Bồ-tát, có thể
làm những việc khó làm, xả những việc khó xả. Tài gồm có ngoại tài và
nội tài. Ngoại tài chính là nhà cửa ruộng vườn, quốc thành, thê tử…tất
cả đều có thể đem ra bố thí. Trong quý vị có ai có được dũng khí như thế
chăng, có thể đem toàn bộ tài sản kể trên ra bố thí? Quý vị bố thí
xong, tâm không chấp vào tướng bố thí, cũng không chấp vào ý niệm: “A,
mình đã mang toàn bộ tài sản ra bố thí”. Không nên có ý niệm này, phải
làm với tâm buông xả, đó mới là nền tảng của bố thí, hay còn gọi là làm
việc khó làm, xả điều khó xả.
Quốc: Đất nước của tôi, tôi cũng đem ra
bố thí, nhường lại cho người bên cạnh, không tham luyến nó nữa. Ai có
thể làm được điều đó? Quý vị xem đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từ bỏ mọi
vinh hoa phú quý, thậm chí vương vị thái tử cũng không màng, Ngài đến
Tuyết Sơn tu hành khổ hạnh suốt sáu năm trời. Mỗi ngày chỉ ăn một hạt
mè, một hạt lúa mạch, khổ hạnh đến độ thân hình gầy như một thân cây
khẳng khiu, chỉ còn da bọc xương. Đức Phật khi xưa cũng có thái tử phi,
nhưng một khi lòng đã quyết, Ngài cũng đem vợ ra bố thí: “Ta trả tự do
lại cho nàng, nàng muốn như thế nào thì làm như thế đó”. Nói về con thì
Đức Phật có La-hầu-la, nhưng Ngài cũng không chút bận lòng. Quý vị xem,
như thế mới đáng gọi là bậc trượng phu, bậc anh hùng hào kiệt, bậc siêu
việt nhân thế! Nên nói “sinh ra trong loài người, nhưng siêu xuất hơn
con người”. Người như vậy mới thành tựu đạo nghiệp, sáng lập ra Phật
giáo vĩ đại. Trên đây là giảng về những vật bố thí ngoài thân, gọi là
ngoại tài.
Bố thí nội tài, tức những vật trong thân
thì thân tâm tánh mạng, đầu mắt não tủy đều có thể bố thí, đều có thể
xả bỏ. Người hành Bồ-tát đạo nên xem tất cả đều là không, tất cả đều là
giả, vậy nên có người muốn xin đầu của ta, ta liền cắt đầu đưa cho họ.
Quý vị thử nghĩ xem, việc làm này khó hay không? Có người muốn xin đầu,
Ngài liền bố thí đầu cho họ. Hạnh Bồ-tát này thật không phải dễ làm, cho
nên Xá Lợi Phất khi nghe Phật khuyến khích thực hành Bồ-tát đạo, Ngài
cũng muốn bỏ nhỏ về lớn, hành đạo Bồ-tát, thế là Ngài cất bước lên
đường. Trên đường đi, thấy có người ngồi khóc bên vệ đường, Ngài liền
khởi tâm Bồ-tát nghĩ: “Ây da, người đang ngồi khóc này chắc chắn có nỗi
khổ tâm, mình nhất định phải giúp, nếu người ấy có gặp khó khăn gì mình
đều nên giúp họ giải quyết”. Nghĩ vậy, Tôn giả Xá Lợi Phất liền đến bên
ôn tồn thân thiết hỏi: “Ông ơi, ông có nỗi khổ gì có thể chia sẻ cho tôi
nghe được không? Bất luận khó khăn gì, tôi cũng sẵn lòng giúp ông. Ông
đừng khóc nữa!” Nghe vậy, người này mở to đôi mắt nhìn Xá Lợi Phất nói:
“Ngài thật sự có thể giúp tôi được sao?” Xá Lợi Phất đáp: “Tôi phát tâm
hành Bồ-tát đạo, nhất định sẽ giúp ông, có khó khăn gì xin ông hãy nói
tôi nghe, đừng ngại, ông nói đi!”
Người ấy bèn nói: “Tôi khóc là vì Mẹ tôi
bệnh, đi khám thầy thuốc, vị thầy thuốc này chuẩn mạch xong liền kê toa
mua thuốc, tôi đã đến hết các tiệm thuốc tìm mua loại thuốc này nhưng
đều không có, nên bệnh mẹ tôi chắc chắn không thể trị lành được.”
Tôn giả Xá Lợi Phất nghe xong, hỏi: “Rốt
cuộc ông muốn mua loại thuốc nào, có thể nói cho tôi biết không, tôi sẽ
giúp ông đi tìm.” Người này liền bảo: “Loại thuốc tôi cần chính là cặp
mắt của con người. Thầy thuốc nói chỉ có mắt người mới có thể trị lành
bệnh cho mẹ tôi, tôi đã đi khắp các tiệm tìm mua mắt nhưng không một
tiệm nào có bán mắt người.” Thời đó không giống như bây giờ, ngày nay có
ngân hàng mắt, nơi chuyên bảo quản mắt dùng để làm thuốc hoặc thay mắt
cho người khác; đương thời khoa học chưa phát triển như bây giờ, cho nên
thời đó chưa có loại thuốc mắt này.
Tôn giả Xá Lợi Phất bảo: “Không vấn đề
gì, ông cần dùng mắt, tôi sẽ bố thí cho ông một con mắt của tôi để ông
mang về trị bệnh cho mẹ.” Người đàn ông vui mừng: “Tốt quá! Ngài thật có
thể bố thí cho tôi sao? Không phải Ngài đang đùa đấy chứ?” Tôn giả điềm
tĩnh: “Ây, tôi nào có đùa với ông!” Nói xong, Ngài nhẫn chịu đau đớn
dùng tay móc con mắt của mình ra đưa cho người ấy. Người đàn ông cầm lấy
con mắt đưa lên nhìn qua nghía lại rồi nói: “A, Ngài móc nhầm rồi!” Tôn
giả ngạc nhiên: “Sao lại có thể nhầm chứ?” “Mẹ tôi cần là con mắt bên
trái, giờ Tôn giả lại đưa cho tôi con mắt bên phải là không đúng rồi!
Con mắt phải của Tôn giả không thể trị lành bệnh mẹ tôi được.” Nói xong,
người đàn ông liền quăng con mắt xuống đất, vừa quăng, con mắt liền vỡ
nát.
Con mắt vỡ nát, lần này Tôn giả Xá Lợi Phất thì không đạt rồi. Tôi thường nói có mấy câu thế này:
Nhất thiết thị khảo nghiệm
Khán nhĩ chẩm ma biện
Đối cảnh nhược bất thức
Tu tái tùng đầu luyện.
Nghĩa là:
Tất cả đều thử thách
Xem anh làm thế nào
Đối cảnh không nhận rõ
Phải luyện lại từ đầu.
Tôn giả Xá Lợi Phất móc mắt phải ra,
người đàn ông lại đòi mắt trái, Tôn giả luyến tiếc không nỡ; do luyến
tiếc không nỡ nên thối tâm Bồ-đề, than rằng: “Ôi, hạnh Bồ-tát thật khó
làm, chi bằng mình cứ làm một vị Tỳ-kheo bình thường!” Do thối tâm
Bồ-tát, nên Tôn giả trở lại làm một vị Tỳ kheo. Quý vị thấy, bậc đại trí
như Ngài Xá Lợi Phất khi hành hạnh Bồ-tát vẫn không thể xả được điều
khó xả, huống gì là người bình thường như chúng ta! Đừng nói đến chuyện
xin đầu, xin mắt của chúng ta, chúng ta chắc chắn không xả nổi đâu. Cho
nên hành hạnh bố thí đạt đến trình độ tự tại không phải là việc dễ làm.
Bố thí ngoại tài vẫn còn dễ, bố thí nội
tài không dễ chút nào. Bố thí nội tài chính là bố thí tất cả đầu, mắt,
não, tủy…thậm chí cả thân thể này. Quý vị nghĩ xem mình có thể làm được
đến trình độ Bồ-tát hạnh này không? Nếu làm không được thì nên nhớ kỹ
không được tự mãn, chớ nên nói rằng: “Ồ, Tôi là một bậc đại tu hành gì
gì đó! Hoặc tôi là người phát Bồ-đề tâm rộng lớn đây!” Quý vị phát tâm
Bồ-đề thì phải trải qua khảo nghiệm mới được. Nếu thì không đỗ, thì vẫn
còn là học sinh, chưa đủ tiêu chuẩn.
Lần này tôi đến Việt Nam có gặp một vị
Pháp sư, vị này có một người đệ tử quy y rất biết nói năng biện luận.
Người đệ tử này đã nói gì? Anh ta nói: “Những cư sĩ tại gia chúng con
cũng không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và
không uống rượu, như thế cũng giống như đã thọ giới rồi, cần gì phải đi
thọ giới nữa chứ?” Người đệ tử thường biện luận với Thầy mình như thế và
Thầy của vị ấy cũng chẳng có lời gì để nói. Lần này gặp tôi, anh ta
cũng giở bổn cũ ra biện luận với tôi: “Hàng tại gia cư sĩ chúng con
không nhất định phải thọ giới, chỉ cần không sát sinh, không trộm cắp,
không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu chính là giữ năm giới rồi!
Cần gì phải thọ giới làm chi!” Tôi đáp rằng: “Anh nói nghe rất có lý,
nhưng việc anh học ở nhà và học ở trường có khác nhau không? Anh học ở
trường sẽ có một tấm văn bằng tốt nghiệp, còn học ở nhà thì ai cấp văn
bằng cho anh?” Vừa nghe tôi giảng như thế, anh ta gật đầu: “Hòa Thượng
nói cũng có lý, cũng có chút ý nghĩa. Hay là chúng con cũng nên thọ ngũ
giới”. Chúng con phải qua khảo nghiệm, và phải được chứng minh. Tôi bảo:
“Vậy là anh đã hiểu rồi, tôi cũng không cần phải nói thêm gì nữa.”
Tôi tin trong quý vị cũng có người giống
trường hợp trên, cũng nói: “Những cư sĩ tại gia chúng tôi còn tu hành
hơn cả người xuất gia nữa, nên đâu cần phải bái sư làm thầy, đâu cần
phải thọ giới mà cũng tu được vậy. Chúng tôi là những đại cư sĩ, chúng
tôi tu hành còn hơn cả người xuất gia”. Vì sao quý vị nghĩ như thế? Mà
không nghĩ lại rằng: “Ôi, tôi rất hổ thẹn, tôi biết Phật pháp quá trễ
nên công đức tu hành cũng không bằng ai!” Vì sao quý vị luôn nghĩ mình
tốt hơn mọi người? Tập khí của con người thường là như vậy, mình vốn
không bằng người nhưng luôn cảm thấy: “Ồ, mình tốt hơn mọi người, mình
tốt hơn tất cả!” Quý vị thấy đó, các ngành các nghề đều gặp phiền phức
vì vấn đề này, ai cũng tự cho mình là thái sơn cả. Người có tâm cống cao
ngã mạn như thế thì Bồ-đề tâm của họ khó mà lớn mạnh được. Quý vị không
nên có tâm cống cao ngã mạn, không nên có tư tưởng độc tôn như vậy.
Đừng nên thấy rằng: “Trên trời dưới trời chỉ có mình ta là cao quý”. Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni có thể nói câu này, chúng ta là đệ tử Phật không
nên sanh tâm kiêu ngạo, không được cảm thấy: “À, mình cao hơn tất cả mọi
người.” Nếu thật sự quý vị có cao hơn tất cả mọi người thì được gì chứ?
Chi bằng bình đẳng với tất cả mọi người thì sẽ không ai ganh ghét mình
cả. Nếu quý vị cao hơn mọi người, thí như mọi người đều cao năm thước,
còn quý vị thì cao một trượng, khiến họ nhìn thấy không khỏi thốt lên:
“Ô, đây là cái gì vậy?” Mọi người đều cho rằng quý vị là một quái vật kỳ
lạ, đến khi có hội chợ liền đem quý vị đi triển lãm khắp nơi. Người như
vậy, tiếng Quảng Đông gọi là Cao Lão (lão cao to), tiếng Quan Thoại gọi
là Đại Cá Tử (tên khổng lồ). Quý vị bị đem đi triển lãm cũng chẳng có
lợi ích gì. Người tu hành nhất định phải đánh đổ cho được núi Tu Di. Núi
Tu Di là gì? Chính là tâm ngã mạn cống cao của chúng ta, chính là tâm
luôn cảm thấy mình hơn tất cả mọi người, mọi người không ai bằng mình.
Phải mau mau dẹp tâm ngã mạn cống cao, vì tâm niệm này làm chướng ngại
đạo nghiệp của chúng ta.
Bố thí còn có pháp thí.
Pháp thí chính là giảng kinh thuyết pháp, lấy pháp làm vật bố thí.
“Trong các pháp cúng dường, cúng dường pháp là tối thượng nhất”. Trong
tất cả các pháp bố thí, bố thí pháp cho người là việc rất quan trọng,
rất cần thiết. Bởi vì giả như có người hiểu rõ Phật pháp, nương theo
giáo pháp ấy mà tu hành, cho đến thành tựu Phật quả. Người thành Phật ấy
chính nhờ quý vị giúp đỡ mà thành. Quý vị giúp người thành Phật thì
người cũng sẽ giúp quý vị thành Phật, đó gọi là tự lợi và lợi tha. Nhưng
nói đi thì phải nói lại, quý vị đừng nên có tâm niệm này, không nên
nói: “Ồ, mình giúp đỡ người ta thành Phật, sau này người ta thành Phật
rồi, mình cũng sẽ được giúp thành Phật lại”. Mình chỉ mong mọi người
thành Phật, còn mình thì không thành Phật, đó mới thật là tâm nguyện của
Bồ-tát. Tôi luôn sẵn lòng giúp đỡ người khác thành Phật, quý vị có ai
muốn thành Phật không? Nếu vị nào muốn thành Phật, tôi sẽ hết lòng giúp
đỡ.
Giảng đến đây, tôi sẽ kể cho quý vị nghe
về vẻ ngông của tôi khi ở Mỹ. Ngông như thế nào? Tôi nói với mọi người
tôi là kỹ sư. Kỹ sư nghành gì? Tôi nói tôi là kỹ sư tạo Phật sống, tạo
Bồ-tát sống, tạo Tổ sư sống. Ai muốn làm Phật sống thì xin vào công
xưởng của tôi. Công xưởng gì quý vị biết không? Đó chính là Chùa Kim
Sơn. Chùa Kim Sơn không phải là của tôi, nhưng tôi chỉ tạm thời ở đó làm
kỹ sư thôi. Vậy ai muốn làm Bồ-tát sống, Tổ sư sống thì xin đến đây,
tôi không từ chối hay đuổi theo bất kỳ ai. Ai đã đến đây, nếu quý vị có
tư chất làm Tổ sư, tôi sẽ tạo quý vị thành Tổ sư; ai có tư chất làm
Bồ-tát, tôi sẽ tạo thành Bồ-tát; ai có tư chất làm Phật, tôi sẽ tạo
thành Phật. Vị Phật tôi tạo không phải là một tượng gỗ. Tôi không phải
là một kỹ sư chuyên tạo tượng Phật bằng gỗ, bằng sắt, bằng đồng hoặc
bằng vàng, bằng bạc… mà tôi tạo một tượng Phật sống bằng xương bằng
thịt. Nếu ai muốn làm, tôi xin sẵn lòng giúp đỡ người ấy. Tôi không chủ
trương xây dựng chùa chiền, chỉ chủ trương tạo Phật sống mà thôi.
Tạo bằng cách nào? Chính là không sợ
khổ, không sợ khó, không sợ không có tiền, chỉ cốt chân tu thật chứng,
tự thân dấn bước. Dù khổ thế nào cũng phải nhẫn chịu, khó thế nào cũng
phải bền chí, phải biết nhẫn, biết chịu. Cho nên có một số thanh niên
người Mỹ tuổi đời chưa quá ba mươi đều muốn đến đây thử xem rốt cuộc như
thế nào? Do vậy mà có hơn mười thanh niên người Mỹ đến xin xuất gia.
Trước kia, người phương Tây xuất gia cũng có nhưng rất ít, bắt đầu từ
bây giờ, họ đã có chút nhận thức về Phật giáo. Xưa kia nếu người phương
Tây muốn nghiên cứu về Phật pháp cũng không có kinh điển để xem. Hôm nay
chúng ta Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di khoảng bốn năm chục
người cùng nhau nghiên cứu, ngày ngày làm công việc phiên dịch, đó cũng
gọi là bố thí pháp. Chúng ta ở tại phương Tây truyền bá chánh pháp, mong
muốn chánh pháp được trường tồn, không muốn chánh pháp suy vi; Chúng ta
muốn mọi người đều tu đạo chứng quả, không có người nào không chứng và
mong ước các bậc thánh nhân chứng quả xuất hiện nơi đời. Công việc này
cũng là một phần trong bố thí pháp vậy.
Ngoài tài thí và pháp thí ra còn có vô úy thí.
Con người ai cũng có lúc gặp phải sợ hãi, cảnh tượng khủng bố trước mắt
này khiến người ta sợ đến run rẩy. Như sắp rớt xuống hố sâu, hoặc như
giẫm lên lớp băng mỏng trên sông… làm cho tâm thần người ta vô cùng bất
an. Hai chữ “thảm thức” (忐忑), theo chữ Hán thì chữ “thảm” (忐) bên trên là chữ thượng (上), bên dưới là chữ tâm (心), còn chữ “thức” (忑) bên trên là chữ hạ (下) bên dưới cũng chữ tâm (心).
Cả hai chữ đều có chữ tâm bên dưới, “thảm thức bất an” nghĩa là trong
lòng thấp thỏm không yên, tim nhảy thình thịch, không thể bình tĩnh
được, đó đều là biểu hiện của sự sợ hãi. Cho nên trong Tứ Thư có nói:
“Hữu sở khủng cụ, tắc bất đắc kỳ chánh.” Nghĩa là một khi quý vị sợ hãi
thì ngay lúc ấy sẽ không có chánh niệm; chánh niệm không có mặt thì rất
dễ đi lạc vào ngã tẻ, hoặc đi sai đường. Cho nên ngay lúc này cần có một
vị thiện tri thức đến an ủi, giúp đỡ họ. Vị thiện tri thức đến bảo với
họ rằng: “Bạn đừng quá sợ hãi như thế, bạn nên nhất tâm xưng niệm danh
hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát thì Bồ-tát liền đến giúp đỡ bạn. Bồ-tát Quán Thế
Âm luôn ban bố sự không sợ hãi, ai gặp sợ hãi, Bồ-tát đều có thể giúp
cho người đó hết lo sợ. Bạn nên nhất tâm xưng niệm danh hiệu của Ngài
thì bảo đảm sẽ không sao cả!” Đó gọi là an ủi. Hoặc quý vị có thể bảo
họ: “Bạn không nên sợ hãi, trên đời này còn có chân lý, có công lý, việc
này sẽ không gây rắc rối đến bạn đâu, đừng nên sợ hãi, chỉ cần tâm bình
tĩnh thì mọi việc sẽ tốt đẹp thôi!” Quý vị an ủi họ như thế, họ sẽ cảm
thấy không còn sợ hãi nữa, đó gọi là thí vô úy vậy.